“Ài, ngươi cứ nói đến tiến hóa, vậy hãy giải thích kỹ tiến hóa là gì, sao phải tiến hóa?” Công Tôn Yến gật gật đầu tỏ vẻ hiểu rồi bỗng thở dài như nhớ ra gì đó lại hỏi.
“Tiến hóa chính là quá trình biến đổi để thích nghi với môi trường sống, nó là một quá trình diễn ra rất chậm và qua nhiều thế hệ. Còn tại sao phải tiến hóa ư? Trên đời này không tiến lên thì sẽ bị bỏ lại, thế giới các loài cũng vậy, môi trường luôn luôn thay đổi, sự cạnh tranh luôn luôn xảy ra. Vì vậy nếu không tiến hóa để thích nghi thì sẽ bị loại bỏ.”
“Ví như hai người đánh nhau chẳng hạn, đầu tiên cả hai dùng tay không thì ngang nhau. Rồi một người trong đó nghĩ ra cách hiệu quả hơn là dùng dao. Khi này, nếu người kia không thích nghi kịp thì sẽ bị giết.”
Liễu Thiên vừa nói vừa đưa ra ví dụ để cho Công Tôn Yến hiểu rõ hơn.
“Đúng a! Hiện tại cũng vậy, kẻ nào không chịu khó thì sẽ bị bỏ lại. Ngươi kể truyện này là muốn tốt cho ta!” Công Tôn Yến vẻ mặt đại ngộ rồi nhìn Liễu Thiên cảm kích.
“Cũng chỉ là kể truyện cũ thôi, có gì mà giúp, ngươi ngộ ra là do ngươi đó chứ, ta tiếp tục kể về chế độ xã hội ở kia nha!” Liễu Thiên lắc đầu nói rồi lại muốn tiếp tục.
“Ừ!” Công Tôn Yến mỉm cười gật đầu nói.
“Từ thời sơ khai con người trải qua năm chế độ…
Liễu Thiên tiếp tục kể, Công Tôn Yến thì tiếp tục lắng nghe, hai người nói chuyện đến tận khuya mới giải tán.
Công Tôn Yến thì biết thêm bao nhiêu thứ lạ, Liễu Thiên thì lại kể ra bao nhiêu thứ của thế giới cũ của mình. Đối với Công Tôn Yến là sự học tập và nghiên cứu còn với Liễu Thiên thì lại là sự giãi bày tâm sự về nơi mình từng sống. Cả hai đều có cảm giác thích thú khiến những lần kể truyện cứ diễn ra đều đặn và không có dấu hiệu dừng lại.
…
Một buổi tối của nhiều ngày sau, Liễu Thiên đang cửi trần ngồi trên giường, đôi mắt vốn đang nhắm bỗng mở ra, hắn thở ra một hơi vẻ mặt lại suy tư như đang tính toán gì đó.
“Cũng nên bắt đầu rồi!” Liễu Thiên tự nhủ rồi bắt đầu lục lọi ký ức.
Những ngày qua ngày nào hắn cũng nghiên cứu những thuật mới nhưng vì lượng thuật học đước khá nhiều nên cũng tốn khá nhiều thời gian. Đồng thời những thứ lấy được trong thần thức ấn ký kia Liễu Thiên cần phải học thuộc và lưu lại trong ấn ký của thức hải. Không chỉ đơn giản đưa vào là có thể trở thành ấn ký ký ức mà Liễu Thiên còn quy tụ thành từng dòng khác nhau rồi đưa vào trong quang trụ để mai sau dễ dàng tìm kiếm.
Lại nói thì những ngày qua hắn từ từ nghiên cứu lại các học thuật mình có, cái nào đã thành thục rồi thì thôi còn những thứ chưa học được hoặc đang học thì hắn đều nghiên cứu rồi chuyển thành dạng thức hải ấn ký rồi đưa vào trong quang trụ của không gian thức hải để tránh bị thất lạc thông tin.
Kể ra thì sau quá trình đi lại các nơi, Liễu Thiên cũng có được khá khá các bí thuật phức tạp nên việc nghiên cứu để hiểu và lưu giữ vào quang trụ cũng tốn khá nhiều thời gian.
Ví như bộ Lôi Quân quyền dù đã được Liễu Thiên dùng Thông Thiên dịch hiểu tường tận nhưng vẫn tốn hai ngày hắn mới nắm hết lại được Lôi Quân Căn quyết, các thế quyền và cách vận hành nguyên thần và lưu giữ lại trong không gian thức hải.
