Vương Bạc còn có một số chuyện chưa nói. Huyện Chương Khâu là quê của y, sau khi thất bại ở năm Đại Nghiệp thứ bảy thì phần lớn các thủ hạ của y đều lẩn trốn ở huyện Chương Khâu.
-Được!
Hách Hiếu Đức đập tay vào nhau, quyết đoán nói:
-Quyết định vậy đi!
Vương Bạc lại nhìn về phía Tôn Tuyên Nhã:
-Ý của Tôn soái thế nào?
Tôn Tuyên Nhã chậm rãi gật đầu:
-Ta đồng ý!
-Được! Vậy chúng ta sẽ phát binh ở huyện Chương Khâu.
Mười lăm vạn đại quât bắt đầu xuất phát, từ từ tiến về huyện Chương Khâu phía nam Tế Thủy.
Huyện Chương Khâu cách núi Trường Bạch rất gần, quanh huyện Chương Khâu cũng có khoảng hơn chục đám loạn phỉ tập trung ở đó. Nhân khẩu không nhiều, nhiều nhất cũng chỉ khoảng vài trăm người, trong đó chỉ tính riêng loạn phỉ cũng đã tới bốn trăm người dựa vào Tế Thủy mà sống rồi. Thủ lĩnh của đám loạn phỉ này chính là Đỗ Phục Uy, phó tướng là Phụ Công Hữu.
Vài năm trước, sau khi phụ thân Đỗ Phục Uy bị quan binh giết chết ở Bành Thành, Đỗ Phục Uy và Phụ Công Hữu đã trốn về quê cũ. Nhưng lệnh bắt giữ của quan phủ đã lập tức truyền tới quận Tề, Đỗ Phục Uy và Phụ Công Hữu cũng không còn chỗ nào để đi nữa, đành phải trở thành thủy tặc ở Tế Thủy, dựa vào việc cướp bóc các thương thuyền mà sống qua ngày.
Cùng với phong trào nổi loạn nổi lên bốn phương, Đỗ Phục Uy cũng không kìm nổi dục vọng trong lòng, vì thế đầu năm y cũng dẫn hơn trăm thủy tặc ở Tế Thủy gia nhập vào phong trào phản loạn. Lúc đó, Đỗ Phục Uy mới chỉ có mười sáu tuổi.
Bắc ngạn Tế Thủy có một làng chài nhỏ, ngư dân ở đó sớm đã trốn đi hết không còn người nào, ngôi làng này liền trở thành sơn trại tạo phản của Đỗ Phục Uy.
Lúc này, Đỗ Phục Uy đã nghe ngóng được tin tức của mười lăm vạn đại quân ở đồi Đậu Tử, y và Phụ Công Hữu vội vàng thương lượng đối sách.
-Thế lực ở đồi Đậu Tử đã bắt đầu tiến về phía nam, không thể tránh khỏi đại chiến với Trương Tu Đà. Nếu như đội quân ở đồi Đậu Tử giành được thắng lợi, vậy thì toàn bộ bán đảo Sơn Đông đều trở thành phạm vi thế lực của bọn họ rồi. Nếu như quân Trương Tu Đà thắng, vậy thì những thế lực phản động khác ở bán đảo Sơn Đông sẽ ngày càng gặp nhiều khó khăn hơn, sớm muộn gì thì cũng bị tiêu diệt. Ngươi nghĩ sao?
Đỗ Phục Uy nhìn chăm chú vào Phụ Công Hữu hỏi.
Phụ Công Hữu gật gật đầu, lời của y tuy không nhiều nhưng lại nói trúng vấn đề.
-Dưới cái tổ lật nhào, làm sao còn trứng nguyên vẹn?
-Vậy chúng ta rời khỏi quận Tề, tới nơi khác phát triển.
-Ta đồng ý!
