Phó Kính Thù hỏi Phương Đăng có hiểu không, Phương Đăng không hiểu. Cô chẳng qua chỉ là con gái của một tên ma men, sống một ngày qua một ngày, những thứ như nhà cao cửa rộng hay vinh dự đến bây giờ cũng chẳng hề liên quan đến cô. Nhưng suy nghĩ lại cô thấy có lẽ cũng không có gì khó hiểu, trên đời này có những thứ với kẻ khác chẳng đáng đồng xu, nhưng với người nọ lại là tất cả.
Trời tối thì mưa tạnh, qua sáng sớm hôm sau, mặt trời ló dạng rất nhanh, chiếu những tia sáng le lói còn lại của mùa thu xuống mặt đất. Bức tường đóng rêu của Phó gia Hoa viên bị nước mưa tưới sạch, trở nên xanh biếc màu gạch, lúc Phương Đăng đi ngang qua đó, cuối chân tường không có ai đứng đợi.
Hôm nay trên đường đi học về cô cũng không gặp Phó Kính Thù. Đến tối, trên tấm rèm nhung màu đỏ ở cửa sổ đối diện cũng không thấy ánh đèn hắt ra nữa. Anh đi đâu? Từ trước đến nay, Phương Đăng chưa bao giờ thấy anh rời đảo qua đêm, như anh nói, ở thành thị ngoài đảo anh cũng chẳng còn ai thân thích.
“Tôi đến phòng học xem thử nhưng thấy chỗ ngồi của anh Thất cũng trống không”. Lại một ngày trôi qua, A Chiếu vừa gặm cá chiên vừa nói với Phương Đăng. Mặt của cậu ta lúc này đã sạch đi đáng kể, Phương Đăng từng nói, nếu muốn ăn đồ cô nấu, ít nhất cũng phải lau sạch nước mũi đã.
“Chị Đăng, chị không thử nghĩ anh Thất có thể đi..”
“Không!”
A Chiếu sợ chọc giận Phương Đăng nên nín khe không dám nói thêm câu nào nữa, ăn xong con cá chiên, vẫn còn thèm thuồng liếm ngón tay, bỗng nhiên cất tiếng: “Nói không chừng anh Thất căn bản là không tồn tại… Ừ… giống như là biến hình rồi bay đi mất ấy. Người ta nói trong Phó gia hoa viên có hồ ly thành tinh, nên không chừng anh ấy đã biến mất rồi”.
“Còn nói nhảm nữa, tôi đánh cậu cho xem!”
A Chiếu bị cú một cái liền ôm đầu chạy.
Hoàng hôn buông xuống trên cánh cửa sắt trước Phó gia Hoa viên, từ khe hở nhìn vào, thấy được phía trong của toàn bộ khu nhà. Cạnh bồn phun nước đặt giữa vườn, cỏ dại mọc dài ra, héo úa. Trên bậc thang lá rụng đầy, chứng tỏ mấy ngày không ai quét dọn, mấy ngọn giả sơn bị sập bỏ phế từ lâu khiến cho Tây lâu càng lộ vẻ vắng lạnh. Cả khu nhà ngửi không được một tí mùi sinh khí nào. Khó trách A Chiếu tin vào những lời đồn ma quỷ đó.
Phương Đăng lại trèo tường vào bên trong, lão Thôi không có ở nhà, cô có thể yên lòng đi xuyên qua sau vườn hoa, băng qua ngôi nhà tróc nóc không ai ở, một đường thẳng tới cửa chính của Đông lâu.
Kiến trúc của khu vườn này khá đẹp, xem ra Phương Đăng không đi nhầm qua phía Tây mà đến đúng phía Đông của Phó gia Hoa viên rồi. Một bên là chòi nghỉ xây theo kiểu cổ cùng với hồ bán nguyệt, cửa chính lại có cột trụ và bậc thềm hai bên theo kiểu Tây, chắc là kiểu thiết kế thịnh hành hơn trăm năm trước, cũng là phong cách nhà cửa đặc trưng ở Qua Âm Châu này.