Sau Lôi Quân quyền thì Liễu Thiên thì lại phải nghiên cứu lại Thần Ngục nên cũng mất một buổi mới tổng hợp lại hết tất cả đồ án và kết ấn rồi nguyên thần vận chuyển, linh lực kết nối,… mấy thứ này không thể thiếu dù chỉ một chút.
Trong những thứ hắn tổng hợp lại thì lâu nhất là một bộ Quang Thuật hắn nhận được ở Cơ gia, cái này làm hắn nghiên cứu hơn hai tuần mới tạm hiểu được. Thế nhưng hiểu thì hiểu hắn cũng không thể luyện được vì bộ quang thuật này quá phức tạp, hắn chỉ nghĩ thôi hắn cũng thấy lâu rồi chứ đừng nói luyện. Do vậy sau khi nghiên cứu xong hắn cũng đành lưu giữ lại trong thức hải để sau này có thời gian luyện tập.
Xong mấy môn dị thuật thì Liễu Thiên phải lưu giữ đồ án của Như Hải Vô Tịnh công rồi đến cả môn bộ pháp Phản Linh Tinh Lực Biến, Thiên Trọng công bản đầy đủ cũng được hắn nghiên cứu và lưu giữ luôn cả thể.
Sau gần một tháng tối nào cũng nghiên cứu thì hắn đã nghiên cứu hầu hết những thứ mình có và lưu giữ toàn bộ những thứ quan trọng lại. Còn mấy thứ như Tam Bộ Di, Nhạn Hành, Lưu Thủy bộ hay cả đến Viên Quân quyết và Vô Danh kiếm phổ đều được hắn luyện tập quá nhiều lần rồi. Những thứ đó như đã ngấm vào máu thịt của hắn rồi nên cũng không cần phải lấy ra học lại nữa thì cũng không cần phải lưu giữ lại làm gì!
Sau nhiều ngày cuối cùng công việc sắp xếp đã xong, hôm nay sau khi suy xét Liễu Thiên quyết định đem dị thuật của Đồng Xuyên ra luyện, hắn luyện chứ không phải là tìm hiểu rồi cất đi. Nguyên nhân chính vì thuật này rất quan trọng với hắn lúc này.
Nhắc đến Đồng Xuyên thì lão không chỉ để lại cho Liễu Thiên một bộ yếu thuật mà còn nói đến ba vấn đề.
Thứ nhất lão có giải thích nguyên thần do Thiên Tinh tạo khác với nguyên thần do quy tụ từ linh khí. Cụ thể thì nguyên thần do Thiên tinh tạo ra tương khắc với các nguyên tố trong Ngũ Hành, vì vậy nguyên thần không thể chuyển thành các dạng vật chất trong ngũ hành nên không thể dùng dị thuật ngũ hành được. Mà ngũ hành chính là căn cơ để tu luyện dị thuật Ngoại Thiên nên với Liễu Thiên thì đa phần các dị thuật Ngoại Thiên cũng là vô vọng luyện tập. Điều này cũng giải thích cho Liễu Thiên hiểu được nguyên nhân mình không luyện thành dị thuật cơ bản trong những ngày qua.
Biết vậy Liễu Thiên có chút buồn rầu khó tả vì ước mơ phun ra lửa thời nhỏ của hắn đã tan thành mây khói.
Tất nhiên không luyện được hai hệ dị thuật nhưng bù lại thì Thiên Tinh lại hỗ trợ rất tốt cho việc tu luyện dị thuật hệ nội thể và tăng cường thể chất. Cái này lại rất hợp với đường nối của Liễu Thiên vì vậy sau một chút mất hứng rất nhanh hắn đã trở lại bình thường.
Thứ hai, Đồng Xuyên cũng giải thích bản chất của nguyên thần do thiên tinh tạo ra. Cụ thể thì nguyên thần của thiên tinh tạo ra tuy cùng cấp độ với nguyên thần cơ thể hấp thụ được từ linh khí nhưng lại có khả năng thích nghi với cơ thể tốt hơn nên điều trị vết thương và tái tạo tế bào rất nhanh. Điều này cũng làm Liễu Thiên hiểu ra nguyên nhân mình dùng nguyên thần trị thương rất nhanh hồi phục hồi và không để lại cả sẹo. Tất nhiên Liễu Thiên biết kết quả này cũng không thể do mỗi thiên tinh mà có kết hợp với Luyện Thể Như ý ngọc thì hắn mới có khả năng hồi phục như vậy.
