ÂN TỊCH LY lấy một khối rơm lớn từ xe lương thảo ra bó thành hình người rồi quấn long bào vào, cột chặt trên lưng ngựa, để ngựa kia đi ngay tại vị trí giữa đội hình, nơi ai ai nhìn cũng phải thấy ngay.
Ngao Thịnh không tin hỏi lại, “Nhìn lộ liễu như thế, lẽ nào chúng thật mắc câu?”
Ân Tịch Ly mỉm cười đáp, “Con người thường giỏi suy bụng ta ra bụng người. Từ trước đến nay người lúc nào cũng hành xử cẩn thận, vì vậy khi gặp phải tình huống như vậy thường sẽ hoài nghi xem có âm mưu gì không, nên phần lớn không trúng kế. Nhưng phiên vương Nam Man lại ngông cuồng ngạo mạn, những khi xuất hành thường ngồi trên lưng voi, trước sau vây bủa nhiều người nhằm khuếch trương thanh thế. Chúng luôn tâm niệm một điều là, làm vương thì phải như trăng ngà có hằng hà tinh tú vây quanh. Chỉ là một phiên vương nho nhỏ thôi mà đã như thế rồi thì đường đường là một thiên tử Trung Nguyên như người, tuyệt không thể ít cường điệu hơn chúng. Hoàng thượng cứ an tâm, không kẻ nào hoài nghi đâu.”
Ngao Thịnh nghe xong gật gật đầu, cảm thấy lời này rất có lý.
Lúc này, Tương Thanh và Tần Vọng Thiên cũng đã chuẩn bị tốt mọi thứ, thay trang phục thoải mái, trang bị sẵn cung nỏ đao kiếm trong tay, chỉ chờ mỗi lệnh xuất quân mà thôi.
Tần Vọng Thiên cầm hồ lô mà Mộc Lăng đã đưa cho, ngó nghiêng tới lui nhiều lần cũng chẳng hiểu dùng nó cho việc gì, bèn hỏi kẻ bày đầu kia, “Mộc Mộc à, cái này khi nào thì nên dùng?”
Mộc Lăng lấy một vật gì đó trông giống như chiếc sừng, xoa lên khắp người Tần Vọng Thiên.
Tần Vọng Thiên chẳng rõ ai kia của mình của muốn làm gì, chỉ đợi đến khi Mộc Lăng xoa vật kia xong rồi mới kéo tay áo lên ngửi thử, một chút mùi hương cũng không có, khó hiểu ngoảnh đầu nhìn Mộc Lăng.
“Cái này thoa lên thân, người thường không ngửi ra nhưng ong độc lại có thể đánh hơi thấy, chúng sẽ nghe theo mệnh lệnh của ngươi nha.” Mộc Lăng đáp.
“Nghe theo mệnh lệnh của ta?” Tần Vọng Thiên giật mình.
“Phải!” Mộc Lăng gật gật đầu, đem khối sừng kia cho những cung thủ đi cùng Tần Vọng Thiên, “Mọi người xoa cái này lên người đi!”
Tất cả cung thủ đều nhanh làm theo. Mộc Lăng quay đầu lại nói với Tần Vọng Thiên, “Vọng Vọng nè, ngươi muốn ong độc cắn ai thì chỉ cần chĩa tay về phía người đó...” vừa nói vừa chĩa ngón trỏ vào mặt Vương Trung Nghĩa, Nghĩa ta hoảng hồn trột tịt ra sau lưng Tống Hiểu.
“Sau đó thì…” Mộc Lăng rút tay lại, đắc ý mà rằng, “ong độc sẽ nhào đến đốt người đó. Điều đặc biệt là ong không tấn công người có thoa hương này. Mọi người cứ yên tâm heng!”
Tần Vọng Thiên gật gật đầu, cầm hồ lô mà khen, “À há, thứ này đúng là đồ tốt!”