“Phó Thất, anh có ở trong không?” – Phương Đăng vỗ lên cánh cửa gỗ chạm hoa nặng nề. “Nè, anh không sao chứ! Nếu vẫn còn sống mạnh khỏe thì trả lời đi…”
Phương Đăng kêu suốt vài phút, bàn tay vỗ vào cánh cửa đã đỏ tấy lên, nhưng không biết cánh cửa lớn làm bằng thứ gỗ gì mà cứ trơ ra không nhúc nhích. Cô lùi lại mấy bước, hướng về cánh cửa sổ quen thuộc kêu tiếp, nhưng vẫn không có ai trả lời. Nhìn từ xa, phiến cửa sổ ở gian phòng Phó Thất thấy bình thường, nhưng đứng gần mới thấy nó cách mặt đất tầm năm thước, chung quanh không có chỗ nào để làm lực leo lên, dù Phương Đăng có linh hoạt cỡ nào, cũng nhất định không thể trèo lên đó được.
Phương Đăng chán nản lùa lá rụng, đặt mông ngồi xuống trên bậc thang bằng đá cẩm thạch mát lạnh. Anh có thể đi đâu chứ? Chẳng lẽ đúng như lời A Chiếu nói, khu vườn này chính là ảo giác mà hồ ly tinh đã tạo ra, anh là yêu quái trong khu vườn, chỉ muốn mê hoặc cô thôi? Nếu không thì tại sao trên hòn đảo này, mặt trời mọc hay lặn vẫn y như cũ, chẳng có ai quan tâm đến một người sống trong căn nhà lớn thế này bỗng nhiên biến mất, chỉ có một mình cô thấy nghi ngờ? Hồ ly trong truyện liêu trai còn ham thích dương khí của các công tử bảnh bao và tài cán, nhưng cô thì có gì để anh ham thích mà quyến rũ đây?
Đang ôm đầu suy nghĩ mấy chuyện chẳng đâu vào đâu, một âm thanh kỳ lạ bay tới sau lưng cô. Phương Đăng quay đầu lại , cánh cửa đóng kín mít mở ra một khe hở nhỏ, sau khe cửa đó, gương mặt của Phó Kính Thù lộ ra, vô cùng nhợt nhạt.
“Trời, anh ở trong đó sao lại để tôi gọi lâu vậy hả? Hai ngày nay anh làm gì? Tôi còn tưởng rằng anh chết trong đó rồi, đến xác trương lên cũng không ai biết”.
Nhìn cô xổ ra một tràng trách móc không ngừng, Phó Kính Thù chỉ đáp: “Chết thì chết, xác có thối lên thì có sao?”
Âm thanh của anh không lớn, trong giọng nói có một ít mùi vị giận dữ.
Phương Đăng cố nén lại, nhìn thấy dáng vẻ hiện giờ của anh, tự nhiên cảm thấy hơi buồn cười. Cô không nói tiếng nào chen vào khe cửa, vừa tò mò nhìn lấm lét xung quanh, vừa nói: “Nếu sống trong căn nhà lớn thế này, tôi sẽ không muốn chết”.
Phó Kính Thù có hơi miễn cưỡng nhìn cánh cửa sau lưng Phương Đăng tự nhiên khép lại, quay người đóng cửa rồi đi thẳng lên lầu, Phương Đăng theo đuôi anh như từ trước đến giờ.
Không biết do khắp nơi đều có màn vải che, hay là do tâm lý, vừa vào nhà Phương Đăng đã cảm giác ánh sáng chỉ lờ mờ, bốn phía đều rất sạch sẽ nhưng trong không khí luôn tràn ngập một thứ mùi không thể phân biệt, y như mùi củi mục, hương thơm nhàn nhạt, như hơi thở thời gian từ rất lâu đời. Cô mơ hồ nghĩ đã từng ngửi thấy mùi này ở đâu đó nhưng nhất thời lại không thể nhớ ra.
Phương Đăng đi theo Phó Kính Thù lên lầu, lúc này mắt đã thích ứng với bóng tối trong nhà. Cô quay đầu lại quay sát lầu một vừa đi qua. Cửa sổ hình cung cao từ sàn đến tận trần nhà, bao phủ bởi rèm cửa dài bằng vải nhung, sàn cùng tường bốn phía đều ốp gỗ màu trầm, chính giữa trống trải một cách khác thường, hai bên trái phải đều có một cánh cửa không biết dẫn đi đâu, có thể tưởng tượng trước đó ở đây được bài trí rất nguy nga tráng lệ, vậy mà hôm nay trống rỗng, chỉ còn duy nhất một ngọn đèn treo trên nhánh bằng đồng rất lớn, dĩ nhiên chẳng còn ngọn đèn thủy tinh nào cả, chiếc đèn móc vào trần nhà lộ ra một nhánh gỗ nhỏ lung lay, Phương Đăng chỉ e nó sẽ rơi xuống đập nát đầu mình.
