Hai trường phái ý kiến bất phân thắng bại. Ý kiến của Binh bộ Thượng thư Sử Khả Pháp thì trở thành yếu tố mang tính quyết định, nhưng biểu hiện
của vị đệ nhất trọng thần tàn Minh này lại vô cùng khiến người ta khó
hiểu. Ở trước đầu sóng ngọn gió như thế này, chính là lúc y phát huy tác dụng, giải quyết dứt khoát, nhưng y lại nhìn hai bên mà nói y, mà không phát biểu bất kỳ ý kiến nào.
Chuyện này vừa nói đã mười mấy ngày, mãi đến khi Tổng đốc Phượng Dương Mã Sỹ Anh dẫn binh đến Nam Kinh.
Tuy rằng Phượng Dương chỉ là một phủ của Nam Trực Lệ, nhưng địa vị của
phủ này không phải là nhỏ, bởi vì Phượng Dương là trung đô của Đại Minh, còn là nơi đặt mộ phần tổ tiên của Chu Minh, cho nên về phẩm cấp, Tổng
đốc Phượng Dương Mã Sỹ Anh không thấp hơn Tổng đốc Chiết Trực Tôn Truyền Đình, hai người đều là đại tướng biên cương của Đại Minh triều.
Hơn nữa, Mã Sỹ Anh và Tôn Truyền Đình cũng tay nắm trọng binh như nhau.
Dưới Trướng của Tôn Truyền Đình có viên mãnh tướng Vương Phác, dưới
trướng Mã Sỹ Anh cũng có hai viên mãnh tướng Cao Kiệt, Lưu Lương. Hai
viên mãnh tướng này vốn dĩ là lưu tặc, vì không chịu làm việc cho Sấm
tặc mới đầu hàng quan quân, trước thì hiệu lực dưới trướng Dương Tự
Xương, sau khi Dương Tự Xương sợ tội tự sát thì trở thành bộ hạ của Mã
Sỹ Anh.
Hơn nữa, Mã Sỹ Anh đã âm thầm đạt thành hiệp định với Tổng binh Sơn Đông Lưu Trạch Thanh, trở thành tập đoàn quân sự Giang Bắc chuyên môn nhằm
vào tập đoàn quân sự Tôn Tôn Đình, Vương Phác!
Trước khi Mã Sỹ Anh dẫn binh tiến vào Kinh, Lưu Trạch Thanh đã dẫn quân
nam hạ chiếm cứ phủ Hoài An. Tên súc sinh Lưu Trạch Thanh này thật sự là sợ quân tiên phong của lưu tặc, nên chủ động vứt bỏ toàn tỉnh Sơn Đông, lúc dẫn quân nam hạ, còn dung túng cho binh sỹ cướp bóc, giết chóc khắp nơi trong cảnh nội, quả thật là không bằng cầm thú.
Ngoài ra, Mã Sỹ Anh còn lệnh cho Lưu Lương Tá lưu thủ Phụng Dương, sai
Cao Kiệt giữ Dương Châu, tạo thành thế giằng co với tập đoàn Tôn, Vương
của Giang Nam.
Lúc còn quốc thái dân an, võ tướng của Đại Minh triều chính là chó săn
do triều đình nuôi dưỡng, cho dù là một tri huyện thất phẩm nhìn thấy
Tổng binh các trấn cũng có thể tùy ý nhục mạ. Nhưng khi quốc nạn lâm
đầu, binh hoảng mã loạn, địa vị của võ tướng ngay lập tức leo lên đứng
đầu, trở thành lẽ sống còn của các quan văn.
Mã Sỹ Anh vừa đến Nam Kinh, Sử Khả Pháp đã lập tức âm thầm hẹn gặp y.
Sử Khả Pháp quả thật là tán thành việc lập tức lập tân quân, nhưng mãi
đến hôm nay y vẫn không biểu lộ thái độ là có nguyên nhân. Bởi vì Tổng
đốc Chiết Trực Tôn Truyền Đình tay cầm trọng binh ủng hộ Hộ bộ Thượng
thư Cao Hoằng Đồ, kiên quyết chủ trương nghênh đón Thái Tử đến Nam Kinh
kế vị. Sử Khả Pháp lo lắng nếu y biểu lộ thái độ, sẽ dẫn đến phản đối
cứng rắn từ phái của Cao Hoằng Đồ, Tôn Truyền Đình!
