CHƯƠNG 9 MINH KÍNH HÀ CỤ NHÃ TRẦN AI (GƯƠNG SÁNG SAO PHẢI SỢ BỤI TRẦN)
Đêm Nguyên tiêu mười lăm tháng giêng, Tiêu Uẩn Hi thiết yến Nguyên tiêu tại Yên Ba Các, trong bữa tiệc có mời bốn người Văn Các lão, Văn Tĩnh Lâm, Văn Tĩnh Vân cùng Nhạn Trì, duy chỉ tận lực bỏ sót Văn gia gia chủ cùng Văn Hàm. Sáu người ngồi chung một bàn, không phân tôn ti, hòa thuận vui vẻ. Trong lúc nói cười không đề cập tới quốc sự, chỉ hành tửu lệnh, sai mai(*) uống rượu, làm đôi câu thơ hợp cảnh. Tiêu Uẩn Hi trị quốc có phương pháp, nhưng không phải người bi xuân thương thu, về mặt thi văn còn khiếm khuyết rất nhiều, làm thơ tương đối hào hùng phóng khoáng, không chú tâm tới luật bằng trắc. Văn Tĩnh Vân yêu thích tân kỳ ngoạn ý, trầm mê thương trường, mấy chuyện văn nhân, đối với hắn đều là giả vờ giả vịt, cho nên không mấy hứng thú. Văn Tĩnh Lâm du lịch ngũ hồ tứ hải, cùng bạn bè thi thố, mười phần dángvẻ văn nhân, thường làm ra câu thơ hay khiến mọi người vỗ tay khen tuyệt. Văn Tĩnh Tư am hiểu trị quốc sách luận, đọc hết một lượt chư tử bách gia, nhưng chưa từng nghiên cứu nhiều về thơ văn, lời thơ chất phác tự nhiên, bộc lộ tình cảm thuần hậu. Văn Các lão ngược lại mọi thứ tinh thông, trong lời thơ có ấn giấu kinh nghiệm trải nhân tình thế thái , nhìn thấu tang thương thiền ý cùng rộng lượng. Nhạn Trì thân là võ tướng, lời thơ không thể thiếu hùng tâm tráng chí, có phần tương đồng với Tiêu Uẩn Hi.
(sai mai: chơi đoán- một trò chơi, thường dùng làm tửu lệnh, lấy hạt dưa, hạt sen hoặc các con cờ đen trắng nắm trong lòng bàn tay, để người khác đoán chẵn lẽ, số lượng hoặc màu sắc, người đoán trúng thì thắng.)
Gần cuối bữa tiệc, Văn Doãn Hưu tỏ ý qua ngày hôm nay sẽ chào từ biệt trở lại Ân Châu, Văn Tĩnh Tư tuy không muốn, nhưng cũng biết việc này không thể tránh khỏi, chỉ đành ôn nhu khuyên nhủ phụ thân bảo trọng thân thể, chớ lo lắng vì mình.
Tiêu Uẩn Hi mím môi sau khi nghe y nói xong, cười lên tiếng: “Văn Các lão am hiểu nhất là việc dưỡng sinh, ngươi lo cho ông, không bằng lo cho bản thân. Tuy có thêm vài cân thịt, so với nữ tử mang thai bình thường còn kém xa, trẫm thật sự không biết đã bạc đãi ngươi ở chỗ nào.”
Văn Tĩnh Tư chưa kịp an ủi, Văn Tĩnh Vân cướp lời nói: “Không có đâu, ta đây ngu dốt như vậy còn cảm thấy bệ hạ đối với nhà ta rất tốt, đối với đại ca càng là không thể bắt bẻ điểm nào.”
Mọi người nghe vậy, đều ôn hòa cười rộ lên. Tiêu Uẩn Hi vừa cười vừa suy ngẫm: “Tĩnh Tư, yêu một người như chia làm mười phần, trẫm cho ngươi chín phần, còn một phần chia đều cho người trong thiên hạ.” Lời này hắn cũng chỉ dám nghĩ thầm trong lòng, nếu nói ra thật, e là Văn Tĩnh Tư sẽ ân cần khuyên bảo phải lấy thiên hạ làm trọng, sát phong cảnh a.
Văn Tĩnh Lâm cười đủ rồi, mới nói với huynh trưởng: “Tuy phụ thân không ở bên cạnh ngươi, còn có hai đệ đệ chúng ta. Năm nay ta không đi nữa, đợi ngươi sinh tiểu chất nhi cho ta, để xem lớn lên giống ai, còn phải thông báo cho tiểu muội.”
Văn Tĩnh Tư kinh ngạc nói: “Ngươi muốn nói cho A Tâm biết?”
Văn Tĩnh Lâm cười đáp: “Văn gia trăm năm qua mới có một hoàng hậu, đế hậu tình thâm ý trường, yêu một lòng một dạ, việc đại hỉ này, sao có thể quên thông báo cho muội ấy?”