“Địa thế hai bên sườn vịnh Nguyệt Lượng khác nhau.” Tề tán cầm bản đồ, chỉ rõ chiến lược, “Phía bắc cao còn phía nam lại thấp, vì thế nhân mã ở sườn bắc phải nhiều hơn. Chủ tướng cũng nên ở sườn bắc để có thể dễ dàng chỉ huy!”
Ngao Thịnh gật đầu.
Tần Vọng Thiên lên tiếng, “Ta sẽ dẫn người lên sườn bắc!”
Tương Thanh cùng Viên Liệt đều đồng ý, cùng nhau đến sườn nam.
“Tướng sĩ tiên phong chặng đầu đều phải tay mang khiên chắn. Lúc đó, đối phương nhất định sẽ phóng tên bắn hình nhân trên ngựa kia. Sau khi hình nhân bị bắn, trẫm sẽ phóng tên lệnh.” Ngao Thịnh cẩn thận phân phó, “Ngay lúc này, Thanh và đại ca đang mai phục hai bên sườn sẽ hành động cùng lúc, tóm gọn bọn phục binh. Còn quân tiên phong vừa nhìn thấy tên lệnh phải lập tức ngồi xổm xuống, dùng khiên chắn thân. Tóm lại, trẫm không muốn có bất kì thương vong nào!”
“Dạ!” Tất cả mọi người lĩnh mệnh. Tương Thanh cũng chuẩn bị cùng Viên Liệt lên đường, Ngao Thịnh liền giữ tay y, lo lắng nói, “Thanh, phải cẩn thận!”
“Yên tâm.” Tương Thanh vỗ vỗ vai hắn rồi mang theo người đi thẳng đến sườn phía nam.
Ngao Thịnh đứng nhìn đến khi Tương Thanh khuất hẳn sau sườn núi thì mới xoay người lên ngựa, dựa theo chiến sách mà làm. Vương Trung Nghĩa tay nâng đại chùy[1] ra hiệu, “Khởi hành!”
......
Nhân mã chậm rãi tiến nhập Nguyệt Lượng vịnh. Địa thế nơi đây quả nhiên hung hiểm. Ngao Thịnh ngồi trong xe ngựa, nhìn toàn quân đi sâu vào dải đất hẹp dài u tối mà lòng như lửa đốt. Hắn không e ngại gì, chỉ lo cho mỗi Tương Thanh.
“Ai.” Ngao Thịnh lắc lắc đầu, từ lúc nảy sinh tình cảm với Tương Thanh tới nay cứ hay lo được lo mất, mặc dù biết rõ Tương Thanh là một cao thủ, kinh nghiệm phong phú nhạy bén, còn có cả trăm cung thủ cùng Viên Liệt đi cùng...nhưng Thịnh ta vẫn không dằn lòng lo lắng xuống được. Đúng là quan tâm ắt lòng sẽ loạn.
Đoànn người lại đi thêm một đoạn. Ngao Thịnh vén mành xe lên nhìn, hình nhân kia đã dấn thân sâu vào eo vịnh... Đúng ngay lúc đó...
Vài tiếng “sưu sưu” vang lên...Điêu linh tiễn thi nhau phá không mà đến, cắm thẳng vào người hình nhân nọ. Cùng lúc, tiếng thét bén nhọn xuyên qua trời cao, Ngao Thịnh liền phóng tên lệnh...Một đốm sáng bay vút lên trời, đến giữa không trung thì bung nở thành chùm pháo hoa rực rỡ, tiếng sấm vang rền.
Ngao Thịnh ngoáy ngoáy lỗ tai mà nghĩ – Tề Tán này đúng là lúc nào cũng nhọc lòng nghiên cứu vũ khí, mỗi một cái tên lệnh pháo liên lạc này nọ thôi cũng làm kỳ công đến thế, quả đúng là thượng phẩm mà!
Ngay lúc tên lệnh vang lện, hai bên sườn vịnh, Tương Thanh cùng Tần Vọng Thiên đều đã nhanh dẫn theo cung thủ, thi triển khinh công bay lên đỉnh núi.