Hiện tại Mã Sỹ Anh đã đến Nam Kinh, Sử Khả Pháp gấp gáp thăm do ý tứ của y, nếu Mã Sỹ Anh ủng hộ lập tân quân, vậy thì Sử Khả Pháp liền tỏ thái
độ ủng hộ Lữ Đại Khí, nếu lập trường của Mã Sỹ Anh giống với Tôn Truyền
Đình, vậy thì vì giữ gìn ổn định cho Nam Kinh Sử Khả Pháp đành phải ủng
hộ Cao Hoằng Đồ thôi.
Cuộc đấu tranh giữa Cao Hoằng Đồ và Lữ Đại Khí, thoạt nhìn có vẻ là
đường hoàng, chỉ là chính kiến bất đồng, nhưng kỳ thực bên trong căn bản không phải là như thế. Đây là sự tiếp diễn của cuộc đấu tranh giành
quyền của các đảng phải thời Minh mạt, Cao Hoằng Đồ là người Tề đảng, mà Lữ Đại Khí thì là người của đảng Đông Lâm. Tuy rằng Sử Khả Pháp không
phải là người của đảng Đông Lâm, nhưng y hơi thiên về đảng Đông Lâm.
Ân oán của đảng Tề và đảng Đông Lâm bắt đầu từ giữa những năm Vạn Lịch.
Năm Vạn Lịch thứ bốn mươi mốt, lãnh tụ đảng Chiết nhờ sự thông minh mà
nhập các phong tướng, lãnh đạo đảng Tề Kỳ Thi Giáo là môn sinh của
Phương Tòng Triết, hai thầy trò sau đó trở thành nhân vật chạm vào bỏng
tay. Mãi cho đến năm Vạn Lịch thứ bốn mươi tám, đảng Tề, đảng Chiết cuối cùng đã nắm giữ triều chính.
Sau khi Vạn Lịch Đế băng hà đã xảy ra tam đại án trong cung, người của
đảng Đông Lâm bị đảng Tề, đảng Chiết chèn ép nhiều năm nhân cơ hội phản
kích, cuối cùng đã đã lật đổ đối thủ trở thành “Đảng chấp chính” quyền
khuynh triều dã.
Tuy nhiên những ngày tốt đẹp của đảng Đông Lâm không kéo dài, mượn việc
ủng hộ Thiên Khải Đế, quyền hoạn Ngụy Trung Hiền rất nhanh đã quật khởi.
Năm Thiên Khải thứ tư, Ngụy Trung Hiền đề bạt Phùng Thuyên đồng hương
của Phương Tòng Triết lên làm Tể tướng. Năm Thiên Khải thứ năm, Phùng
Thuyên triệu Kỳ Thi Giáo trở về triều, đảm nhiệm chức Đô ngự sử Tả thiêm Đô sát viện, mượn việc ủng hộ trợ giúp yêm đảng, giúp đảng Tề phục hồi
thành công, mà người của đảng Đông Lâm bị yêm đảng hãm hại thảm thiết.
Cao Phán Long, Tả Quang Đấu, Dương Liên cùng nhiều người của đảng Đông
Lâm lần lượt gặp bất hạnh.
Nói một cách khách quan, người của đảng Đông Lâm lúc bấy giờ có khí
khái, bọn họ tranh chấp với đảng Tề, tranh chấp với yêm đảng, tuy mang
mục đích chính trị, nhưng bọn họ dám liều mình tranh chấp. Vì đấu tranh
với yêm đảng, đám người Cao Phán Long không tiếc hy sinh tính mạng của
mình, rất có chút “Tinh thần cách mạng” sẵn sàng “Đầu rơi máu chảy“. Đây là chỗ đáng để hậu nhân kính ngưỡng.
Nhưng điều đáng tiếc chính là, từ đó về sau người của đảng Đông Lâm lại không được lớp sau đè lớp trước.