Văn Tĩnh Tư sững sờ, thoáng chốc mặt đỏ ửng. Tiêu Uẩn Hi cao giọng cười to, thanh âm vui sướng xuyên qua Yên Ba Các, phiêu đãng dưới ánh mặt trời thư thái mùa đông.
Vừa qua Tết Nguyên tiêu, chính là Thiên thánh lễ ngày 29 tháng 1. (nói nôm na là sinh nhật của Hi ca)
Trong triều có quan viên thỉnh tấu năm ngoái mừng ngày sinh của tiên đế như thế nào, Tiêu Uẩn Hi trên triều cầm sổ con trong tay cười nói: “Tâm ý của các vị ái khanh, trẫm rất rõ ràng. Nhưng thứ nhất, trên có ghi rõ các công việc lo liệu liên quan đến Thiên Thánh Lễ, trẫm đã cho phép, liền phải tuân thủ, không muốn xa hoa lãng phí. Thứ hai, “Ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao. Dục báo chi đức, hạo thiên võng cực”(*). Trẫm không nỡ để ngày mẫu phi đau đớn vất vả trở thành ngày chung vui cùng dân chúng. Thứ ba, tình hình hạn hán ở bắc địa đã giải quyết, thiệt hại tiền vật người dân, ngân lượng dùng cho Thiên Thánh Lễ của trẫm lần này, đều cấp cho bách tính hai châu, tuy chỉ như muối bỏ biển, cũng là một chút thiện tâm của trẫm.” Sau đó, Mộc Phùng Xuân tuyên bố ngày lễ Thiên Thánh mời quan viên từ tam phẩm trở lên vào Thiên Bích hồ thưởng thức rượu thanh mai.
(*: Xuất xứ từ Kinh Thi: “Phụ hề sinh ngã, Mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu sinh ngã cù lao, dục báo thiên ân, hiệu thiên võng cực” -Cha sinh ra ta, Mẹ bồng bế ta, thương thay cha mẹ, sinh ta khó nhọc, muốn báo ân sâu, khác nào như trời cao, khôn cùng).
Hạ triều, Tiêu Uẩn Hi lại than phiền với Văn Tĩnh Tư: “Ngươi không tham dự, đối phó với đám cựu thần cực không thú vị, hay là hôm ấy đặt trước bàn ngươi một chiếc bình phong?”
Văn Tĩnh Tư cười đáp: “Như vậy có vẻ giấu đầu hở đuôi.”
Tiêu Uẩn Hi đột nhiên áp sát thì thầm đôi câu vào tai y, Văn Tĩnh Tư nghe được trên mặt lộ vẻ nghi hoặc. Dạ yến trừ tịch y không có mặt đã khiến những lời đồn đại y thị sủng mà kiêu xuất hiện, Thiên Thánh Lễ còn không lộ diện, chỉ e mấy kẻ thích ngồi lê đôi mách tấu trình lên trên. So sánh ra, cũng chỉ có thể thử một lần theo ý của Tiêu Uẩn Hi.
Ngày hai chín tháng một, trời cao trong xanh, đã qua thời điểm mưa tuyết dồn dập rét lạnh, chúng thần thay những bộ áo bông nặng trịch bằng ấo gầm lông cừu, tăng vài phần cảm giác đón xuân. Trên hồ Thiên Bích mấy cấy sen tàn cũng không hấp dẫn gì, chỉ có rừng mai trồng ven bờ hoa đã nở, duyên dáng đứng thẳng, hương mai thanh u, khiến đám văn thần ngơ ngẩn. Văn võ trọng thần ngoài tam phẩm đều tề tụ bên hồ Thiên Bích, hoàng đế chưa thấy đến, liền bớt đi nhiều lễ tiết câu thúc. Vò Thanh mai vừa mở, hương thơm tinh tế lan tỏa bốn phía, liên văn đối rượu, cảnh tượng hòa thuận vui vẻ.
Trình Mộng Đồng bởi vì trị hạn có công, phá lệ cho phép thưởng rượu. Ở đây có không ít người giỏi về phương diện nhìn mặt mà nói chuyện, phỏng đoán thánh ý, người hoàng đế muốn trọng dụng đề bạt, vô luận xuất phát từ ngưỡng mộ tài đức, hay nể mặt hoàng đế, ai nấy đều đến mời rượu thăm hỏi. Trình Mộng Đồng là hậu sinh trẻ tuổi, sao có thể làm đối thủ của đám lão hồ ly này, không dám từ chối, đành phải không câu nệ ai, cho nên hoàng đế chưa tới, bản thân lại uống đến ba phần men say. May mắn có vị võ tướng đề cập hoàng đế thật lâu còn chưa xuất hiện, mới phân tán sự chú ý của mọi người, miễn cho hắn say rượu mà xấu hổ.