Quả nhiên, hai bên sườn Nguyệt Lượng, có hơn ngàn cung thủ mai phục. Tất cả đều vận phục sức cổ quái, ngay cả trên da cũng vẻ những đồ án quỷ dị, trên đầu lại đội quan đái (nón) làm từ lông chim rực rỡ, tay trang bị trường cung tự chế.
Tên lệnh vừa được bắn lệnh, đại quân Thịnh Thanh tụ lại một chỗ, lấy khiêng che chắn hết cả người, một chút hoang mang cũng không có. Dị tộc nhìn mà hoang mang ngoác cả mồm ra, giật mình ngộ được, Thịnh Thanh đã sớm có chuẩn bị, chúng thì êm đẹp lọt thỏm vào bẫy sập!
Giữa lúc quân tập kích chẳng hiểu vì cớ làm sao sự thành ra thế thì hai bên sườn núi lại đột ngột xông ra một toán người. Tất cả đều vận quần đen áo chẽn, dáng người xốc vác, khinh công linh hoạt, tay phải cầm đao, tay trái mang cung nỏ hình thù cổ quái.
Đám dị tộc kia vỡ lẽ ra là mình đạ bị mai phục ngược lại, hoảng loạn la toáng lên.
Phía trên đỉnh núi, Tương Thanh cùng Viên Liệt làm người tiên phong xông pha ra trận.
Tương Thanh vốn muốn cùng Viên Liệt tách ra hai đường nhưng Viên Liệt lại nói, chuyện này vốn không khó khăn gì, ta đơn thuần đi theo là để bảo hộ cậu, vì thế mà cả hai cùng tiến cùng lui.
Nhóm cung thủ đều đã trải qua quá trình huấn luyện đặc biệt. Đến đến đi đi không chút tiếng động. Trận tuyến của quân tập kích chưa đánh đã liền loạn. Hơn nữa, một trăm cung thủ Thịnh Thanh rải đều các phía, khi thì phân tán lúc lại truy kích, địch tụ thì ta chặn, địch tan thì ta bắn. Không cần tăng tốc mà cũng bách phát bách thắng. Đám dị tộc không đường trở tay, trong lúc nhất thời còn bị tử thương bỏ mạng, lăn thẳng xuống vực sâu muôn trượng.
Quân địch phía sườn bắc của Tần Vọng Thiên có điều dư dả, vừa ra trận liền trông thấy kẻ như là chỉ huy của đám dị tộc tập kích.
Tần Vọng Thiên mở hồ lô chứa ong độc ra. Ban đầu vốn cứ những tưởng đây chẳng khác gì những con ong mật nhỏ bé vô hại nên chẳng tin rằng chúng có thể làm nên trò trống gì, cơ mà...
Hồ lô vừa mở ra, một luồng khói đen phụt ra. Tần Vọng Thiên kinh hoảng, suýt chút nữa đã ném luôn hồ lô đi, vì lo rằng đây là thuốc nổ nhưng sau đó lại trông thấy có hơn trăm con ong vẽ (ong bắp cày) chui ra từ miệng hồ lô, những ngòi châm vừa dài vừa nhọn chỉ cần liếc mắt một cái là đã có thể nhìn thấy rồi.
Đám ong lượn quanh người Tần Vọng Thiên, mãi một lúc hắn mới giật mình phản ứng, chĩa tay về phía đám dị tộc...Ong như nghe thấy mệnh lệnh, điên cuồng bay thẳng đến đám người kia, thấy tên nào đốt tên đó.
Tần Vọng Thiên đột nhiên nhớ ra, trước khi ra trận mấy ngày, Mộc Lăng tìm đâu ra một đám ong vò vẽ, lấy tiết dịch của cổ vương đem nuôi ong. Y tò mò hỏi ý trung nhân của mình đang làm gì thế, ai kia bảo là, người ta đang nuôi ong đó mà...Độc của cổ vương đâu phải là thứ để mang ra đùa!