Sùng Trinh Đế lên ngôi, yêm đảng bị diệt, đảng Tề chịu sự chèn ép của dư nghiệt yêm đảng, người của đảng Đông Lâm lại lần nữa trở mình, một lần
nữa trở thành đảng chấp chính, từ đó về sau Sùng Trinh Đế biểu lộ sự căm phẫn đối với việc tranh giành giữa các đảng phái, không đứng về một
đảng phái nào nữa, các đảng Tề, Sở, Chiết, Đông Lâm thay phiên nhau chấp chính, minh tranh ám đấu trong triều rốt cuộc vẫn chưa dừng lại.
Tranh giành đảng phái sau cùng cũng mang đến tai họa ngập đầu cho Đại Minh triều.
Đặc biệt là phải đề cập đến một điều, sở dĩ quân Minh chiến bại ở Tát
Nhĩ Hử, hoàn toàn là do đấu tranh đảng phái tạo thành. Vì Thụ phụ của
nội các lúc bấy giờ là lãnh tụ đảng Chiết Phương Tòng Triết. Xuất phát
từ việc suy xét lợi ích của đảng Chiết, Phương Tòng Triết đã bổ nhiệm
tướng lĩnh đảng Chiết Dương Hạo! Mà Dương Hạo lúc này chứng mình là một
”Tướng quân chạy trốn” trên chiến trường từ lâu. Kết quả chính là bại
trận ở Tát Nhĩ Hử, Kiến Nô mạnh mẽ lên.
Giả như lúc đầu không phải do Phương Tòng Triết chấp chính, có thể đổi
thành Hùng Đình Bật hoặc đám người Tôn Thừa Tông cầm binh, lịch sử rất
có thể sẽ được viết khác xa.
Cho nên nói, tranh giành chính trị giữa Cao Hoằng Đồ và Lữ Đại Khí không đơn giản như bề ngoài như thế.
Hơn nữa, cùng với việc Tổng đốc Chiết Trực Tôn Truyền Đình, Tổng đốc
Phụng Dương Mã Sỹ Anh bị cuốn vào, cuộc tranh giành này trở nên càng
thêm rắc rối phức tạp. Vì so với lần tranh giành đảng phái trước kia,
lần tranh đấu này lúc nào cũng có thể khiến cho hai đại tập đoàn quân sự Giang Nam, Giang Bắc sống mái với nhau. Việc này đối với tàn Minh đã bị thực lực đại tổn mà nói, không thể nghi ngờ là đã rét vì tuyết lại lạnh vì sương.
Điều chết người hơn là, đến lúc mấu chốt này, vẫn chưa có tin tức của Vương Phác!
Thái Tử và hai vị Hoàng tử cũng sống chết không rõ, Tôn Truyền Đình gấp đến độ tóc trên đầu đều sắp rụng sạch rồi!
Nếu như Vương Phác có thể hộ tống Thái Tử đến Nam Kinh vào lúc này, tất
cả sẽ trở nên thuận lý thành chương, nhưng giả như Vương Phác không thể
kịp thời hộ tống Thái Tử đến Nam Kinh, một khi tân hoàng thượng vị, sự
tình về sau liền trở nên khó nói, đấu tranh chính trị trước giờ dơ bẩn,
ai biết được đến lúc đó sẽ xảy ra chuyện gì?
Quan trường Nam Kinh dòng chảy ngầm mãnh liệt, dòng chảy ngược dữ dội, thế cục Bắc Kinh cũng phức tạp như vậy, rắc rối khó gỡ.
Bởi vì cuộc vận động “Truy gian trợ quân lương” diễn ra mãnh liệt, nên
trong thành Bắc Kinh lúc này người người đã cảm thấy bất an. Đại doanh
ngoài thành trong thành do lưu tặc thiết lập đã kín người, gần như tất
cả huân thích quý tộc và quan viên lục phẩm trở lên, toàn bộ đều bị ném
vào đại lao, Kinh doanh Đề đốc Ngô Tương cũng không may mắn thoát khỏi.
Đến lúc này sự tình đã phức tạp, bởi vì con trai của Ngô Tương chính là Tổng binh Ninh Viễn Ngô Tam Quế.