Căn phòng này nhìn qua nguy hiểm tứ phía, thật may là thang lầu cũng có chút bền chắc, cả hai người bọn họ cùng nhau đạp lên nhưng chẳng có chút âm thanh dao động nào. Phương Đăng sờ mó tay vịn khắc hoa sáng lên trong bóng tối lờ mờ, dùng chân giẫm giẫm lên mặt gỗ của cầu thang.
“Phó Thất, thang lầu nhà anh làm bằng gì vậy?”
“Gỗ lim”
Bình thường, công việc mà Phương Học Nông hay làm để kiếm cơm là lo tang sự mai táng cho nhà người khác, nên Phương Đăng có nghe cha nói qua về gỗ lim, trong truyền thuyết, loại quan tài cực kỳ quý đều làm từ gỗ lim vàng. Nghĩ đến đây, cô chợt hiểu tại sao luôn cảm thấy mùi hương trong phòng rất quen thuộc, đó là mùi đặc trưng của tang lễ thời xưa, mùi của cái chết.
Nghĩ vậy, dù tự ình là người không sợ trời không sợ đất, Phương Đăng cũng bất giác rùng mình, không tự chủ được nắm lấy cánh tay của Phó Kính Thù đi đằng trước.
Đầu ngón tay của anh lạnh như băng, lại có cảm giác ẩm ướt khác thường.
Phó Kính Thù bị hành động đột ngột của Phương Đăng làm hết hồn, ngẩn người một lúc rồi chậm rãi rút tay ra.
“Làm gì vậy?”
Phương Đăng nắm chặt tay vịn cầu thang, dừng lại không đi tiếp, ngôi nhà cũ ma quái này khiến cô không lạnh mà run như cầy sấy, cô không hiểu tại sao lại có người giống anh, sống cả ngày ở nơi như thế này được nữa.
“Anh nói thật đi, anh không phải là ma quỷ hay lão yêu tinh trong nhà này chứ?”
Phó Kính Thù nở nụ cười: “Không biết, coi chừng tôi moi ruột cô ra đó!”
Nụ cười của anh làm bay đi phần nào sự âm u thê thiết trong nhà. Phương Đăng cũng cười hì hì trả lời: “Lão yêu tinh, ngươi muốn lấy ruột ta làm gì? Chiên hay xào để ăn hả?”
“Yêu tinh đều không có trái tim, nên mới moi tim người khác đặt vào lồng ngực của mình”.
“Anh nghe ai nói?”
“Chuyện xưa nghe người khác kể lại thôi.”
“Tôi thích nghe chuyện này, anh kể một chút đi”.
“Để sau này đã!”
“Lúc nào?”
Phương Đăng nhất định không chịu, lúc này Phó Kính Thù đã bước một chân lên lầu hai, dựa vào chỗ hành lang cuối đường, hơi thở có phần bất ổn.
“Thời điểm thích hợp”. Anh nói.
Lúc này Phương Đăng mới phát hiện giọng nói của anh vô cùng mệt mỏi, sắc mặt cũng không tốt lắm, gò má đã thon gầy nay lại có phần hõm sâu vào.
“Anh bệnh sao?” – Cô tự trách mình sao quá vô tâm, khó trách mấy ngày liên tiếp anh không hề bước ra cửa, vậy mà cô còn nghĩ mấy chuyện ma quái thần vật đâu đâu.
Phó Kính Thù nghỉ một lát, lại đưa cô vào tận trong lầu hai.
“Bị cảm thôi”.
Kiểu nói chuyện của anh lúc nào cũng vậy, như chưa bao giờ có chuyện gì to tát, Phương Đăng lại không nghĩ thế.
“Mắc mưa không cảm mới là lạ, anh uống thuốc chưa?”
“Rồi”
“Không đi bác sĩ sao?”
Cô hỏi dài dòng khiến anh có chút không vui.
“Sao cô nói nhiều quá vậy? Tôi là lão yêu tinh đó, cảm một chút có là gì. Vào đi, chỉ cần không đứng gần tôi là được, nếu không tôi sẽ lây cho cô đấy”.
Anh đưa cô vào phòng khách ở lầu hai, rồi ngồi xuống trên chiếc ghế nệm nhỏ mềm mại trong góc phòng.
“Cô tự nhiên đi. Lão Thôi không có nhà, tôi cũng không có tâm trạng nấu nước, nên không pha trà cho cô được”.