Sử Truyền Phương tay vuốt chòm râu nhìn về phía Lãng Uyển Đình, lẩm bẩm: “Bệ hạ đã đến từ sớm rồi.” Thanh âm của ông không lớn, Trình Mộng Đồng đứng bên cạnh lại nghe được rõ ràng, kinh ngạc nói: “Ở đâu cơ?”
Sử Truyền Phương bỗng nhiên nở nụ cười, nâng chén kính từ xa. Chúng thần bốn phía thấy ông làm như vậy, từng người đều nhìn về phía Lãng Uyển Đình. Tám mặt của đình được che phủ bởi lụa trắng mỏng rũ xuống, mơ hồ có thể trông thấy hai thân ảnh, một minh vàng, một thuần trắng, đứng ở hai bên bàn đá, bởi vì khoảng cách khá xa, thấy không rõ diện mạo. Nhưng nhìn Sử Truyền Phương cung kính như vậy, mọi người nghĩ thầm kia đích thị là bệ hạ không thể nghi ngờ.
Tiêu Uẩn Hi xuyên qua sa mỏng nhìn Sử Truyền Phương xa xa nâng chén kính rượu, cười nhẹ nói: “Hắn là mời ngươi đó.”
Văn Tĩnh Tư kinh ngạc nói: “Ta có tài đức gì có thể khiến Sử Các lão mời rượu?”
Tiêu Uẩn Hi uống cạn chén rượu, đưa chén rượu trong tay cho y, cười đáp: “Ngươi thử xem thì biết.”
Văn Tĩnh Tư hai tay tiếp nhận, thấy trong mắt hắn không có vẻ gì là vui đùa, do dự đôi chút, chậm rãi giơ cánh tay lên kính rượu cùng Sử Truyền Phương xa xa. Không ngờ Sử Truyền Phương quả thật cúi người hành lễ, uống cạn chén rượu. Văn Tĩnh Tư nội tâm tuy nghi hoặc không thôi, nhưng vẫn nâng chén uống cạn. Tiêu Uẩn Hi đi đến trước người y, thấy đôi mắt ngây ngẩn của y, thật sâu nói: “Sử Các lão kính ngươi tài đức nhân ái, cũng kính ngươi vất vả hoài thai.”
Văn Tĩnh Tư mắt tiệp nhẹ nhàng lay động, mí mắt hạ xuống che giấu cảm xúc bên trong. Tiêu Uẩn Hi cười một tiếng, nói: “Trẫm đi một chút rồi sẽ trở lại.”
Trình Mộng Đồng thấy người mà Sử Truyền Phương kính rượu không phải là hoàng đế, nội tâm khẽ động, tới gần vài bước thấp giọng hỏi: “Người kia chính là Văn đại nhân?”
Sử Truyền Phương nhẹ nhàng đặt chén rượu xuống bàn đá, vuốt ve chòm râu, hỏi ngược lại: “Ngươi nói xem?”
Trình Mộng Đồng thần sắc ngưng tụ, giương mắt ra xa, trong đình chỉ còn lại một người ngồi đó, dựa vào lan can đá, lưu lại mặt bên đơn bạc, cùng sen tàn trong hồ tôn nhau lên, hiện ra vài phần tiêu điều cùng cô tịch.
Tiêu Uẩn Hi đến bên bờ hồ, được chúng thần lễ bái, nói qua vài câu, liền nâng chén cười nói: “Hôm nay thỉnh các vị ái khanh đếm phảm rượu Thanh mai, không cần câu nệ, chỉ cần tận hứng, chư vị tùy ý a.”
Có những lời này của hoàng đế, mọi người liền hết rụt rè, chuẩn bị khoan thai nâng ly cụng chén một phen. Đúng lúc này, Tả Tán Kỵ Thường Thị bỗng nhiên lên tiếng: “Văn Thái Phó chưa đến, e là có chuyện, bệ hạ có nên sai người đi xem không?” Một câu này của hắn, ngược lại hỏi ra rất nhiều nghi vấn trong lòng nhiều người. Dạ yến đêm ba mươi, hoàng đế vì Văn Tĩnh Tư thân thể mang bệnh miễn dự yến, hôm nay chính là Thiên Thánh Lễ, là nhất phẩm trọng thần, nếu không lộ diện, e sẽ khiến người khác đàm luận là ngạo mạn vô lễ.
Mọi người đều nhìn về phía hoàng đế, Tiêu Uẩn Hi cầm chén chỉ Lãng Uyển Đình đằng xa cười nói: “Văn tướng không phải ngồi trong đình đó sao? Thân thể của y không tốt, nhưng vẫn muốn đến chúc mừng, trẫm sợ y trúng gió thụ hàn, đặc biệt kêu người treo mành chống gió. Chúng ai khanh không có việc gì thì đừng quấy nhiễu y, khiến y bệnh càng thêm bệnh, ở lâu không dứt, chuyện trên tay trẫm còn cần đến cái đầu của các ngươi.”