Từ trước lúc lưu tặc vào Kinh, Sùng Trinh Đế đã từng hạ chiếu, tấn phong Ngô Tam Quế làm Binh Tây Bá, đồng thời nghiêm lệnh Ngô Tam Quế bỏ lại
Ninh Viễn, suất lĩnh thiết kỵ Quan Ninh vào Kinh cần Vương. Sau khi Ngô
Tam Quế nhận được thánh chỉ, liền bắt đầu tổ chức cho quân dân Liêu Tây
rút lui vào quan nội, nhưng Ngô Tam Quế vừa mới đi đến Sơn Hải Quan, thì tin tức Bắc Kinh đã rơi vào tay giặc, Sùng Trinh Đế thắt cổ tự sát liền truyền đến.
Lại có thám mã truyền tin tức về, Sấm tặc Lý Tự Thành đã phái Khiển đại
tướng Lý Quá, Lý Nham dẫn ba vạn binh xuất phát về phía Sơn Hải Quan.
Ngay sau đó, sứ giả chiêu hàng của Sấm tặc cũng đến, còn mang theo bốn
vạn hai trăm lượng bạc và một phong thư của Ngô Tương phụ thân Ngô Tam
Quế. Ngô Tam Quế cẩn thận xem xét lá thư, có thể khẳng định đây chính là bút tích của Ngô Tương. Lúc này, Ngô Tam Quế đang gặp phải lựa chọn khó khăn nhất từ trước đến nay, bởi vì Nô tù Kiến Nô Đa Nhĩ Cổn cũng phái
người đến Sơn Hải Quan!
Trước mặt Ngô Tam Quế có ba con đường.
Con đường thứ nhất là suất lĩnh đại quân tiếp tục tây tiến, đuổi lưu tặc ra khỏi Bắc Kinh, sau đó tìm được Thái Tử trong loạn quân rồi đưa Thái
Tử lên đế vị. Thế thì, Ngô Tam Quế sẽ trở thành thần tử phục hưng Đại
Minh triều, sẽ ghi tên sử sách. Con đường này là con đường mà Ngô Tam
Quế hy vọng đi nhất, nhưng đồng thời cũng là con đường không có khả năng nhất.
Bởi vì tình thế trước mắt rất rõ ràng, lấy một góc Sơn Hải Quan là không thể kéo dài, lấy năm vạn quân Ninh Viễn cũng không có cách nào chống
lại đại quân lưu tặc gần trăm vạn được.
Con đường thứ hai là hợp tác với Kiến Nô, dẫn đại quân Bát Kỳ vào quan,
dựa vào quân đổi của Kiến Nô đánh bại lưu tặc, đuổi lưu tặc ra khỏi Bắc
Kinh, con đường này là con đường Ngô Tam Quế không nguyện ý đi nhất. Mặc dù bào huynh của y Ngô Tam Phượng, cửu cử Tổ Đại Thọ, ân sư Hồng Thừa
Trù cũng đã đầu hàng Kiến Nô, nhưng trước giờ Ngô Tam Quốc lại chưa từng nghĩ sẽ phải tiếp bước bọn họ.
Hơn nữa Ngô Tam Quế còn có một điều băn khoăn khác. Tục ngữ có câu thỉnh thần thì dễ đưa thần khó, dẫn đại quân Kiến Nô vào quan thì dễ, nhưng
đến lúc đó lại muốn mời bọn họ ra quan ngoại thì không dễ dàng như thế
nữa rồi. Giả như sau khi tiến vào quan nội, Kiến Nô liền ở lại Bắc Kinh
không đi, Ngô Tam Quế sẽ bị bêu danh ngàn năm, trở thành Đại Hán gian để lại tiếng xấu muôn đời!
Con đường thứ ba chính là đầu hàng lưu tặc, tiếp tục làm Tổng binh Sơn
Hải Quan của Đại Thuận triều. Từ trước khi lưu tặc vào Kinh, Khương
Tương và Đường Thông cũng đã đầu hàng lưu tặc, Khương Tương trở mình một cái đã từ Tổng binh Đại Đồng của Đại Minh triều thành Tổng binh Đại
Đồng của Đại Thuận triều, Đường Thông cũng từ Tổng binh Mật Vân của Đại
Minh trở thành Tổng binh Mật Vân của Đại Thuận.