Phương Đăng cơ bản đâu phải muốn uống trà, cô rất muốn đến xem lò sưởi trên tường, bên cạnh ghế nệm của anh, trước đây cô đã biết vật này qua hình vẽ bằng sáp trong sách, không ngờ trong phòng anh lại có, hình vẽ chạm trổ bên trên rất rườm rà khiến cô tấm tắc mãi, chỉ có điều trong lò sưởi đến cả tàn tro cũng không có, chắc là nhiều năm không dùng đến, bây giờ chỉ còn là đồ trang trí.
Không gian trên căn lầu nhỏ này tuy không thể so với lầu một ở gian nhà giữa, nhưng vẫn giữ được nguyên vẹn dấu vết của đời sống bản xứ thường ngày, hoàn hảo hơn nơi khác, sàn nhà lót gạch bông tuy có vài vết rạn, nhưng đại khái vẫn coi như bằng phẵng, ánh sáng lan tỏa khắp nơi cũng khá nhu hòa. Trừ cái ghế nệm nhỏ Phó Kính Thù đang ngồi, cạnh bên lò sưởi còn có bộ ghế salon, bên kia có chiếc bàn thờ khá dài, màu đen tuyền, trên bàn thờ là một dãy tranh vẽ chân dung, được đóng khung gỗ cẩn thận, bề mặt bằng kính sáng bóng.
“Chỗ anh ở quả thật như trong tranh vậy, nói sao người khác đều bảo trước đây nhà họ Phó rất giàu”.
Phó Kính Thù theo tầm mắt của Phương Đăng nhìn một lượt xung quanh mình, nói theo kiểu hài hước: “Đây là gì chứ, cho dù là tranh vẽ, cũng là một bức tranh tàn lụi”. Anh chỉ vào góc trong phòng khác: “Ở đây trước kia có cái bàn tròn bằng gỗ kim đường kính tầm hai thước, coi như là vật đáng tiền. Ông nội tôi lúc còn trẻ đã sai người đem nó vào Hội chợ triển lãm Á Châu, nghe nói rất được tán thưởng. Chiếc bàn đó cùng với lò sưởi đều là vật để khoa trương, những thứ mà ông nội tôi yêu thích nhất, chuyện lớn nhỏ trong nhà đa số là bàn bạc ở đây. Thời điểm dời đi Tây Á, do quá vội vàng và luôn nghĩ sẽ có một ngày quay trở lại nên không đem chiếc bàn theo, bây giờ không ai biết rốt cuộc nó đang ở đâu nữa. Bàn thờ hiện giờ cô nhìn thấy bây giờ trước đây còn có một cái kệ, cùng với bàn thờ đều là từ gỗ tử đàn thượng hạng mà khắc thành, mười năm trước bảo tàng Qua Âm Châu “mời” chúng tôi đóng góp mất rồi. Chiếc bàn tròn trên sân thượng bị đổ, lão Thôi tiếc của không nỡ bỏ, dùng chân gỗ của nó làm giá lót rổ phơi rau. Khung hoa ngay trước lối vào hành lang lần đó đã bị nhà Phó Kính Thuần đến ngang nhiên lấy, nếu như không phải trên bàn thờ còn có hình vẽ của tổ tông, sợ rằng cũng không giữ được. Cái nhà này, đồ đáng giá đều bị lấy đi, những thứ còn lại chỉ là…” Anh cười một tiếng, không nói tiếp.
Trong đầu Phương Đăng tưởng tưởng ra tất cả những cảnh mà anh vừa tả, sự tưởng tượng mỗi lúc một tăng, vào thời điểm phồn thịnh nhất của Phó gia hoa viên, những nhân vật được ghi tên trong sách lịch sử cười và trò chuyện bên chiếc bàn tròn, những món đồ nội thất đồng bộ, chiếc bàn gỗ lim rộng hai thước cùng với chiếc kệ bằng gỗ tử đàn ở chính giữa, bốn phía còn có vô số thứ cô không biết gọi tên gì nhưng bài trí vô cùng lộng lẫy và tinh xảo, thậm chí giữa không gian còn có tiếng đàn dương cầm bay du dương trong gió…. Cô nhắm hướng bàn thờ đi tới, ngẩng đầu nhìn xem từng bức chân dung một. Chính là họ sao? Chủ nhân của Phó gia hoa viên, những người từng sống ở nơi này, những linh hồn người thân mà Phó Thất luôn khao khát được nhìn nhận?
“Đây là ai?” – Cô chỉ vào ảnh một người đàn bà gầy đét ăn mặc theo kiểu “cổ trang”.