Quần thần nội tâm đều cả kinh, không phải Văn Tĩnh Tư bệnh đã lâu, mà là một tiếng “Văn tướng” kia. Văn Tĩnh Tư từ chức Thừa tướng, theo lý phải mau chóng chọn ra người thích hợp tiếp nhận vị trí, Tiêu Uẩn Hi chẳng những không hề có ý này, ngay cả một ít đại thần thỉnh tấu đều áp xuống không nhắc tới. Hôm nay một tiếng danh xưng cũ, rõ ràng thông báo cho bọn họ, Văn Tĩnh Tư sau khi trở lại triều, vẫn như trước nhậm chức Thừa tướng. Không khỏi hai mặt nhìn nhau, âm thầm cảm thán người này thâm thụ đế sủng. Bỗng nhiên nhớ tới lời đồn đãi về hai người, quả nhiên không có lửa thì làm sao có khói. Lại hiểu được Văn Tĩnh Tư trên chính sự tác phong chính phái, tận tâm tận kực, thật sự có công lao, kể từ đó, liền không có lý do gì để chỉ trích nữa.
Tiêu Uẩn Hi bảo vệ Văn Tĩnh Tư, mọi người đều thấy được, ngầm hiểu lẫn nhau. Trình Mộng Đồng không biết qua lại, há miệng liền hỏi: “Bệ hạ, Văn tướng bệnh ra sao, có nghiêm trọng hay không?”
Tiêu Uẩn Hi nhàn nhạt liếc mắt nhìn hắn, cũng không trả lời. Sử Truyền Phương cười thầm trong lòng, “Bệ hạ sao có thể mở miệng đây?” Kéo Trình Mộng Đồng qua một bên khuyên nhủ: “Văn đại nhân vất vả lâu ngày thành bệnh, tu dưỡng mấy tháng có thể trở lại triều đình. Trình đại nhân không cần lo lắng, lo uống rượu của ngươi là được rồi.”
Mọi người rượu quá ba tuần, đều có phần chếch choáng, lấy mai làm đề, vịnh thơ thất tuyệt. Đang lúc cao hứng, Sử Truyền Phương vô tình vừa nhấc mắt, liền trông thấy Trình Mộng Đồng trên cầu cong, chỉ vài bước nữa là đến gần Lãng Uyển Đình, không khỏi liếc nhìn hoàng đế. Tiêu Uẩn Hi giờ phút này cũng phát hiện, mục quang lạnh lùng, nhưng lại không có ý gây trở ngại.
Văn Tĩnh Tư ngồi một mình trong đình đọc sách tự tiêu khiển, nhập tâm đến mức Trình Mộng Đồng đi qua mành gió lúc nào cũng không để ý, tưởng là Tiêu Uẩn Hi uống rượu xong quay về.
Trình Mộng Đồng thấy y dựa vào da thú, cầm sách mà đọc, thân hình gò má so với lúc mình rời khỏi kinh thành có phần mượt mà hơn, nhưng so với nam tử bình thường khác vẫn là gầy yếu như cũ, chỉ có bụng to như cái trống, là không thể che dấu được. Trên mặt không khỏi hiện lên vẻ chấn kinh, khổ sở, hiểu rõ, sùng kính, đủ loại thần sắc, cuối cùng đều hóa thành một nụ cười nhàn nhạt bên môi, thật sâu hành lễ. “Đại nhân.”
Văn Tĩnh Tư cả kinh, ngẩng đầu thấy là hắn, hơi sững sờ, thở dài, khép sách lại chỉ vào ghế đá trước người, gật đầu ôn nhu nói: “Trình đại nhân, ngồi đi.”
Trình Mộng Đồng thấy y buông sách, rõ ràng là một quyển , nhớ ra y hôm nay thân là Thái Phó, sau này còn phải dạy bảo đế vương tương lại, nội tâm nhất thời cũng không biết tư vị ra sao, mục quang mang theo men say kinh ngạc rơi xuống bụng Văn Tĩnh Tư, chìm vào trong suy nghĩ của mình. Văn Tĩnh Tư thấy hắn nhìn chằm chằm bụng mình, cũng không xấu hổ, đứng dậy ngồi trước bàn đá, chóp mũi ngửi thấy hương rượu thoáng qua trên người Trình Mộng Đồng, đưa tay rót đầy hai chén trà xanh, mỉm cười: “Trình đại nhân.”
Trình Mộng Đồng giật mình bừng tỉnh, rất xấu hổ, đến mức đỏ bừng cả mặt. Bản thân đã cực kỳ thất lễ, gần như vũ nhục, vội vàng đứng dậy cung kính bái lạy. “Hạ quan có tội, đại nhân, đại nhân…” Trong lúc nhất thời, cũng không biết nên nói thế nào mới có thể cho đối phương biết tấm lòng kính ngưỡng của mình.