Cho nên, đối với việc đầu hàng lưu tặc Ngô Tam Quốc cũng không băn khoăn lắm, hơn nữa tuyệt đại đa số quan văn võ tướng ở Kinh sư cũng đã đầu
hàng Đại Thuận, Đại Minh bị Đại Thuận thay thế dường như là ván đã đóng
thuyền rồi. Nếu như Ngô Tam Quế vì cố Minh mà tử trận dĩ nhiên là mang
mỹ danh trung thần, nhưng cho dù là đầu hàng Đại Thuận, cũng sẽ không bị bêu danh là Hán gian.
Cân nhắc ba lần bốn lượt, cuối cùng Ngô Tam Quế quyết định đầu hàng Đại Thuận.
Năm ngày sau, Lý Quá, Lý Nham suất lĩnh ba vạn đại quân đến Sơn Hải
Quan, Ngô Tam Quế giao việc phòng bị Sơn Hải Quan cho Lý Quá và Lý Nham, sau đó suất lĩnh năm vạn đại quân Quan Ninh xuất phát về hướng Bắc
Kinh.
Nhưng mà, đại quân vừa mới đến Du Quan, thì một vị khách không mời đã
đến trong quân của Ngô Tam Quế, do vậy mà làm cho lịch sử nghịch chuyển!
Vị khách không mời mà đến này không phải ai khác, chính là lão gia đinh
trong phủ của Ngô Tương. Lão gia đinh này đã mang đến cho Ngô Tam Quế
một tin tức rất không hay, lão phụ thân Ngô Tương của y đã bị lưu tặc
bắt giữ, hơn nữa tất cả huân thích quý tộc cùng với tất cả quan viên từ
lục phẩm trở lên trong Kinh sư đều bị lưu tặc bắt giữ toàn bộ, mỗi người được chiếu theo phẩm cấp cao thấp không giống nhau, chỉ có người giao
nộp đủ số bạc trắng hoàng kim mới được tự do, còn được mang tiếng là
truy gian trợ quân lương.
Điều càng khiến cho Ngô Tam Quế kinh tâm tán đảm là, Thủ phụ Nội các Chu Diên Nho, Thứ phụ Nội các Phụ Trần Diễn, Ngụy Chiếu Thừa, Thành Quốc
Công Chu Thuần Thần, Quốc trượng Chu Khuê đều đã bị lưu tặc hãm hại đến
chết. Chu Thuần Thần hiến cổng đầu hàng thì bị lưu tặc kẹp nát đầu, óc
ác đầy đất, chết vô cùng thảm thiết.
Ngô Tương cũng đã bị lưu tặc giày vò đến hấp hối, còn sai gia đinh đích
thân đến truyền lời cho Ngô Tam Quế, bảo Ngô Tam Quế báo thù cho lão!
Ngô Tam Quế là một người có lòng dạ rất sâu, y có thể không quan tâm
việc bào huynh, cửu cửu, ân sư chiêu hàng, đương nhiên cũng sẽ không vì
một câu nói của lão phụ thân mà nhiệt huyết lên não, hưng binh báo thù.
Ngay trong đêm, y gọi huynh đệ Vương Đình Thần và Mã Khoa Thảo đến
thương nghị đối sách. Ba người đều cảm thấy đi Bắc Kinh chắc chắn sẽ
chết không thể nghi ngờ.
Sấm tặc đã xử lý Ngô Tương, thì không thể nào lưu lại Ngô Tam Quế nữa!
Điều này đã dẫn Ngô Tam Quế đến tuyệt lộ, ngoại trừ hợp tác với Kiến Nô
ra y đã không còn lựa chọn nào khác. Tuy nhiên, lúc này Ngô Tam Quế
không nghĩ rằng phải làm chó săn cho Kiến Nô, y chỉ muốn mượn binh Kiến
Nô đánh đuổi lưu tặc, khôi phục giang sơn Đại Minh mà thôi. Chỉ có điều
Ngô Tam Quế không ngờ rằng, một khi Kiến Nô tiến vào quan ải, chuyện
tương lai không phải do y định đoạt nữa.