Thứ ba Đồng lão nói rằng thiên tinh này là vật tổ truyền của Kỳ Nhân Các nên hắn dùng nó thì phải có mấy cái trách nhiệm bảo vệ Kỳ Nhân các. Đồng thời trên thiên tinh cũng lưu lại ấn ký phong ấn truyền tống cùng với tổ đàn Kỳ Nhân các. Khi tổ đàn này được kích hoạt thì lập tức triệu hồi người sở hữu thiên tinh về đó để thực hiện trách nhiệm. Thế nhưng theo Đồng lão thì trường hợp này cũng rất hiếm xảy ra bởi vì tổ đàn kia chưa được khởi động bao giờ cả. Đến bây giờ các bậc cao tầng của Kỳ Nhân các cũng chẳng mấy người biết là nó ở đâu nữa, họ cũng chẳng rõ là Thiên tinh còn tồn tại?
Vì vậy việc triệu hồi này cũng không làm cho Liễu Thiên lo lắng, hắn chỉ cần nhớ rằng Kỳ Nhân các gặp chuyện thì phải trở về. Tất nhiên hắn cũng chẳng biết khi nào được triệu hồi, lúc đó hắn đang ở đâu, thực lực ra sao, có khi chết rồi cũng không chừng? Vì vậy cái hẹn ước này cũng không làm hắn nghĩ nhiều, với hắn thì cứ đến đâu hay đến đó.
Ngoài ba cái dặn dò kia Đồng Xuyên còn để lại một bộ bí thuật liên quan mật thiết với Thiên tinh. Và đây cũng có thể là dặn dò thứ tư và quan trọng nhất đối với Liễu Thiên.
Vì sự quan trọng của bí thuật này nên Liễu Thiên ngay sau khi tổng hợp sắp xếp lại kiến thức thì hắn phải tiến hành tu luyện ngay.
“Định Nguyên quyết” chính là tên của bí thuật Đồng lão để lại cho Liễu Thiên.
Theo như Đồng lão thì ‘Thiên Tinh’ khi ở những cấp độ cao thì tốc độ xoay tròn của nó sẽ càng nhanh. Vì tốc độ quay nhanh nên nguyên thần được sản sinh ra cũng bay vào đan điền với tốc độ nhanh, mức dao động ở điểm Thủy khởi cũng tăng cao, như vậy sẽ dẫn đến nguyên thần trong đan điền cũng bị cuốn theo. Nếu tốc độ đủ lớn sẽ làm đan điền bất ổn cuối cùng có thể đổ vỡ hoặc dò dỉ nguyên thần trong đan điền. Đến một mức dao động nhất định không thể kìm hãm thì đan điền sẽ nổ và chính ‘thiên tinh’ sẽ phá thể mà ra.
Khi đó phong ấn lúc đầu của Đồng Xuyên lão để lại cũng không thể cản được và Liễu Thiên sẽ chết rất thảm. Chính vì vậy sau khi thu xếp tất cả mọi thứ Liễu Thiên quyết định từ giờ phải luyện Định Nguyên quyết trước rồi mới tính đến các môn khác.
Đã từ đọc và nghiên cứu vài lần nên Liễu Thiên cũng biết đại khái về môn yếu quyết này.
Chính như là thiên tinh bình thường đang quay tròn với tốc độ cao thì sẽ nhả ra nguyên thần bay vào đan điền với tốc độ tương ứng, khi này thiên tinh quay nhanh hơn nữa thì tốc độ nguyên thần sẽ bay ra nhanh hơn, nguyên thần lại sinh ra nhiều hơn. Như vậy sẽ dẫn đến khuấy đảo dòng chảy của nguyên thần trong cả đan điền. Dần dần tốc độ quá nhanh sẽ khiến đan điền bị khuấy lên một lượt, như vậy nhe thì công pháp tiêu tán, nặng thì đa điền đổ vỡ. Liễu Thiên tất nhiên không muốn chứng kiến cảnh đó và Đinh Nguyên quyết sẽ giúp hắn khắc phục.
Đặc điểm chính của thuật này là nó sẽ tạo ra một lớp màng chắn bao bọc Thiên tinh vào bên trong để hoạt động của nó không làm ảnh hưởng nhiều đến đan điền nữa.
Lúc này, việc Liễu Thiên cần làm là tạo một lớp lưới bao phía ngoài thiên tinh để giảm lực chảy của nguyên thần từ thiên tinh nhả ra đan điền.