Phó Kính Thù nói: “Đó là mẹ của ông cụ tổ, Hoàng thị”.
“Đó là cụ tổ của anh sao?” Phương Đăng bước qua một bước, đứng dưới một bức họa giống như bức trước. Trên bức họa vẽ hình một người đội chiếc nón quả dưa bằng da, mặc đồ cưỡi ngựa, trên ngực đeo đầy huy chương của người Tây.
Phó Kính Thù gật đầu.
“Chính là người đã khai sáng cơ nghiệp Phó gia sao?” – Phương Đăng nhìn kỹ tướng mạo ông lão trong tranh vẽ, nghe nói hiện nay, trường đại học lớn nhất thành phố còn có tượng của ông ta, không kể tiền quyên góp cho trường học, hơn một nửa đường sá trên đảo này lúc đầu đều là do ông bỏ tiền túi ra xây dựng.
“Phải. Cụ tổ của tôi, Phó Học Trình lúc nhỏ gia cảnh bần hàn, tên tục là A Vượng, mấy đời cư ngụ trên đảo, bán mì hoành thánh sống qua ngày. Không biết nguyên do vì sao đắc tội với một hương thân, bất đắc dĩ phải nghỉ bán mì, đem theo tất cả gia tài chỉ có mười lăm đồng bạc đến Nam Dương. Năm ấy ông mới mười tám tuổi, trước đi tàu sang Ấn Độ, sau đó chuyển hướng đến Mã Đại, lúc đầu vẫn là bán mì hoành thánh, lưu động qua tất cả các con hẻm lớn nhỏ, người ta gọi ông là “Vượng Hoành Thánh”. Lúc ông hỏi cưới một cô gái thường xuyên đến mua hoành thánh của ông, chính là con gái của ông chủ một cửa hàng nhỏ. Ông chủ cửa hàng coi thường người bán hoành thánh rong, không đồng ý lời cầu hôn. Ông cụ nhà tôi tức giận, dùng toàn bộ tiền bạc đổi sang bán hàng hóa, sau đó mới mở ra cửa hiệu…”
“Vậy sau đó ông có cưới con gái ông chủ cửa hàng kia không?” Dù sao Phương Đăng cũng chỉ là một cô gái, luôn để ý đến những huyền thoại diễm lệ trong truyền thuyết.
Phó Kính Thù vừa cười vừa nhìn cô: “Tôi cũng không biết. Tôi nghĩ là không có, vì bà cụ tổ của tôi cũng là người Qua Âm Châu mà”.
“Ồ..” Phương Đăng có hơi thất vọng, quả thật chuyện xưa đúng là không có cái kết hậu như trong tiểu thuyết. “Vậy có phải cửa hàng của ông cụ tổ nhà anh buôn bán càng ngày càng lớn không?”
“Sau khi mở cửa hàng, ông cụ tổ tôi bắt đầu tính đến chuyện giao thương quốc tế, lúc này ông lập ra “Công ty cổ phần Phú Niên”, cũng chính là tổ nghiệp đời trước của Phó gia. Thời kỳ Thế chiến thứ nhất, phạm vi kinh doanh của Phú Niên vươn đến ngành công nghiệp gạo, nông nghiệp và ngành sản xuất gỗ, còn mua cả vườn cây cao su lớn ở Ấn Độ, lúc đó ông cụ tổ được gọi là một trong bốn người giàu nhất Nam Dương, cũng trong năm đó trở thành người đứng đầu hiệp hội doanh nghiệp người Hoa ở Nam Dương”.
“Sau đó ông liền áo gấm về làng hả?”
“Có thể nói như vậy” – Năm 1919, ông cụ tổ tôi trở về Qua Âm Châu mua đất xây nhà…”
“Chính là chỗ này sao?”
“Chỗ này chỉ là một trong số đó, nhưng ngôi nhà cô thấy bây giờ cùng với hoa viên đều là xây dựng lại sau cơn hỏa hoạn, lúc đầu không phải thiết kế này. Ông cụ tổ tôi là người cố chấp lại rất truyền thống, trong nhà ai cũng có phần nể sợ ông. Nhưng đối với người ngoài ông lúc nào cũng nhiệt tâm, làm chuyện công ích, là người nhìn xa trông rộng. Cũng chính vì vậy, căn cơ của Phó gia ngày càng vững chắc, thực lực lúc đó là đứng đầu ngành hải dương, ở Thiên Tân, Hán Khẩu, Trùng Khánh và Quảng Châu cùng người ta mở tổ hợp mua bán, tham gia vào ngân hàng Hoa kiều, có thể nói ông đã sáng lập ình cả một đế quốc tài chánh”.