Ngay khi ong vẽ vừa đốt lên người, thân thể liền sưng phồng lên. Quân tập kích đau đớn lăn lộn ra trên đất. Bộ dạng thống khổ tả không xiết...Chúng thi nhau bỏ của chạy lấy người, còn tâm tư đâu để mai với chả phục.
Tần Vọng Thiên cùng cung thủ ngơ ngác nhìn nhau, âm thầm khen kế này hay quá, không tốt một binh một tốt liền giải quyết êm xuôi mọi chuyện.
Bọn Giáp Ất Bính Đinh ở đằng sau hí ha hí hửng ca tụng, “Bảo chủ ơi, thần y đúng là hiền thê mà!” Tần Vọng Thiên nghe vào tai sướng rân – Mộc Mộc nhà y quả nhiên rất giỏi.
Mọi người thu dọn chiến trường, trói gô cổ đám phản tặc. Tần Vọng Thiên xách đầu lôi cổ tên thủ lĩnh đến trước mặt Ngao Thịnh. Tương Thanh và Viên Liệt cũng cùng lúc xuống núi. Ngao Thịnh thấy mọi người đều bình an vô sự thì mới nhẹ nhõm thở ra.
Tên thủ lĩnh quỳ rạp dưới đất ở trước mặt Ngao Thịnh, bi ba bi bô những tiếng không hiểu nổi. Kim Linh và Ngân Linh chạy đến phiên dịch, sau mới nói lại với Ngao Thịnh, “Hoàng thượng, là Manh Bộ. Hắn là tướng quân của Manh Bộ, nghe theo lời phân phó của đại vương mà tới đây tập kích.”
Ngao Thịnh khẽ nhíu mày. Trước, hắn cũng đã nắm được phần nào tình hình Nam Man, lợi hại nhất là bốn đại bộ lạc, Manh Bộ, Mãng Bộ, Hạt Bộ và Cổ bộ. Ở miền Nam có rất nhiều phiên quốc, nhưng cũng có không ít bộ tộc. Bộ tộc khác với phiên quốc. Chúng có tộc trưởng, giai cấp phân chia rõ ràng, quyền lực cùng trách nhiệm phân định rạch ròi.
Ngao Thịnh bảo Kim Linh hỏi tên tướng quân kia, có cấu kết với quan viên người Hán không.
Kim Linh y lời hỏi, tên kia mắt đảo vòng, tựa hồ muốn giấu giếm. Ân Tịch Ly thấy vậy liền nháy mắt với Vương Trung Nghĩa, ý bảo – Hù hắn đi!
Vương Trung Nghĩa không rõ sao phải làm vậy nhưng Ân Tịch Ly đã bảo thì gã liền làm...Đoạn quay người, đá tên kia một cước, rống lên, “Nói thì sống không thì lão đây chặt ngươi ra mang cho chó ăn!”
Vương Trung Nghĩa một giọng vừa rống lên, trời rung đất chuyển. Tên tướng quân nọ có lẽ vì gan nhỏ mà liền lập tức thành thành thật thật khai ra hết.
Kim Linh tâu lại, “Hắn nói, là huyện thái gia Thượng Dung Lưu Bật Chi.”
Vương Trung Nghĩa bĩu môi, “Xía, hóa ra chỉ là một tên trứng ung, vừa hù đã sợ vãi mật ra.”
Ân Tịch Ly cười nói, “Phần lớn người Nam Man rất thức thời, hù dọa và dụ dỗ là phương án hay nhất.”
“Lưu Bật Chi?” Ngao Thịnh quắc mắt nhìn Trâu Viễn.
Trâu Viễn là chủ bộ của cuộc viễn chinh này, chuyên phụ trách phong thổ Nam Man, sớm đã nắm rõ tình hình quan viên nơi này, chậm rãi tiến lên từng bước bẩm báo với Ngao Thịnh, “Hoàng Thượng, Lưu Bật Chi năm nay hơn ba mươi tuổi, vốn là người địa phương. Mười năm trước đảm đương Mưu chức trong quân ngũ, sau được điều đến Đông Quận phủ, năm năm trước lại được cử đến Thượng Dung cho đến nay.”