Thế nhưng lưới chắn này cần làm từ một dạng năng lượng đặc biệt có thể cản được nguyên thần mà không làm ảnh hưởng đến công pháp. Và trong đan điền thì dạng năng lượng đặc biệt này không cái gì khác mà chính là Nguyên Trường lực do điểm Thủy khởi sinh ra.
Lại nói, điểm Thủy Khởi thì chính là điểm mà công pháp gây dựng gốc dễ và Nguyên Trường lực được sinh ra cũng phụ thuộc vào công pháp điều hành mà cấu tạo hình dáng. Muốn tạo thêm dòng nguyên trường lực đi qua điểm đó đối với Liễu Thiên thì dễ chứ khi không bảo hắn tạo một cái lưới độc lập bao bọc phía ngoài thiên tinh thì khó có thể làm được.
Vì thế Định Nguyên quyết không thể tu luyện độc lập, nó là một yếu quyết phụ trợ và tất nhiên nó phải lương tựa vào công pháp để phát triển. Vì vậy sẽ tùy vào dạng công pháp mà sự phát triển của Định Nguyên quyết cũng khác nhau.
Công pháp đa phần đều cấu tạo nguyên trường lực theo dạng đường thẳng xuyên qua tâm điểm thủy khởi, một số khác thì lại theo kiểu xếp tầng trên dưới hoặc từ trong ra ngoài và cũng có nhiều kiểu xây dựng xoắn ốc từ ngoài vào tâm thủy khởi, hoặc theo dạng tháp lấy tâm thủy khởi làm đỉnh,… nói chung là công pháp thì có nhiều hình dạng khác nhau. Vì thế cách luyện Định Nguyên quyết của mỗi người cũng sẽ khác nhau.
Nhưng theo như kinh nghiệm của Đồng Xuyên để lại thì muốn dễ dàng thì trước tiên phải tăng cảnh giới của công pháp lên càng cao càng tốt. Vì cảnh giới càng cao thì công pháp càng phức tạp, các lộ tuyến “nguyên trường lực” cũng nhiều, mật độ dày đặc và rõ ràng hơn. Khi này xung quanh điểm thủy khởi sẽ hình thành một bộ khung các đường “nguyên trường lực” của công pháp. Việc làm tiếp theo cần làm chính là dựa vào bộ khung đó rồi dùng Định Nguyên quyết mà đan lên một tấm lưới nguyên trường lực quanh điểm Thủy Khởi.
“Đồng đại ca luyện chính là Tứ Hoàn Tịch Linh công, đó là dạng công pháp xếp tầng trong ngoài lên xây dựng Định Đan võng cũng đơn giản hơn. Của mình là những vòng xoắn ốc thì làm thế nào bây giờ?” Liễu thiên lúc này mới thở dài thầm nghĩ.
“Ài! Mình còn chưa tăng giai của công pháp thì làm sao tìm ra được đường đi của bộ yếu pháp này!” Liễu Thiên khi này lại lắc đầu tự nhủ. Hắn hiểu lúc này mình cần làm gì.
“Công pháp tăng lên rồi tính tiếp! Mà nếu mãi vẫn không tạo ra được Định Đan võng thì cùng lắm là làm thiên tinh quay chậm lại như khi thu liễm tu vi. Lúc đó tu luyện lại chậm một chút cũng đâu có sao! Ở kia có nói thiên tinh quay nhanh sẽ khiến mình bạo thể nhưng nếu công pháp không tăng tiến thì mình sẽ không đột phá nữa. Không đột phá thì tốc độ quay của thiên tinh cũng không tăng, mà không tăng thì lại không có nguy hiểm.” Liễu Thiên khi này liền vui vẻ đưa ra quyết định.
Thế là hắn tiến hành nghiên cứu Như Hải Vô Tịnh công đệ tam trọng.
Trong Liễu gia thì không phải ai cũng được học tầng ba của công pháp này, mà có được học thì cũng không phải ai cũng thành công. Nói đến tầng ba này thì nó cũng không đơn giản chỉ tăng thêm một dòng xoắn nguyên trường như Liễu Thiên nghĩ mà nó tăng gấp ba lần số dòng xoắn đang có.
Nguyên nhân việc công pháp tăng số lượng đường nguyên trường lực nhiều theo bội số của từng giai trọng của công pháp này Liễu Thiên cũng không rõ lắm nhưng theo hắn thấy một phần là do cái căn công mỗi tầng đều mạnh hơn tầng trước, tầng ba này mạnh hơn tầng hai ba lần nên số đường nguyên trường lực cũng nhiều lên gấp ba lần. Cái này cũng có thể là đặc thù của công pháp hoặc do người sáng tạo cố tình làm ra, dù là gì thì cũng không liên quan lắm nên hắn không tìm hiểu nhiều mà chỉ tập trung luyện.