Văn Tĩnh Tư nâng hắn dậy, trấn an nói: “Không sao, Trình đại nhân không cần để ý.”
Trình Mộng Đồng thấy y hai mắt ôn hòa như nước, nét mặt tươi cười thanh hoa vô song, không khỏi trở tay nắm lấy tay y, chăm chú thật chặt, nội tâm dần dần an định lại. “Văn tướng, từ biệt mấy tháng, thấy ngươi không việc gì, ta thật sự cao hứng.”
Hai người gặp mặt cũng bất quá vài lần, Trình Mộng Đồng nói như vậy, đã có chút ý vị tương giao thiệt tình. Văn Tĩnh Tư nghe xong mím môi cười, trả lời: “Ta ở kinh thành đương nhiên không sao cả, không giống Trình đại nhân bôn ba khổ cực, đen gầy đi nhiều.”
Trong mắt hai người đều chứa đựng thương tiếc, nhìn nhau một lát, cùng ngồi xuống. Văn Tĩnh Tư nâng chén kính hắn: “Trình đại nhân, bắc địa trị hạn, càng vất vả công lao càng lớn, ta dùng trà thay rượu, thay dân chúng hai châu cảm tạ đại nhân.”
Trình Mộng Đồng cũng không câu nệ tiểu tiết, thản nhiên tiếp nhận, bưng chén trà xanh, cụng chén với Văn Tĩnh Tư, ngửa đầu uống cạn, đột nhiên nói: “Ta mặc dù cùng tuổi với đại nhân, lại một lòng kính mến tài đức đại nhân, nguyện cùng đại nhân làm quân tử chi giao, không biết đại nhân có nguyện ý hay không?”
Văn Tĩnh Tư nhướng mày cười nói: “Có gì không thể?”
Trình Mộng Đồng cất tiếng cười lanh lảnh, lớn tiếng nói: “Được!” Trong lòng hắn cực kỳ kích động, xoang mũi chua xót, hai con ngươi liền hiện lên một tầng lệ quang, cảnh trí bốn phía bắt đầu trở nên mơ hồ, chỉ có thân ảnh của Văn Tĩnh Tư vẫn như cũ tinh tường rõ ràng.
Văn Tĩnh Tư thấy hắn tính tình cởi mở, không chút giả tạo, cử chỉ thẳng thắn tiêu sái, có vài phần tương tự với Tĩnh Lâm, nội tâm liền nhiều hơn chút ít cảm giác thân cận. “Mộng Đồng, ta nghe nói lúc ngươi ở Biện Châu không quen thủy thổ, bị bệnh. Bệ hạ lần này điều ngươi đến giám sát công trình ở bắc địa, nhất định phải bảo trọng thân thể, chớ nóng vội.”
Trình Mộng Đồng thấy y quan tâm chính mình, trong lòng cảm thấy ấm áp, gật đầu đồng ý. “Khi đó mọi việc đều khẩn cấp, một lòng muốn bình ổn dân loạn các nơi, chẳng màng ăn uống, khiến tính khí mất cân đối, xác thực khó qua. May mà có Tôn đại nhân ổn định đầu trận tuyến, bằng không, ta thật xem như loạn càng thêm loạn, bề bộn thêm bề bộn.”
Văn Tĩnh Tư cười nói: “Bận đến nỗi liền quên dùng bữa, điểm ấy ngược lại giống với ta, cũng không trách ngươi được.”
Hai người nhìn nhau một lát, đều bật cười. Văn Tĩnh Tư lại nói: “Ta ở trên triều, nỗi khổ của dân chúng không biết nhiều bằng ngươi đã từng qua dân giân một lần, hai đạo sắc lệnh thi hành cũng không biết có mang lại hiệu quả như những gì ta tình ra hay không, mặc dù theo lệnh mà làm, cũng không dám chắc quan viên các nơi giống như ngươi công chính vô tư, không thiếu những kẻ vì lợi riêng mà trái luật, đem nỗi khổ tâm của ta trở thành trò đùa.”
Trình Mộng Đồng thấy hai hàng lông mày của y chau lại, nhớ tới dân chúng bắc địa đối với hai đạo lệnh đó đều đón mừng, không muốn y suy nghĩ nhiều, an ủi nói: “Quân Cẩn không cần lo lắng. Căn cứ vào những gì ta chứng kiến ở hai châu, [Quy điền] đề cập tới việc bách tính quan tâm nhất, làm cho bách tính chân chính có ruộng đất, bảo vệ ấm no, không đến mức trôi giạt khắp nơi. [Tiết kiệm] càng thêm ước thúc người giàu có quan lại, tiết kiệm chi tiêu quốc khố, tới cuối cùng cũng là vì dân chúng. Quan viên hai châu tuy không phải hết thảy đều thanh minh liênm khiết, nhưng khi thi hành chính lệnh, cũng không có thành kiến quá lớn. Dân chúng nhận hai lần ân huệ, cùng suy nghĩ trước đây của Quân Cẩn, hẳn là không khác nhau lắm. Nếu không, bách tính Biện Châu khi nghe thấy ta nói rằng mình là người do Văn tướng tiến cử, liền quỳ xuống cảm ơn. Suy cho cùng, lúc ta ở đó hưởng không ít tiếng thơm của ngươi.”