“Ô, tôi phát hiện dáng dấp anh có chút giống ông cụ tổ đó nha… là ở đây..” Phương Đăng chỉ vào càm trên bức họa. “Càm của ông ta rất nhọn, rất giống”.
“Sao tôi không thấy nhỉ?” – Phó Kính Thù cười nói – “Thật ra trong ba con trai của cụ tổ nhà tôi thì ông nội tôi Phó Truyền Thanh là giống ông cụ nhất”.
Phương Đăng bắt đầu đếm những hình vẽ trên tường: “Cái này chắc là con trai cả của cụ tổ, gọi là Phó Truyền gì… tôi quên rồi…”
“Phó Truyền Bản”
“Dù sao ông ta cũng là người của Đại phòng, có đứa cháu như Phó Chí Thời nên tôi không thích ông ta cho lắm”.
Phó Kính Thù ngồi sâu vào trong chiếc ghế nệm hơn, tiếng cười cũng nhỏ đến mức thậm chí không nghe được: “Cô đừng có đi qua đi lại nữa, tôi chóng mặt lắm”.
Có lẽ do nói nhiều nên anh mệt, thanh âm ngày càng trầm thấp, Phương Đăng nghe lời đến gần anh, ngồi trên sàn nhà, dựa vào lò sưởi, ngó về hướng mấy bức tranh phía đằng xa.
“Người mặt tròn đó là Nhị phòng Phó Truyền Cách phải không, ông ta đúng là con nuôi, nói sao nhìn chẳng giống với các anh chị em khác… Vậy … người mặc âu phục này nhất định là ông nội anh, Phó Truyền Thanh?”
“Phải” – giọng nói của anh có chút miễn cưỡng, không giống kiểu của anh cho lắm, tự nhiên Phương Đăng có cảm giác kỳ lạ.
“Nè, anh có phải đang ngủ gục không?”
“Sao lại vậy?” – Phó Kính Thù lại tiếp tục nói: “Năm ông nội tôi mười bảy tuổi, để thử nghiệm con trai, cụ tổ tôi đã giao một việc nhờ ông xử lý. Lúc đó là thời kỳ chiến tranh, ông nội dẫn theo mấy người tùy tùng, áp tải hàng ngàn bao gạo, trốn tránh mã tặc loạn binh, đến thẳng khu vực hạn hán Điền Tây, dự tính chuyến đi này sẽ thu lợi lớn, nhưng khi nhìn thấy cảnh người dân khổ sở đói khát, ông đã tự mình quyết định, đem ngàn bao gạo ra phát tế cho dân, sau đó cầm roi quay trở lại trước mặt ông cụ tổ xin nhận tội. Ông cụ tổ liền cười lớn nói: “Ta có đứa con trai ngoan, Phó gia có tương lai rồi”. Những chuyện này đều do chính miệng lão Thôi kể với tôi, năm đó ông là một trong những người tùy tùng thân tín của ông nội, đi theo ông nội từ nam ra bắc”.
Phương Đăng thật khó hình dung lão Thôi già nua cũng đã trải qua một thời đại truyền kỳ, là người đàn ông khỏe mạnh đi khắp đại giang nam bắc.
“Cơ nghiệp Phó gia bắt đầu từ cụ tổ của tôi, nhưng giữ nó được bền vững đều là nhờ công của ông nội, thậm chí là làm nó lớn mạnh hơn nhiều. Ông nội học trường Tây, nhưng cả đời tuân theo di huấn của ông cụ tổ “Không quên tổ nghiệp”. Năm đó ngôi nhà này bị hỏa hoạn phá hủy, có rất nhiều người kể cả bà chủ Trịnh đều khuyên ông nội rời bỏ vùng đất Qua Âm Châu nhỏ hẹp này , di cư sang Thượng Hải, không chỉ đông đảo mà khu vực thành thị cũng thuận tiện rất nhiều, nhưng ông nội tôi không chịu, ông nói cội rễ của ông là ở Qua Âm Châu, cho nên ông chịu tốn kém xây lại Hoa viên Phó gia lớn hơn gấp đôi so với thời của cụ tổ. Nếu không phải vì thời cuộc và nghĩ chẳng có cơ hội quay về, chắc chắn ông sẽ không bao giờ bỏ Phó gia hoa viên đến Tây Á định cư. Cha tôi nói, trước lúc lâm chung, vì chết trên xứ lạ quê người nên ông nội tôi không nguôi ân hận. Ông để lại hai di nguyện, một là để cho cha tôi nhận tổ quy tông, một chính là hy vọng hậu nhân của Phó gia sẽ xây dựng lại Phó gia hoa viên”.