Ngao Thịnh nghe xong khẽ nhíu mày, “Đã làm quan ngần ấy năm mà vẫn là một huyện thái gia ư? Có phải là vì không có tâm cầu tiến, Đông Quận rõ ràng phồn thịnh hơn Thượng Dung, nằm ngay trong nội địa, cách Lạc Đông cũng không xa, nhưng sao lại bị điều đến Thượng Dung, lẽ nào bởi làm sai bị biếm?”
Tề Tán lắc lắc đầu, “Hoàng Thượng, có việc người không biết, đối với người kinh thành thì luôn nghĩ rằng quan địa phương không bằng quan kinh kì nhưng sự thật thì hoàn toàn ngược lại.”
“Nghĩa là sao?” Ngao Thịnh khó hiểu.
“Chủ yếu vì có liên quan đến bậc đế vương thôi.” Ân Tịch Ly tham gia vào, “Từ xưa mỗi người đều hướng tới kinh đô đặng thăng quan phát tài, vì bởi nơi đó có đủ thiên thời địa lợi. Nhưng hiện giờ bên trong kinh thành lại không phe không phái, Thụy Vương và Hạ thái sư thân vong cùng lúc, ai ai cũng mất đi chỗ sựa. Quan viên nếu chỉ tự lực cánh sinh, dựa vào bổng lộc mà sống thì chẳng duy trì được bao lâu. Quyền lực thì càng không phải bàn. Quý Tư chưởng quản tất cả quan lại lớn nhỏ, với tính cách của ông ấy thì phải trừ tận gốc những ai hủ bại, nên kinh thành hóa ra thế trời quang không một cây che chở. Cũng vì điều đó mà có rất nhiều người đổ xô nhau cuốn gối về vùng thôn quê. Ở đó trời cao hoàng đế xa, không ai quản, chỉ cần khôn khéo xoay trở, biết rõ hạn độ, thì sống còn tự tại sảng khoái hơn cả đương kim thánh thượng.”
Ngao Thịnh lắc đầu cười khổ, Tương Thanh khó hiểu hỏi Ân Tịch Ly, “Ân tướng, hạn độ nghĩa là gì?”
Ân Tịch Ly nhìn Tương Thanh, cười mà rằng, “Cho nên mới nói cậu là người thành thật mà, nhất định chẳng khi nào nghĩ đến chuyện chờ nước đọng vớt mồi ngon[2], nhỉ?”
Tương Thanh có chút bất ngờ nhưng lại chỉ gật đầu thừa nhận.
Ân Tịch Ly khe khẽ cười, “Ngày nào đó ta sẽ dạy cho cậu...nhưng mà, cậu cũng không cần phải chờ đến khi nước lắng xuống để làm gì. Không phải cả một Thịnh Thanh to lớn đều là của cậu hết sao. Trong tay cậu đang nắm lấy chủ mạch Thịnh Thanh đấy.”
Tương Thanh xấu hổ cúi đầu, vành tai loang loáng đỏ ửng lên, đưa mắt nhìn Ân Tịch Ly. Ân Tịch Ly lại tỏ ra vô cùng thích thú khi lấy y ra mà trêu mà đùa.
Ân Tịch Ly thấy Tương Thanh khi bị chòng ghẹo liền trở nên ngượng ngùng thì thấy sảng khoái vô cùng, cho nên mới nói, khi dễ hài tử thật thà tuy hơi bất lương một tí nhưng lại vui thật vui.
Ân Tịch Ly vốn muốn thôi không đùa nữa nhưng khi bắt gặp cái nhíu mày của Ngao Thịnh thì liền nổi hứng, vừa định mở miệng trêu tiếp thì lại bị Viên Liệt ngăn lại, “Ngươi chỉ biết khi dễ người hiền lành thật thà thôi.”
Ân Tịch Ly nhướng mày, thôi không chọc phá nữa.
Tất cả mọi người có phần ngạc nhiên ghé mắt nhìn, suốt dọc đường đi, Viên Liệt luôn có ý che chở cho Tương Thanh.