Văn Tĩnh Tư sau khi nghe xong, bật cười từ đáy lòng, vì Trình Mộng Đồng uống cạn chén trà. Hai người lẳng lặng phẩm trà, đều hưởng thụ loại không khí thích ý thư giãn này. Trình Mộng Đồng thể xác lẫn tinh thần đều thư sướng, suy nghĩ mông lung, hai mắt nhắm lại tinh tế thưởng thức hương đồ mi quanh quẩn bên chóp mũi. Qua hồi lâu, mới mở mắt ra, dừng trên nét mặt tười cười nhu hòa của Văn Tĩnh Tư, chậm rãi nói: “Ta lớn lên trong gia đình bách tính bình dân, bảy tuối đọc một lượt [Kinh Thi], mười tuổi đã thuộc làu làu [Trung dung], [Đại học], phụ thân thấy ta có chút thiên phú, liền đưa ta tới thư viện tốt nhất châu phủ. Ta qua sơ khảo thi huyện, sau đó đứng đầu thi hương, nhất thời phong quang vô lượng, phụ mẫu thân thích ai nấy đều vui mừng, người người ở quê đều vì ta mà kiêu ngạo. Ta bị sự vui sướng ban đầu này bay thẳng lên trời, thật cho mình là Văn Khúc tinh tái thế, nhân gian hiếm có, phàm thế độc nhất. Cho đến khi trượt thi hội, mới biết được trong triều dã, không phải chỉ dựa vào học thức là có thể độc tôn, có bản lĩnh là có thể xưng lớn. Đạo lý đối nhân xử thế, cách đối nhân xử thế, có khi còn hơn cả pháp luật.” Hắn kể lại chuyện cũ của bản thân, ngữ khí bình tĩnh không gợn sóng, Văn Tĩnh Tư lại nghe ra ý bất bình, cũng không xen vào, khẽ gật đầu chờ hắn nói tiếp.
Trình Mộng Đồng ánh mắt càng thêm nhu hòa, thản nhiên nói: “Ta không được như ý, chán nản tới tửu quán, gặp gỡ Sử Các lão, hắn tinh tế hỏi cách nhìn của ta với thiên hạ thế cục, bách tính dân sinh. Ta say rượu thất thần, ngay cả mình nói gì cũng không nhớ, chỉ biết sau khi tỉnh lại đã nằm ở khách viện của ông. Sau nửa tháng, liền có người đến dẫn ta vào Hàn Lâm Viện, lúc ấy mới biết, ta lĩnh quan thụ chức tất cả đều là nhờ Sử Các lão tiến cử hiền tài.”
Trình Mộng Đồng nhẹ nhàng thở dài, rót đầy trà cho Văn Tĩnh Tư, hai người nhẹ nhàng cạn chén. “Ta ở Hàn Lâm Viện, chức vị thấp nhất, tiếng nói rất nhỏ, không được trọng dụng, rất nhanh liền nản lòng thoái chí, bắt đầu sinh thoái ý. Sau khi Sử Các lão biết được, nhắc tới ngươi. Ta âm thầm lưu ý, chỉ cảm thấy ngươi tài đức vẹn toàn, chỉ thiếu kỳ ngộ. Quả nhiên, năm trước bệ hạ đăng cơ, ngươi rốt cuộc như ưng giương cánh, nhất phi trùng thiên. Quân Cẩn, ngươi không biết, ta nhìn vào ngươi, cảm thấy bản thân còn có hy vọng, không đến mức chôn vùi cả đời trong bụi bặm. Ngươi đối với ta, không chỉ là ơn tri ngộ, mà còn là nghĩa cứu tâm, giống như tái tạo.”
Văn Tĩnh Tư không biết còn có đoạn ẩn tình này, thấy trong đôi mắt hắn có sùng kính với mình, có sự vui mừng của đại trượng phu khi khát vọng được như nguyện, không khỏi thở dài: “Nếu không có bệ hạ, ta cùng ngươi, không khác nhau nhiều.”
Trình Mộng Đồng cười nhạt một tiếng, lắc đầu nói: “Ta cùng ngươi, không giống nhau.” Không giống ở đâu, hắn cũng không nói rõ, chỉ chăm chú nhìn Văn Tĩnh Tư một lát, kiên định nói: “Văn tướng, sau này Trình Mộng Đồng ta thề chết theo ngài, tuyệt không hai lòng.”