Ngô Tam Quế đi ngay trong đêm, đánh một chiêu hồi mã thương, Lý Quá, Lý
Nham chưa kịp vững chân đã bị giết cho trở tay không kịp, đại bại mà
chạy.
Sau khi đoạt lại Sơn Hải Quan, Ngô Tam Quế lập tức phái người đến Cẩm
Châu liên lạc với Tổ Đại Thọ. Sau khi Tổ Đại Thọ nhận được thư của Ngô
Tam Quế, không dám chậm trễ, phái người suốt đêm mang thư của Ngô Tam
Quế đến Thịnh Kinh.
Sáng sớm hôm sau, thư của Ngô Tam Quế đã đặt ở trên án của Nhiếp chính vương Kiến Nô Đa Nhĩ Cổn.
Đa Nhĩ Cổn lúc này không chỉ đã lật đổ Tể Nhĩ Cáp Lãng, còn biếm truất
Nhạc Thác, đã trở thành Nhiếp chính vương thúc phụ nắm hết quyền hành.
Đa Nhĩ Cổn quyết định rất nhanh, khẩn cấp triệu tập toàn bộ quân đội Bát Kỳ của Thịnh Kinh, có cả Bát Kỳ Hán Quân, Bát Kỳ Triều Tiên và Bát Kỳ
Mông Cổ ngày đêm nhanh chóng hành quân, xuất phát về phía Sơn Hải Quan.
Đa Nhĩ Cổn chờ đợi ngày này đã rất lâu rồi, hiện tại cơ hội từ trên trời giáng xuống, sao y có thể dễ dàng buông tha?
Bắc Kinh, điện Vũ Anh.
Lý Tự Thành đang triệu tập Ngưu Kim Tinh, Lý Song Hỷ, Điền Kiến Tú, Lưu
Tông Mẫn, cùng đại thần văn võ đến nghị sự. Mười mấy ngày nay, thành quả của cuộc vận động “Truy gian trợ quân lương” do Lưu Tông Mẫn phụ trách
đã hiện ra, đã rút ra được gần ngàn vạn lượng bạc ròng từ chỗ huân thích quý tộc và quan viên từ lục phẩm trở lên trong thành Bắc Kinh!
Lưu Tông Mẫn bị lợi lộc làm mờ mắt, tự ý mở rộng quy mô của “Truy gian
trợ quân lương”, đưa cả thương nhân và phú hộ trong thành Bắc Kinh vào
trong đối tượng vận động “Truy gian trợ quân lương“. Dựa theo phỏng đoán của Lưu Tông Mẫn, nhưng thương nhân, phú hộ từ thành Bắc Kinh này trên
người ít nhất cũng có thể rút ra được trên ngàn vạn lượng bạc ròng.
Lưu tặc rốt cuộc cũng chỉ là lưu tặc, mãi mãi không thể trở thành quan quân được.
Bóc lột thậm tệ đối với huân thích quý tộc và quan viên trong Kinh thì
thôi, lại chĩa mũi dùi vào dân bách tính bình thường thì rất không nên.
Cứ như vậy, lưu tặc sẽ đắc tội với tất cả mọi người, chẳng những huân
thích quý tộc và quan viên trong Kinh hận thấu xương, ngay cả bách tính
trong thành Bắc Kinh cũng hận lưu tặc đến nghiến răng nghiến lợi.
Việc làm ngang ngược của lưu tặc cuối cùng đã tạo thành hậu quả xấu!
Một gã đầu mục lưu tặc lảo đa lảo đảo chạy vào điện Vũ Anh, thở dốc nói:
- Đại Đại Vương, không không xong rồi.
- Thế nào?
Lý Tự Thành cau mày nói:
- Đã xảy ra chuyện gì?
Đầu mục lưu tặc nói:
- Vừa nãy Lý Quá tướng quân phái khoái mã đến đưa tin cấp báo, ngô Tam
Quế đã hàng lại làm phản rồi. Hai vị Tướng quân Lý Quá, Lý Nham bất ngờ
không kịp phòng bị đánh cho đại bại, ba vạn đại quân tổn thất quá nửa,
đã rút về thủ Hưng Bình! Lý Nham tướng quân nói, Ngô Tam Quế rất có thể
sẽ đầu hàng Kiến Nô, xin Đại Vương nhanh chóng cho đại quân chinh phạt!