Đỗ Phục Uy phấn chấn hẳn lên, y mở tấm bản đồ ra nói:
-Thật ra ta đã sớm suy nghĩ chuyện này rồi, chúng ta có thể tới Giang Hoài. Chúng ta vốn dựa vào nước mà kiếm cơm, hệ thống sông ngòi ở Giang Hoài rất phong phú, như vậy thì càng hợp với chúng ta. Ta thấy chúng ta sẽ có nhiều cơ hội phát triển hơn nữa ở Giang Hoài này.
-Vậy chúng ta đi bằng cách nào, người đã nghĩ chưa?
Đỗ Phục Uy gật gật đầu:
-Chúng ta không cần đi đường bộ, cứ đi thẳng đường thủy. Chúng ta đi đường thủy từ Vấn Thủy tiến vào Cự Dã Trạch, sau đó đi về phía nam Hà Thủy tiến về Tứ Thủy, rồi từ Tứ Thủy đi vào sông Hoài. Trên đường đi chúng ta có thể dựa vào sông nước mà kiếm cơm. Như vậy hoàn toàn có thể được.
Phụ Công Hữu trầm tư một lát. Năm đó bọn họ cũng trốn đi từ con đường thủy này, chắc sẽ không có vấn đề gì. Phụ Công Hữu hạ quyết tâm:
-Chúng ta không thể để đội quân ở đồi Đậu Tử nuốt gọn được, cứ như vậy tiến về phía nam đi!
Ánh mắt Đỗ Phục Uy sáng lên. Đi về phía nam biết đâu y còn có thể tìm được người mẹ đã mất tích của mình nữa.
Trong bóng đêm, một đội quân khoảng chừng hai vạn người hăng hái tiến về phía Đông. Phía Nam là Tế Thủy, Tế Thủy rộng chừng hơn mười trượng, lúc này đang là đợt lũ mùa xuân. Trong bóng đêm, mặt nước quay cuồng sôi sục, dòng nước chảy xiết.
Sắc mặt Trương Tu Đà vô cùng nghiêm nghị. Lúc đánh giặc, khuôn mặt y không có chút nét tươi cười. Trận chiến lần này, y dẫn hai vạn quân kỵ binh để đánh mười lăm vạn phản quân. Mặc dù đội quân của y chiếm ưu thế nhưng binh lực hai bên cũng không hơn kém nhau nhiều, y cũng chỉ có thể dĩ kỳ chế thắng mà thôi. (dĩ kỳ chế thắng: dùng cách mà người khác không nghĩ ra được để chiến thắng họ)
Đối phương cho rằng quân đội của y sẽ tập trung ở phía nam ngạn Tế Thủy, nhưng quân đội của y lúc này lại đang ở phía bắc ngạn Tế Thủy. Đội quân này cứ im lặng đi men về phía bắc ngạn, chỉ còn cách huyện Chương Khâu chừng hơn hai mươi dặm nữa, phía trước mặt hiện giờ là một mảnh rừng rậm.
Lúc này một gã thám báo chạy gấp tới, hướng Trương Tu Đà chắp tay thi lễ :
-Bọn họ đã qua sông rồi sao?
-Dạ chưa, bọn chúng đang thu thập thuyền, chuẩn bị dựng cầu nổi.
-Vậy phạm vi thám báo của đối phương thế nào?
-Hồi bẩm Thái thú, đối phương căn bản không có thám báo, chỉ có một đội binh lính tìm thuyền. Tất cả đều đã trở về rồi.
Tin này khiến Trương Tu Đà hơi giật mình. Y không ngờ đối phương lại không có thám báo, y lạnh lùng hừ một tiếng. Một đội quân không có thám báo thì sao có sức chiến đấu.
Bây giờ đã là canh ba rồi. Trương Tu Đà nhìn bầu trời rồi lập tức hạ lệnh:
-Tất cả chuyển tới khu rừng rậm phía trước nghỉ ngơi.
Cả đội quân gia tăng tốc độ tiến thẳng về hướng khu rừng rậm cách đó chừng hai dặm.