“Vậy tại sao Phó gia Hoa viên hiện giờ vẫn còn cái vẻ ma quỷ thế này?” – Phương Đăng ái ngại hỏi.
Phó Kính Thù hạ giọng: “Xây dựng lại ư? Nói thì dễ…”
“Xem ra bà chủ Trịnh cũng không hoàn thành hết di nguyện của ông nội anh rồi!”
“Cô thấy không, trên bàn thờ có một gánh hoành thánh thu nhỏ đó.” Phó Kính Thù muốn chuyển sự chú ý của Phương Đăng sang hướng khác là chuyện rất dễ dàng, quả nhiên anh vừa nói xong câu đó, Phương Đăng lập tức nhỏm dậy đến gần xem, trên bàn thờ thật sự có một mô hình gánh hoành thánh làm bằng đồng. Cao khoảng một thước, điêu khắc rất tinh tế và sống động. “Mô hình gánh hoành thánh này là do cụ tổ tôi nhờ người ta làm ra, để ở đó chính là muốn hậu nhân đều nhớ khởi nghiệp thấp kém của Phó gia, chớ quên người đời trước đã khó khăn thế nào để dựng nên cơ nghiệp”.
Phương Đăng muốn sờ món đồ thú vị này một cái, liền vươn tay ra, nào ngờ lại làm ngã một bức tranh vốn để mặt trái trên bàn thờ. Bức tranh này so với mấy bức họa đặt ở giữa bàn thờ có nhiều khác biệt, nó chỉ lớn bằng bàn tay, nét vẽ sắc sảo, trên đó là một thiếu nữ đang ngồi nghiêng trên cỏ nở nụ cười. Nàng mặc một chiếc yếm bằng vải bố màu trắng, tóc đuôi sam đen tuyền thả xuống trước ngực, nụ cười và ánh mắt chứa chan ẩn tình. Phương Đăng nhìn kỹ, mau chóng phát hiện ra pho tượng mà thiếu nữ trong tranh dựa lưng vào chính là pho tượng con hồ ly đá nằm trong bụi cỏ hoang ở phía sau vườn hoa nhà Phó gia bây giờ, trong tranh còn có cái chòi mát nhỏ, không phải là cái chòi sập mà Phó Kính Thù hay ngồi vẽ bên trong sao, chỉ khác là lúc đó mọi thứ đều còn hoàn hảo, góc vườn hoa đầy hoa thơm cỏ lạ, đẹp tựa giai nhân.
“Đây là…”
“Chính là Tiểu Xuân cô nương. Cũng là người sinh hạ cha tôi”. – Không đợi cô hỏi hết câu, Phó Kính Thù đã nói ra câu trả lời.
Phương Đăng cầm bức tranh nhỏ trong tay, lật qua lật lại: “Vẽ đẹp thật, là ông nội anh vẽ sao?”
“Phải, ông và Tiểu Xuân cô nương lớn lên cạnh nhau, trừ ông ra còn ai vào đây nữa?. Nếu bà chủ Trịnh còn ở đây, bức tranh này chắc chắn không thể quang minh chính đại mà treo ra ngoài. Mấy năm nay, lão Thôi đoán chừng họ cũng sẽ không quay lại nữa, nghĩ đến việc ông nội tôi và Tiểu Xuân cô nương đều đã qua đời nhiều năm, mới len lén đem nó ra đặt ở chỗ này. Người dù gì cũng là chị ruột của ông, dù chỉ là một người hầu, nhưng cũng sinh được hậu nhân cho Phó gia, không thể thờ trong từ đường nhưng có thể để gần ông nội tôi một chút cũng tốt, mặc dù thế hệ này qua thế hệ khác, trong mắt người ta đều coi Người là loại nghiệt chủng không được nhận nhìn.
Giọng nói của anh thấp đến mức dường như không nghe được, nhưng trong lời nói khó che đậy sự mất mát, nỗi ưu tư khi kể lại những câu chuyện hoành tráng đáng tự hào của tổ tiên mình.
“Đừng như vậy mà!” Phương Đăng lo lắng cắt lời anh. “Anh là người của Phó gia, có cùng huyết thống với Phó Học Trình và Phó Truyền Thanh. Nói không chừng có một ngày, con cháu anh sẽ dùng âm điệu tự hào như vậy để kể về những chuyện anh từng trải qua đó.”