Tu luyện tầng ba này vốn cần luyện yếu quyết để kết công tam trọng rồi từ đó triển khai các đường nguyên trường nhưng Liễu Thiên sau khi nghiên cứu thì thấy chẳng cần yếu quyết của tầng ba này hắn cũng có thể tăng tiến được công pháp. Hắn cảm thấy tốt nhất vẫn nên làm theo cách của mình.
Trước kia lên đệ nhị trọng, Liễu Thiên cần số đường nguyên trường lực gấp đôi tức là một đường nữa là được. Khi này cần số đường nguyên trường lực gấp ba cũng có nghĩa là lúc này thay vị tạo thêm một thì hắn cần tạo ra thêm bốn dòng xoắn nguyên trường lực nữa mới đủ.
“Theo như tâm pháp và cách hướng dẫn của tiền nhân với công pháp thì mình chẳng hiểu mấy. Đằng nào cũng là tăng thêm đường xoắn nguyên trương lực thì cứ làm theo cách cũ, chỉ cần làm lệch mặt phẳng chứa đường nguyên trường lực, rồi tăng giảm độ xoắn của mỗi đường là xong!” Liễu Thiên lúc này lại thầm đưa ra quyết định.
“À đúng rồi! Chẳng phải nói là lực cản sao? Nếu mình tăng lên thành mười hay hai mươi dòng xoắn nguyên trường theo nhiều phương khác nhau thì sao? Mà tất cả chúng lại đều xuất phát ở điểm thủy khởi thì chúng sẽ tự tạo thành một lớp lưới, lưới này không giao nhau nhưng lại lồng nhiều tầng và bao quanh điểm Thủy khởi. Như vậy thì chẳng phải thiên tinh trong điểm thủy khởi cũng bị bao bọc sao? Thế thì tốc độ nguyên thần được thiên tinh nhả vào đan điền cũng sẽ bị chậm đi!” Liễu Thiên lúc này mới ngộ ra liên hồi tự nói
“Nghĩ ra rồi! Mình chỉ cần tăng công pháp nên nhiều lần thì ngay cả Định Nguyên quyết cũng không cần dùng nữa. Khi đó công pháp sẽ tự tạo ra vô số vòng xoáy trong đan điền, mỗi vòng xoáy lại xen kẽ, đan lồng vào nhau. Đó sẽ là lớp lá chắn làm cho đan điền không bị ảnh hưởng nhiều bởi tốc độ quay của thiên tinh.” Liễu Thiên lại vui vẻ nói, hắn khi này đang tưởng tưởng đan điền của mình khi được vô số vòng xoáy nguyên trường lực như trong đồ án cuối cùng trong Vô Tịnh Như Hải công thì đừng nói là tốc độ thiên tinh quay nhanh hơn vài lần, dù vài trăm lần thì cũng không thể khiến đan điền giao động được.
“Đệ tam trọng là sáu vòng xoáy, mật độ này tuy cũng hỗ trợ đan điền cản lại tốc độ gia nhập của nguyên thần do thiên tinh nhả ra nhưng không đáng là bao, mình ít ra phải lên đệ tứ trọng thì mới đủ dùng!” Liễu Thiên khi này lại suy tư.
“Thôi cứ bắt đầu đi đã!” Liễu Thiên không nghĩ linh tinh nữa, hắn bắt đầu tiến hành luyện tập tăng tiến công pháp.
Quá trình luyện tập tiến trọng của công pháp vẫn cứ là bật tắt công pháp để kiểm nghiệm dòng chảy nguyên trường lực và tạo ra nguyên dòng nguyên trường lực ở một mặt phẳng mới. Công việc này không phải là ngày một ngày hai có thể xong được. Kể cả việc Liễu Thiên đã quen với việc tạo dựng dòng xoắn nguyên trường lực thì cũng không thể nói đơn giản tạo là tạo được.
Liễu Thiên cũng biết điều đó nên hắn cũng không quá cưỡng cầu, mỗi ngày hắn chỉ dành ra nửa canh giờ nghiên cứu là đủ rồi. Dù sao thì ở Khai Minh cảnh thiên tinh cũng chưa đến mức quá nhanh và nguyên thần tạo ra cũng không nhiều nên áp lực tạo ra với đan điền là chưa đáng kể, tóm lại hắn vẫn có thời gian để thích ứng.