……
Trời sáng dần, cầu nổi cũng đã dựng xong. Từng đội từng đội phản quân bắt đầu qua sông, tốc độ nhanh chóng. Nhưng sức chứa của chiếc cầu nổi cũng có hạn, cả nửa canh giờ cũng mới chỉ có hơn năm nghìn người qua được sông. Đúng lúc này, binh lính phía nam ngạn đột nhiên hô lớn.
Chỉ thấy từ phía xa bụi đất bay mù mịt, một đám kỵ binh đông nghìn nghịt của quân Tùy từ hướng nam ngạn đánh tới. Đại tướng cầm đầu mặc áo giáp sắt chính là mãnh tướng La Sĩ Tín. Tay y cầm một chiếc thiết thương lớn, giống như thiên thần hạ phàm vậy.
Đối mặt với năm nghìn quân địch, y không hề sợ hãi mà thống lĩnh năm trăm kỵ binh truy đuổi quân địch. Chiến mã phi nhanh, tiếng giết rung trời, năm trăm kỵ binh xông vào đám quân địch như mãnh hổ nhào vào đàn dê, quân địch bị giết đầu rơi máu chảy, hò hét chạy trốn tứ phía.
La Sĩ Tín phóng ngựa phi nhanh vào đám loạn phỉ, đại thiết thương đâm trái chém phải, đánh đâu thắng đó, không gì cản nổi, không ai có thể ngăn cản nổi. Chỗ nào y đi qua là chỗ đó xác chết khắp nơi. Năm trăm kỵ binh như một chiến đao sắc bén cắt vào giữa quân địch, khiến trận hình quân địch tán loạn lung tung.
Đám phản quân nghe tin ở nam ngạn bị tập kích, ai nấy đều lao tới bờ sông xem cuộc chiến. Chỉ có Vương Bạc hô lớn:
-Mau chóng qua sông, trợ giúp nam ngạn.
Cả đám quân không ai ngờ được rằng nguy hiểm lại lẳng lặng giáng xuống ngay từ phía sau bọn họ. Đám quân chủ lực của Trương Tu Đà chờ đợi cơ hội từ lâu thưa dịp quân định trận hình hỗn loạn mà xông tới hơn mười vạn đám phản quân kia. Năm nghìn kỵ binh đi tiên phong, thế như núi lở đất sụp, trong đại loạn kinh hoàng, bọn họ tiến vào đám địch giết tận bọn chúng.
Hai vạn đại quân của Trương Tu Đà đánh tới, phản quân đại bại, bỏ chạy tơi bời. Bị quân của Trương Tu Đà đuổi cùng giết tận, vô số người quỳ xuống đất đầu hàng, mấy vạn tàn quân chạy tán loạn tới bên bờ Hoàng Hà nhưng đường lui ở Hoàng Hà đã bị thủy quân của Trương Tu Đà cắt đứt, mấy ngàn chiếc thuyền đánh cá đã bị thiêu rụi.
Bại quân thượng thiên vô môn, hạ địa vô lộ (ý là không còn đường thoát) thì truy binh của Trương Tu Đà đã tới, phản quân lại đại bại một lần nữa. Thạch Trực Đồ bị Tần Quỳnh chém chết, Tôn Tuyên Nhã và Hách Hiếu Đức dẫn mấy trăm quân lao ra khỏi vòng vây tìm nơi nương tựa quân Ngõa Cương, còn Vương Bạc thì không rõ tung tích.
Đến lúc này, toàn bộ mười lăm vạn hợp quân của đồi Đậu Tử tấn công quận Tề đã bị Thái thú quận Tề Trương Tu Đà thống lĩnh hai vạn quân tiêu diệt, chém chết hơn ba vạn người, toàn bộ những đội quân còn lại đều giơ tay đầu hàng.