Phó Kính Thù sao lại không biết cô đang ý tứ an ủi mình, nên anh chỉ cười, sau khi cười liền ho một tràng không ngừng lại được.
“Anh sao vậy?” – Phương Đăng cảm thấy bất ổn khi nghe tiếng ho khan của anh, lo lắng đến cạnh bên anh hỏi – “Có cần tôi nấu cho anh chén nước không?”
“Không cần, tôi không sao.”
Tuy nói là không sao, nhưng giọng nói của anh rõ ràng không có sức, ngay cả ý chí kiên cường cũng chỉ là hữu tâm vô lực mà thôi. Phương Đăng lúc này mới nhớ, từ lúc cô vào nhà đến giờ, tình trạng của anh không tốt lắm, nhưng chính anh nói chỉ là cảm vặt nên cô cũng nhất thời không để ý, nhưng phải nói nhiều như vậy, càng lúc anh càng lún sâu vào chiếc ghế nệm, giọng nói cũng càng ngày càng thấp…
Phương Đăng cố gắng mở cánh tay anh ra, sờ vào trán anh.
“Chết rồi, sao lại nóng như vậy? Anh nóng như lửa đốt sao lại không chịu nói? Tôi đúng là ngu như heo vậy.” – Cô muốn nhanh nhanh đi rót cho anh ly nước, nhúng khăn lông ấm, nhưng vì hoàn cảnh xa lạ, trong lúc nhất thời cô không biết phải làm sao, chỉ biết đi vòng vòng tại chỗ như con kiến.
“Tôi nói cô đừng đi vòng vòng mà, ngồi xuống đi, ngồi xuống đây đi!” Anh yếu ớt chỉ vào vị trí bên cạnh mình.
Phương Đăng tìm được một bình nước, cô nổi giận đến phát rồ: “Ngồi cái gì mà ngồi? Ngồi xem anh chết làm sao hả?”
“Tôi chết rồi thì cô đi đâu tìm người kể chuyện xưa cho cô nghe chứ” – Anh càng cười thì tiếng ho khan lại càng dữ dội.
“Nhà anh bán vừng hay bán gạo thì có liên quan gì đến tôi chứ!”
Anh yên lặng một lúc, rồi lại hạ thấp giọng: “Là tôi muốn kể, từ trước đến giờ không có ai nghe tôi kể cả!”
Anh đúng là vẫn luyến tiếc thời hoàng kim.
“Kể kể kể…anh sợ chết rồi không ai kể hết chuyện cả dòng họ anh sao.” – Câu nói vừa thoát ra khỏi miệng, cô mới biết mình nói xui, liền tức giận vả vào mặt mình ba cái – “Tức chết mà, ở đây có khăn sạch không?”
“Cùng tuổi với tôi, ông cụ tổ đã xuống Nam Dương, ông nội thì đi về đất miền Tây, nhưng tôi chỉ có thể ở lại nơi chết tiệt này, không làm được bất cứ điều gì cả”
“Anh sống rồi mới có thể làm được điều khác chứ”.
“Phương Đăng, Phương Đăng… Nếu như tôi nói, có một ngày tôi sẽ xây dựng lại Phó gia Hoa viên, cô có tin không?”
Mắt anh nhắm nghiền, lúc này lời nói gần như là mê sảng.
“Không được, anh phải đến bác sĩ.” Phương Đăng muốn đỡ anh đứng dậy, cơ thể nóng bỏng của anh nặng nề rủ xuống, toàn thân dường như nửa phần bất tỉnh.
“Cô tin không?” – Đến lúc này anh vẫn lẩm bẩm câu hỏi đó.
Ánh mắt Phương Đăng ửng đỏ, lớn tiếng trả lời anh: “Tôi tin! Đương nhiên là tin!”
Anh nên biết, cho dù anh nói xây dựng lại không chỉ là nơi này mà là vườn Viên Minh, cô cũng sẽ tin, ở trước mặt anh, cô chính là ngốc nghếch như vậy đó.
Câu trả lời này dường như đã đem lại niềm an ủi lớn lao cho Phó Kính Thù, sau cùng anh đã bị Phương Đăng cố sức đỡ ngồi dậy, nhưng cơ thể bắt đầu mềm nhũn ra, một nửa tựa vào người cô.
“… Trước kia…. Tôi cũng tin…. Nhưng bây giờ tôi từ từ bắt đầu không tin nữa…”