- Cái gì!?
Lý Tự Thành nghe vậy liền vỗ án đứng dậy, nổi trận lôi đình nói:
- Tên tiểu nhân phản phúc Ngô Tam Quế này lại làm phản rồi à? Thật là nực cười, người đâu!
Có mấy gã thân tín nhanh chóng bước lên đáp:
- Có ạ.
Lý Tự Thành nổi giận nói:
- Lập tức giải lão thất phu Ngô Tương trong đại lao ra, áp giải đến đại doanh tế cờ!
- Vâng!
Hai gã thân tín lĩnh mệnh mà đi.
Lý Tự Thành lại nói:
- Hỷ Tử, Điền Kiến Tú!
Lý Song Hỷ, Điền Kiến Tú bước lên một bước, ôm quyền đáp:
- Có ạ.
Lý Tự Thành quát:
- Lập tức điểm đủ mười vạn đại quân, theo lão tử đi tấn công Hải Sơn Quan!
- Vâng.
Lý Song Hỷ, Điền Kiến Tú dạ ran.
Lúc này tổng binh lực dưới trướng Lý Tự Thành đã gần trăm vạn, tuy nhiên trong đó có gần một nửa là quan quân Đại Minh vừa mới đầu hàng không
lâu. Phần lớn bọn họ, giống như quân Đại Đồng của Khương Tương, binh Mật Vân của Đường Thông, đều được Lý Tự Thành lưu lại tại chỗ. Sau khi công hạ Bắc Kinh, Lý Tự Thành lại chia binh tấn công các phủ Bảo Định, lại
phái một đội thiên sư đi tấn công Sơn Đông. Lúc này quân đội còn lại ở
Bắc Kinh đã chỉ còn lại hai mươi vạn người.
Tuy nhiên, trong hai mươi vạn người này có mười vạn là quân chính quy của Lý Tự Thành, là tinh nhuệ của lưu tặc.
Ngoại ô Triều Dương môn, đại doanh lưu tặc.
Mười mấy ngày nay, bọn Vương Phác vẫn bị nhốt trong phòng giam lớn, tuy
lưu tặc canh giữ không nghiêm lắm, nhưng nếu muốn trốn cũng không phải
là dễ dàng gì. Tuy nhiên, lưu tặc lại giống như là đã quên bọn họ rồi,
mười mấy ngày nay thậm chí đến hỏi cũng không thèm hỏi một tiếng.
Trên thực tế, hơn mười ngày nay lưu tặc đang bận rộn khảo vấn những huân thích quan viên trong thành Bắc Kinh, nào còn lo lắng cho bọn Vương
Phác thoạt nhìn trông có vẻ “Nhà nhỏ cửa nhỏ” không kiếm chác được bao
nhiêu.
Sáng hôm nay, Vương Phác đang nằm trên đống cỏ nghỉ ngơi, khóe mắt liếc
qua bỗng thoáng nhìn thấy một thân ảnh quen thuộc đang từ ngoài nhà lao
chậm rãi đi tới. Vương Phác nhanh chóng quay đầu nhìn, ô, không ngờ là
Hoàng Đắc Công!
Nghênh đón ánh mắt kinh ngạc của Vương Phác, Hoàng Đắc Công chớp chớp
mắt, mượn cơ hội đi ngang qua Vương Phác ném một cục giấy nhỏ đến trước
mặt Vương Phác, Vương Phác nhìn thử thì thấy các huynh đệ xung quanh đều đang ngủ, bên ngoài buồng giam cũng không có lưu tặc, liền vội vàng
nhặt cục giấy nhỏ kia lên.