Tin tức đại thắng ở quận Tề đã truyền tới quận Trác, Dương Quảng đang ở quận Trác chuẩn bị đánh tới Liêu Đông mừng rỡ. Người gia phong Trương Tu Đà làm Kim Tử Quang Lộc Đại Phu, phong tước Lịch Thành Huyện Công, thưởng tiền trăm vạn lượng, vải lụa ba trăm nghìn mảnh, đồng thời miễn trừ cho quận binh quận Tề không phải điều về phía Bắc. Trận chiến này, danh tiếng của Trương Tu Đà đã uy chấn thiên hạ, một trận thành danh.
…..
Lúc này, sắc màu u ám của chiến tranh lại một lần nữa bao phủ toàn bộ quận Trác. Quân đội ở các nơi điều tới đều tập hợp ở quận Trác nhưng chuyện mà Dương Quảng không thể tưởng tượng được lại xảy ra. Trong đám quân xuất hiện tình trạng chạy trốn quy mô lớn, đây là phong trào chạy trốn lần thứ hai xảy ra trong nửa năm nay. Trong lúc năm mươi vạn quân quay trở về các địa phương đã xảy ra phong trào chạy trốn lần thứ nhất, chớp mắt trong hai tháng ngắn ngủi mà năm mươi vạn quân đã trốn chạy mất gần ba phần.
Sau khi Dương Quảng ra lệnh tuyên chiến Triều Tiên lần thứ hai, người nào người nấy đều không muốn tới Liêu Đông tìm chỗ chết, phong trào chạy trốn lại càng dữ dội hơn. Cuối tháng ba, phủ binh khi tới quận Trác chỉ còn lại hơn hai mươi vạn quân.
Còn việc chiêu binh ở các địa phương cũng không thể nào đạt được mục tiêu đưa ra là sáu mươi vạn, cùng lắm cũng chỉ có thể chiêu mộ được hơn hai mươi vạn, dân phu cũng chỉ có khoảng trăm vạn.
Đây không phải là vấn đề của một quận riêng biệt nào mà tất cả các huyện khác cũng không thể hoàn thành được kế hoạch này.
Chẳng lâu sau đó, một sự việc khác khiến Dương Quảng khó lòng chấp nhận được đã phát sinh. Binh lực không đủ, Dương Quảng điều ra hai mươi vạn quân từ ba mươi vạn cấm quân để tham gia chiến dịch Liêu Đông nhưng hai mươi vạn cấm vệ quân này cũng xảy ra phát sinh tình trạng chạy trốn quy mô lớn.
Những cuộc trốn chạy quy mô lớn làm Dương Quảng nổi trận lôi đình, trong cung Lâm Sóc, Binh Bộ Thị Lang Hộc Tư Chính phụ trách lập kế hoạc tác chiến và điều động binh mã đã bị hơn mười thị vệ dẫn tới bên ngoài cửa cung đánh đòn. Các thị vệ, hoạn quan và cung nữ ở trong cung ai nấy đều nơm nớp lo sợ.
Vũ Văn Thuật vội vàng đi vào trong cửa cung, đi tới trước cửa Kỳ Liên điện. Từ xa có thể nhìn thấy phía cuối hàng lang có một đám thị vệ đang vây quanh, tiếng kêu thảm thiết của Hộc Tư Chính không ngừng vọng tới.
Vũ Văn Thuật cười lạnh một tiếng, trong lòng cảm thấy hả hê. Lần thứ nhất chiến tranh với Triều Tiên, Hộc Tư Chính nổi bật nhất độc tài đại quyền Binh bộ. Nhưng quyền lực lớn bao nhiêu thì lại phải gánh vác trách nhiệm nhiều bấy nhiêu, bây giờ y cũng đã biết lợi hại rồi.
Vũ Văn Thuật bước vào trong điện. Không khí trong điện lạnh tanh, chỉ có một mình Hoàng đế Dương Quảng đang đứng trước cửa sổ. Tuy rằng không nhìn thấy được khuôn mặt Dương Quảng nhưng Vũ Văn Thuật cũng có thể cảm nhận được lửa giận đang thiêu đốt trong lòng người.