Ân Tịch Ly cũng tự hiểu được vì sao Viên Liệt lại làm như thế. Viên Liệt và Tương Thanh đều là những người tính tình trung trực ngay thẳng, không thích nhiều lời. Người ngoài nhìn vào thường nghĩ chẳng khác gì khối gỗ hay tảng đá. Cả hai có đến bảy tám phần tương tự nhau. Nhưng, điều quan trọng nhất vẫn là vì, Ngao Thịnh không trở thành một Viên Lạc thứ hai, hôn quân bạo ngược mà là cần chính liêm minh...công đó có hơn một nửa là thuộc về Tương Thanh. Viên gia chỉ còn lại mỗi một mình Ngao Thịnh, không bất nhân, không bạo tàn. Đó là một điều rất may mắn.
Và...vẫn còn một nguyên nhân sâu xa mà chỉ kẻ thâm tình mới hiểu. Viên Liệt rõ hơn ai hết cảm giác yêu đến chết đi sống lại là thế nào. Ông cũng đã từng buông bỏ giang sơn chỉ vì theo đuổi ái nhân. Ngao Thịnh là cháu ông. Ông không muốn đứa cháu duy nhất này bước theo vết xe đổ của mình. Bảo vệ Tương Thanh chu toàn cũng có nghĩa là hộ Ngao Thịnh một mạng.
“Như vậy nghĩa là…” Mộc Lăng chen vào, sớm cũng đã truy hồi toàn bộ ong độc vào hồ lô rồi, “đám huyện quan chốn khỉ ho cò gáy này ngang nhiên bằng vai phải vế với hoàng đế, hơn nữa lại còn cấu kết với phiên quốc. Nói trắng ra thì chúng cũng là một phiên vương của vùng này.”
Tất cả mọi người đều gật đầu.
“Mộc Mộc.” Tần Vọng Thiên bị đám ong độc kia bám dính lấy đến khó chịu, liền hỏi Mộc Lăng, “Sao đám ong đó lại thành thế này a?”
“A ha, tất cả chúng đều là ong đực, thứ mà ta bôi lên người ngươi là dịch tiết ra từ ong cái.” Mộc Lăng sang sảng đáp, “Ngươi nói thử coi, một con ong cái lớn như người thì hỏi sao mà ong đực kia không si mê bu vào, ha?”
Tất cả mọi người mím môi nhịn cười, Tần Vọng Thiên khóe miệng giật giật, hèn gì mà đám ong này có bám riết lấy y không rời
“Lưu Bật Chi không phải là kẻ đơn giản.” Kim Linh nói, “Trước kia ta và hắn cũng từng vai lần giao hảo. Người này dã tâm rất lớn, hoàn toàn khác với những tham quan chỉ biết cái lợi trước mắt. Điều đáng lo chính là không biết được mục đích thật sự của hắn là gì.”
“Trâu Viễn, đưa bản danh sách nghe được từ Ngô Mặc cho ta xem.” Ngao Thịnh cất giọng.
Trâu Viễn vội dâng danh sách lên.
Ngao Thịnh nhận lấy, mọi người ghé đầu vào nhìn. Cái tên Lưu Bật Chi được viết ở hàng đầu tiên, bên dưới là một vài người khác.
“Những người này cũng đều là quan ở Thượng Dung sao?” Tương Thanh hỏi Trâu Viễn.
Trâu Viễn nhíu mày đáp, “Những tên này là quan viên xa gần của vùng này, tất cả được liệt kê dựa theo cấp bậc...Đại khái thì hầu hết quan lại địa phương đều cấu kết với đám phiên vương.”