Văn Tĩnh Tư tâm đầu nhất khiêu, lời thề trần trọng như vậy, thật sự khiến y có chút kinh ngạc, lập tức khuyên giải nói: “Hạc Khanh, một người, trong bụng có thực học, vô luận bị mai một ở đâu, vẫn như hạc giữa bầy gà, phá lệ xuất chúng. Ta chỉ nói ra tên của ngươi, bệ hạ mới là người cho ngươi cơ hội thi triển sở trường, bản thân ngươi cũng không cô phụ mười năm gian khổ học tập, cha mẹ hương thân tha thiết chờ mong. Muốn cảm kích thì nên cảm kích bệ hạ, cảm kích ngươi một thân tài ba uyên bác, mà ta, chỉ là người ngoài mà thôi.”
Trình Mộng Đồng nghe vậy, đôi mắt cơ trí thanh minh hiện lên bất đắc dĩ nhàn nhạt, thong thả lắc đầu, không hề mở miệng. Hương trà xanh vấn vít lưu luyến quên lối về, giống như cảm giác mà Văn Tĩnh Tư đem lại cho người khác, nhẹ nhàng lại xa xôi, thơm ngát mà lâu dài. Trình Mộng Đồng nghĩ nghĩ, lại cảm thấy một tia đắng chát, từ đáy lòng dần dần tản ra.
Mùa đông dù cho rét lạnh cỡ nào, cũng có lúc băng tuyết hòa tan khi xuân đến.
Hoa mai dần tàn, hoa đào tươi cười đón gió xuân, lá sen tàn trên hồ Thiên Bích đã biến mất, thay bằng ngàn chiếc lá xanh biếc, mỗi khí gió nhẹ nhàng lướt qua, bích đào cuồn cuộn, hương thơm thanh mát lượn lờ, có chỗ nào giống nhân gian?
Lúc Trình Mộng Đồng đi, là tháng ba ‘khúc thủy phiêu hương khứ bất quy, lê hoa lạc tận thành thu uyển’(*). Khi sắp chia tay, Trình Mộng Đồng tại Chính Đức Điện bái kiến Tiêu Uẩn Hi cùng Văn Tĩnh Tư. Hoàng đế cũng không đưa tặng nhiều lời ly biệt, Văn Tĩnh Tư những ngày qua ở chung với hắn rất nhiều, càng hiểu sâu về hắn, càng thêm yên tâm hắn mưu tính sâu xa, chỉ tha thiết dặn dò hắn bảo trọng thân thể, đối với việc giám sát công trình, cũng không có lấy một câu thừa lời. Tiêu Uẩn Hi thấy hai người thân cận, nội tâm quả thực cao hứng. Đợi Trình Mộng Đồng đi rồi, không khỏi cười nói: “Khả năng thu phục nhân tâm của Tĩnh Tư, so với trẫm mạnh hơn nhiều.”
(*:Đây là hai câu thơ cuối trong bài thơ Tháng Ba của Lý Hạ, tạm dịch nghĩa: khúc sông thơm ngát không trở lại, hoa lê tàn hết thành vườn thu)
Văn Tĩnh Tư vừa nghe liền biết rõ hắn nghĩ gì, cười nói: “Thần chỉ biết suy bụng ta ra bụng người, lấy tâm đổi tâm. Trên mình Hạc Khanh có vài phần bóng dáng của A Lâm, thần đối đãi với hắn như bằng hữu, cũng không phải ý của hắn.”
Tiêu Uẩn Hi thầm nghĩ: “Ngươi xem hắn là bằng hữu, hắn chưa chắc xem người là bằng hữu.” Trong miệng lại trêu đùa: “Thật không? Trẫm giao trái tim cho ngươi, trái tim ngươi cho trẫm ở đâu? Để trẫm xem xem.” Một đôi tay vươn về phía bụng Văn Tĩnh Tư tìm kiếm.
Văn Tĩnh Tư mang thai đã được chín tháng, khi không mặc quần áo mùa đông, càng lộ rõ cái bụng vừa lớn vừa nặng. Y hành động bất tiện, ngày thướng ít khi ra khỏi Vĩnh Ninh cung, hôm nay Trình Mộng Đồng đến cáo biệt, y cho dù ngượng ngùng, cũng không thể không nhịn xuống đến đưa tiễn. Lúc này, Tiêu Uẩn Hi nhẹ nhàng vuốt bụng, bào thai trong bụng như thể ứng với phụ thân, chậm rãi động đậy. Văn Tĩnh Tư chỉ cảm thấy ổ bụng bị nó chiếm trọn tròn căng, áp bách dạ dày, cực kỳ khó chịu, không khỏi khẽ rên một tiếng. Tiêu Uẩn Hi thấy vậy, dìu y nằm nghiêng trên nhuyễn tháp, mình ngồi xuống bên cạnh, cuí người xuống, áp lỗ tai lên bụng, nhẹ giọng dỗ: “Hoàng nhi ngoan chút, chớ làm khổ cha ngươi.”