-Thần Vũ Văn Thuật tham kiến bệ hạ!
Vũ Văn Thuật có chút lo lắng.
-Có chuyện gì?
Dương Quảng lạnh lùng hỏi.
-Hồi bẩm bệ hạ, thần bắt được một ngàn hai trăm cấm vệ binh trốn chạy. Bệ hạ muốn xử lý thế nào?
Dương Quảng bỗng dưng xoay người, đôi mắt đỏ ngầu phát ra sát khí. Người gằn từng câu từng chữ nói:
- Toàn bộ xử trảm, sơn máu của chúng lên trống trận, xem còn ai dám trốn chạy nữa không.
-Thần tuân chỉ!
Vũ Văn Thuật không hề động đậy, cơn tức giận của Dương Quảng đã nguôi lại. Người liếc nhìn y một cái, hỏi:
-Còn có chuyện gì nữa không?
-Hồi bẩm bệ hạ, đám giặc Bạch Du Sa ở quận Linh Võ tụ tập hơn ba vạn người, cướp bóc thảo nguyên chăn ngựa Hà Tây. Thái thú quận Hoằng Hóa là Nguyên Hoằng Tự thỉnh cầu giao cảnh tiêu diệt phỉ (quân của vùng này dẫn quân tới vùng khác tiêu diệt phỉ).
Vẻ mặt Dương Quảng dần dần lộ ra nét cười lạnh đầy thâm ý, người gật gật đầu:
-Tốt lắm! Trẫm chuẩn cho hắn tiêu diệt thổ phỉ!
Vũ Văn Thuật lại cẩn thận nói:
-Bệ hạ! Có cần phải tìm biện pháp gì đó phòng ngự không?
-Trẫm biết, trẫm đã bố trí ở Quang Trung rồi. Hiện giờ ta đang chờ đợi bước tiếp theo của chúng.
Vũ Văn Thuật chuyển chủ đề, lại hỏi:
-Còn có huyện Trác nữa, nếu Dương Nguyên Khánh đã muốn thống lĩnh quân U Châu theo bệ hạ chinh phục Liêu Đông. Thần đề nghị có thể phong một chức phó tổng quản, tạm quản lý quân vụ ở Liêu Đông.
Dương Quảng không trả lời, người trầm ngâm một lát rồi nói:
-Ái khanh cho rằng ai thích hợp?
Vũ Văn Thuật cười nói:
-Thần đề cử đốc quân quận Bắc Bình La Nghệ đảm nhiệm chức Phó tổng quản.
Dương Quảng lắc lắc đầu:
-Người này từng vu cáo hãm hại Lý Cảnh cấy tang vật, có thể thấy người này lòng dạ tiểu nhân. Trẫm không thể dùng hắn.
Vũ Văn Thuật đã nhận năm nghìn lượng bạc của La Nghệ, hứa sẽ giúp hắn nhận được chức Phó tổng quản U Châu không ngờ lại bị Dương Quảng cự tuyệt. Trong lòng y có chút thất vọng nhưng y tuyệt đối không cam lòng. Y trầm ngâm một chút lại nói:
-Vậy thần đề cử đệ đệ Vũ Văn Sách làm Phó tổng quản U Châu. Không biết bệ hạ có cho rằng nó có thể đảm nhiệm việc này không.
Mục đích chính của Vũ Văn Thuật là đề cử huynh đệ Vũ Văn Sách của mình. Chỉ cần Dương Nguyên Khánh không ở đây, như vậy thực quyền của Phó tổng quản U Châu chẳng khác nào Tổng quản U Châu. Tuy rằng đại bộ phận quân U Châu đều đã bị Dương Nguyên Khánh mang đi nhưng thứ mà Vũ Văn Thuật nhằm vào chính là kho hàng vật tư chiến lược ở quận Trác. Nếu như có thể chiếm được kho hàng ở quận Trác, như vậy nhất định sẽ có ích đối với việc khởi sự của y trong tương lai.