Từ sau khi trà trộn vào lưu tặc, hàng ngày đám người Hoàng Đắc Công, Thi Lang cứ bắt người, thẩm vấn, nhưng rốt cuộc chưa có cơ hội nhìn thấy
Vương Phác. Hôm nay cũng thật là may, bởi vì Ngô Tam Quế đã hàng lại làm phản, trong cơn giận dữ Lý Tự Thành điểm mười vạn quân lưu tặc chính
quy tấn công Sơn Quản Quan. Lúc này, mười vạn quan quân vừa mới đầu hàng không lâu được sai phái.
Hàng quân mà đám người Hoàng Đắc Công, Thi Lang trà trộn vào vừa hay phụ trách tiếp nhận đại doanh ngoại ô Triều Dương môn. Sau khi chờ đợi cực
khổ mười mấy ngày, Hoàng Đắc Công cuối cùng đã gặp được Vương Phác trong đại lao.
Vương Phác xoay người quay mặt vào tường, mượn tấm thân lặng lẽ mở cục
giấy trong lòng bàn tay. Trên giấy chỉ viết lưa thưa mấy lời, ý nói đám
người Hoàng Đắc Công đã trà trộn vào được lưu tặc, đang nghĩ cách cứu
bọn Vương Phác ra, bảo Vương Phác yên tâm chờ đợi, không nên gấp gáp.
Tuy nhiên, không đợi đám người Hoàng Đắc Công động thủ, thì lại xuất hiện một chuyện nho nhỏ ngoài ý muốn.
Buổi chiều cùng ngày, có một loạt quan ở Kinh thành dưới lục phẩm bị
chuyển đến đại doanh Triều Dương môn, nhốt vào nhà tù của bọn Vương
Phác. Đám quan lại này có khoảng hơn hai mươi người, không phải là Ngự
sử Ngôn quan của Đô Sát viện thì là Biên tu Kiểm thảo của Hàn Lâm viện.
Đô Sát viện và Hàn Lâm viện đều là nha môn trong sạch, quả thật cũng
không kiếm chác được bọn họ chút nào, cho nên bị đá đến ngoại ô Triều
Dương môn.
Trong đó có một Kiểm thảo của Hàn Lâm viện tinh mắt, vừa vào buồng giam
thì đã nhận ra Thái Tử Chu Từ Lãng từ trong đám người, theo bản năng dập đầu chào, nhưng vừa quỳ xuống một nửa đột nhiên lại nghĩ đến việc gì
đó, khẩn trương đứng thẳng lên, cảnh giác ngó nhìn lưu tặc ngoài buồng
giam, sau đó làm như không có gì ngồi xuống xuống đống cỏ.
Vương Phác âm thầm kinh hãi, thầm nghĩ nếu như tên này là kẻ nhu nhược,
để lộ tin tức Thái Tử bị nhốt trong lao cho lưu tặc thì phiền to, lập
tức gọi Trương Hòa Thượng đến trước mắt rỉ tai mấy câu. Trương Hòa
Thượng hiểu ý, lập tức lộ sắc mắt như hung thần ác sát, bước đến trước
đám Ngự sử Ngôn quan và Hàn Lâm viện.
- Mấy người các ngươi nghe kỹ cho lão tử.
Trương Hòa Thượng đưa tay vẽ một đường ở giữa buồng giam, lớn tiếng nói:
- Nơi này làm ranh giới, không ai được phép vượt qua, bằng không, lão tử sẽ bẻ gãy cổ của các ngươi!
Hai mươi mấy quan nhỏ đó nhìn thấy thân hình như ngọn núi của Trương Hòa Thượng, lại nhìn vẻ mặt như hung thần ác sát, cả đám lập tức câm như
hến. Nếu đổi lại là lúc bình thường, bọn họ há sẽ để một gã mãng phu như Trương Hòa Thượng vào trong mắt? Nhưng giờ bọn họ đã trở thành tù nhân
của lưu tặc, tục ngữ nói phượng hoàng nhổ lông không bằng gà, bọn họ
cũng chỉ có thể nén giận mà thôi.
Chỉ có Kiểm thảo của Hàn Lâm Viện khinh thường liếc mắt nhìn Trương Hòa Thượng một cái, hừ một tiếng.
Trong con ngươi của Trương Hòa Thượng có một loại sát khí khó tả, cố ý la ầm lên:
- Ngươi, đứng dậy cho lão tử!