“A.” Ngao Thịnh cười lạnh, “Liên thủ với nhau...... Trẫm thật muốn xem thử chúng liên thủ với nhau thế nào.” Quét mắt nhìn mọi người, “Trước tiên chúng ta cứ tiếp tục lên đường, đi qua Thượng Dung phủ, đến nơi đóng quân tạm thời. Cố tình lộ ra tin tức quân ta đã rời khỏi Thượng Dung cho Lưu Bật Chi biết để thả lỏng cảnh giác. Ở Thục Trung, chúng đương nhiên không có chút thế lực. Chúng ta sẽ ở đó nghỉ ngơi ba ngày. Trong ba ngày này, sẽ lần lượt viếng thăm các nơi. Trước khi tiêu diệt Nam Man thì phải xóa sạch đám bại hoại này. Phải thanh lọc nội bộ trong sạch thì mới an tâm chinh chiến bằng không lại lâm vào cảnh bị vây bủa bốn bề.”
Tất cả mọi người đều thấy có lý, gật đầu tán thành.
Đội quân tiếp tục lên đường. Lần này, Ngao Thịnh rút kinh nghiệm, nhằm nơi có địa hình hai sườn vây bọc, đều phái người thám thính, dò đường thấy không có mai phục thì mới lên đường đi tiếp.
Sau khi lên xe ngựa, Ngao Thịnh liền nhìn thấy Tương Thanh ngồi xuống ôm lấy Ngao Ô, vân vê vành tai hổ, như là đang rất vui.
“Thanh.” Ngao Thịnh sáp đến gần, “Có chuyện gì mà vui thế?”
Tương Thanh chỉ cười bẻ sang chuyện khác, “Ta nghĩ, bách tính miền Nam đã phải chờ đợi rất lâu rồi.”
“Umm.” Ngao Thịnh cũng khe khẽ thở dài, “Đích xác hẳn là phải thắt chặt quản thúc hơn...Thanh, ta nghĩ quan viên cố hữu trụ lâu một chỗ khó tránh khỏi việc tham ô hảo tài, tốt nhất là nên luân phiên nhân lực, hai ba năm lại đổi vị trí cho nhau một lần.”
“Được đấy.” Tương Thanh gật gật đầu, “Chủ ý này rất hay! Đợi đến khi chiến trận kết thúc, chúng ta về bàn bạc kỹ hơn.”
Ngao Thịnh khe khẽ cười, choàng tay ôm lấy bả vai Tương Thanh, “Thanh, ngươi đã nói rất nhiều lần cụm từ sau-khi-trở-về rồi...ta nghe như thấy đấy là lời hứa hẹn thiên trường địa cửu vậy.”
Tương Thanh giật mình ngoảnh đầu đi nơi khác.
“Thanh, ngươi sẽ mãi mãi ở bên ta chứ?” Ngao Thịnh thiết tha hỏi, “Chúng ta về sau luôn có nhau, phải vậy không?”
Tương Thanh cúi đầu xoa đầu Ngao Ô, sau một lúc lâu thật lâu mới gật gật đầu.
Nhất thời, Ngao Thịnh vui sướng như điên, ôm chầm lấy Tương Thanh, chẳng biết lý giải tâm tình lúc này thế nào! Cuối cùng thì giấc mộng của Ngao Thịnh hắn cũng trở thành sự thật rồi. Đời này coi như đã viên mãn.
Đoàn người đi đến khi trời nhập nhoạng tối, ra khỏi Thượng Dung, đến trước cửa thành Đông quận phủ.
Ngao Thịnh đã sớm phái người thông tri quan viên Đông quận, nói là muốn dựng trại ở vùng ngoại thành vắng vẻ, tất cả mọi người đều không cần ra thành đón tiếp.
Ngao Thịnh không trực tiếp đến gặp chúng quan viên, chỉ để Tống Hiểu thay mặt thông truyền, không quấy nhiễu dân chúng, những quan lại địa phương khác cũng không cần đến diện kiến. Đại quân chỉ cần nghỉ ngơi đôi ba ngày lại liền khởi hành.
Sau khi nếm xong bữa cơm chiều, Ngao Thịnh, Tương Thanh, Tần Vọng Thiên, Mộc Lăng liền dẫn theo ảnh vệ, cùng nhau lặng lẽ ly khai quân doanh, quay trở lại Thượng Dung phủ, nấp thân trong tối nghe ngóng tình hình.