Theo kinh nghiệm của Vũ Văn Thuật, Dương Quảng sẽ không cự tuyệt y tới hai lần. Nếu Dương Quảng đã cự tuyệt La Nghệ, vậy thì người nhất định sẽ không cự tuyệt tiếp Vũ Văn Sách nữa.
Dương Quảng cười cười:
-Khó thấy ái khanh trung thành như vậy, nhưng quân vụ ở U Châu trẫm quyết định để Thái thú Dương Cung Nhân tạm quản. Về sau có cơ hội thì sẽ sắp xếp cho lệnh đệ sau, lần này thật xin lỗi ngươi.
Dương Quảng khéo léo cự tuyệt đề nghị của Vũ Văn Thuật.
…..
Trong tiếng khóc lóc cầu xin, một nghìn hai trăm cấm vệ quân đã bị chặt đầu. Máu của họ bị sơn lên trống trận. Nhưng giết người đẫm máu vẫn chưa có được hiệu quả, cấm quân vẫn không ngừng trốn chạy như cũ. Đối với bọn họ mà nói, đi tới chiến trường Triều Tiên giống như đi vào chỗ chết vậy, chạy trốn còn may có chút tia hy vọng. Dù sao thì có tới hàng vạn người chạy trốn mà chỉ bắt được một nghìn hai trăm người, cơ hội chạy thoát được rất lớn.
Không còn cách nào khác, Dương Quảng đành phải hạ lệnh tiến quân Dương Đông sớm hơn. Một đội quân Tùy bắt đầu xuất phát tiến về Liêu Đông, nhưng binh lực lần này đã giảm gần một nửa so với kế hoạch, chỉ có năm trăm ngàn người đi chinh phạt Triều Tiên.
Dương Nguyên Khánh lấy thân phận Tổng quản U Châu, giáo kiểm Tả Kiêu Vệ Đại tướng quân mà xuất chinh. Hắn thống lĩnh ba vạn quân U Châu xuất phát ở nhóm đầu tiên, quân U Châu có tổng cộng bốn vạn ba nghìn quân. Dương Nguyên Khánh dẫn theo ba vạn quân tinh nhuệ, còn lại một vạn tám nghìn người phân ra do Thái thú quận Trác Dương Cung Nhân, đốc quân quận Bắc Bình La Nghệ và đốc quân quận Ngư Dương Hàn Thế Ngạc thống lĩnh.
Chạng vạng ngày hôm nay, đại quân của Dương Nguyên Khánh đã đi tới Lâm Du Quan. Lâm Du Quan đã được xây dựng cải tạo vào năm Khai Hoàng thứ ba, nó giống như Sơn Hải Quan của người đời sau, là con đường yết hầu trấn giữ Liêu Đông và Trung Nguyên. Nó có vị trí chiến lược vô cùng trọng yếu, có ba nghìn quân đóng giữ. Nó cũng là một bộ phận của quân U Châu, do đốc quân quận Bắc Bình La Nghệ thống lĩnh.
Do trời đã muộn nên Dương Nguyên Khánh hạ lệnh ba vạn đại quân dừng lại đóng quân cắm trại. Ngoài Lâm Du Quan, những chiến lều lớn sừng sững đứng lên, ba vạn quân U Châu vô cùng bận rộn. Lúc này, mấy gã binh lính đưa một gã nam tử mặc áo đen tới trước đại trướng của Dương Nguyên Khánh.
Một gã binh lính tiến vào trướng bẩm báo:
-Khởi bẩm Tổng quản, có người từ Phong Châu tới nói có chuyện gấp cần cầu kiến Đại tướng quân.
-Cho hắn vào.
Mấy tên lính đưa vị nam tử áo đen vào trong trướng. Vị nam tử quỳ gối nói:
-Giáo úy thành Đại Lợi Võ Hóa Công tham kiến Tổng quản.
Dương Nguyên Khánh nhận ra y, cũng đã cùng y tham gia quân binh bao năm rồi. Y gật gật đầu nói:
-Dương tướng quân ra lệnh cho tôi bẩm báo Tổng quản. Tên tặc nô Bạch Du Sa ở quận Linh Võ cấu kết với Đột Quyết. Chúng tôi đã chặn lại mệnh lệnh của Đột Quyết Thủy Tất Khả Hãn gửi cho Bạch Du Sa, lệnh y đánh lén Phong Châu. Dương tướng quân lo lắng Đột Quyết sẽ tấn công Phong Châu nên đặc biệt lệnh tôi tới bẩm báo Tổng quản.
Dương Nguyên Khánh tuy không đảm nhiệm chức Tổng quản Phong Châu nhưng hắn vẫn âm thầm khống chế Phong Châu thông qua Dương Tư Ân và các tướng lĩnh cũ. Ngư Câu La cũng đã có chút phát giác được chuyện này nhưng y chưa từng hỏi mà vẫn cứ trầm mặc như vậy.
Tin này khiến Dương Nguyên Khánh giật mình kinh hãi. Hắn biết rõ tình hình phòng ngự ở Phong Châu, bắc mạnh nam yếu. Quân Phong Châu chủ yếu phòng bị ở thành Đại Lợi, còn vùng phía nam Ngũ Nguyên huyện chỉ có chút ít binh lực. Nếu loạn phỉ Bạch Du Sa thật sự nghe theo mệnh lệnh của Đột Quyết mà tấn công Phong Châu, vậy thì hậu quả thật nghiêm trọng.
Dương Nguyên Khánh nhận lấy bức thư xem qua một lượt, đây là bức thư do Thủy Tất Khả Hãn đích thân viết. Trong thư y hứa hẹn nếu Bạch Du Sa đánh lén thành công thì Đột Quyết sẽ phong y làm Hạ vương, ban thưởng vàng bạc châu báu.
Tuy nhiên Dương Nguyên Khánh cũng nhận được tin rằng Nguyên Hoằng Tự đã thỉnh cầu đi tiêu diệt Bạch Du Sa. Bất kể Nguyên Hoằng Tự đang có mục đích gì nhưng ít nhất thì y cũng phải làm tốt chuyện này. Như vậy, trong một thời gian ngắn Bạch Du Sa sẽ không thể xâm lược Phong Châu được.
Dương Nguyên Khánh trầm ngâm thật lâu, sau đó hắn cầm bút viết cho Dương Tư Ân một phong thư. Hắn đưa cho người đưa thư rồi nói:
-Vất vả cho ngươi rồi! Mau chóng trở về giao bức thư này cho Dương tướng quân. Nói với ngài ấy rằng ta sẽ nghĩ cách tạo áp lực cho Đột Quyết Thủy Tất Khả Hãn, ép hắn phải tăng cường phòng ngự, đặc biệt là huấn luyện dân đoàn, một ngày cũng không được lơ là.
Người đưa thư thi lễ rồi lui xuống. Dương Nguyên Khánh chắp tay sau lưng đi tới trước đại trướng, nhìn về bầu trời tối om phía nam. Hắn cảm thấy một cơn cuồng phong đang chuẩn bị ập tới Vương triều Đại Tùy.
Tháng tư năm Đại Nghiệp thứ 9, cùng với việc Hoàng đế Đại Tùy Dương Quảng dẫn theo sáu trăm ngàn đại quân tiến vào Liêu Đông.
Những đám mây đen nuốt trọn lấy ông mặt trời, cả bầu trời Đại Tùy trở nên u ám. Rất nhiều bóng người ẩn núp trong bóng đêm cũng dần dần lộ ra.
Quận Hoằng Hóa cũng chính là Phong Châu cũ, là một quận có diện tích lớn nhất trong quan nội. Dân chúng ở đây chủ yếu tập trung ở huyện Hoằng Hóa và huyện Hợp Thủy nằm ở phía nam Mã Lĩnh Thủy.