Hài nhi nghe thấy thanh âm phụ thân, càng thêm vui mừng động đậy, như muốn đem lục phủ ngũ tạng hòa cùng một chỗ mới bằng lòng bỏ qua. Văn Tĩnh Tư nhíu mày nhẫn nại, một tay chậm rãi vuốt ve bụng, cố gắng trấn an hài từ làm ầm ĩ. Tiêu Uẩn Hi không dám lên tiếng nữa, chí đành ngồi bên cạnh lo lắng suông. Qua hồi lâu mới thở phào nhẹ nhõm, cười nói với Tiêu Uẩn Hi đang khẩn trương: “Hài tử này thích ngươi, nghe thấy giọng nói của ngươi thật giống như không thể chờ đợi được nữa muốn ra ngoài.”
Trên mặt Tiêu Uẩn Hi cũng không lộ vẻ vui mừng, hơi trầm mi xuống nói: “Hắn thường xuyên như vậy làm khổ ngươi?”
Văn Tĩnh Tư lắc đầu nói: “Lúc sáu bảy tháng thì còn ít, khí lực không lớn như vậy, không cảm thấy khổ sở cho lắm. Sau chín tháng, liền bắt đều náo loạn, quả thực có chút vất vả. Từ từ chấn an, cũng có thể dừng lại, bằng không thật sự là khó chịu.”
Tiêu Uẩn Hi trầm giọng nói: “Làm khổ ngươi như vậy, xem ra là hoàng tử. Ngươi nhịn nó thêm tháng nữa, sau khi sinh ra, trẫm thay ngươi dạy hắn.” Văn Tĩnh Tư biết rõ hắn chỉ vui đùa, cũng không để ý, nhưng trong lòng cảm thấy ấm áp như ánh mặt trời, cực kỳ thoải mái. Tiêu Uẩn Hi nắm lấy bàn tay y đặt trên đầu gối cầm thật chặt: “Hoàng nhi này, trẫm muốn phong nó làm Thái tử, cũng muốn phong Tĩnh Tư làm thân vương.”
Văn Tĩnh Tư ngẩn người, lập tức mím môi cười nói: “Bệ hạ biết rõ thần chưa bao giờ quan tâm tới những danh hào này. Chỉ là mới sinh ra mà đã lập làm Thái tử, bệ hạ khẳng định nó sau này có thể đảm đương nổi trọng trách?”
Tiêu Uẩn Hi một tay xoa xoa thái dương hộ y, dời xuống vành tai, sau đó là cổ, mục quang dừng ở đôi môi, không tự chủ được hôn lên. “Như thế, vạn nhất tiên thiên thiên chất không đủ, ngày sau ham muốn an nhàn, trẫm sao có thể yên tâm đem thiên hạ này sớm truyền cho nó, mang Tĩnh Tư cùng trầm vân du tứ hải?”
Văn Tĩnh Tư nghĩ đến đủ loại khả năng, nội tâm xiết chặt, há miệng muốn trả lời, giương mắt liền thấy Tiêu Uẩn Hi hai mắt tràn đầy giảo hoạt cùng trêu đùa, không khỏi câm nín. Tiêu Uẩn Hi cười nói: “Thay vì chờ mong nó có thể dung hợp những ưu điểm của ngươi và trẫm thì chi bằng Tĩnh Tư sinh thật nhiều hoàng nam hoàng nữ cho trẫm, trẫm chọn một người thích hợp nhất làm thái tử?”
Văn Tĩnh Tư âm thầm thở dài trong lòng, quả nhiên phụ thân đã đoán đúng, bất đắc dĩ nói: “Bệ hạ, thần năm nay đã hai mươi sáu.”
Tiêu Uẩn Hi cao giọng cười to: “Tĩnh Tư, cho dù ngươi thất thập cổ lai hi, trẫm ôm ngươi, vẫn sẽ ngạnh được.”
Văn Tĩnh Tư thấy hắn cố ý xuyên tạc ý của mình, xấu hổ cực kỳ, xoay người không để ý tới hắn. Tiêu Uẩn Hi dần dần thu liếm ý cười, nằm phía sau y, một tay vòng qua eo y, năm lấy tay của y ôn nhu nói: “Tĩnh Tư, trẫm không tham lam, chỉ cần một Thái tử là được rồi. Ngươi sinh thêm một người, vô luận nam nữ, đều mang họ của ngươi. Sau này vạn nhất muốn kế thừa ngôi vị hoàng đế, sẽ sửa thành họ Tiêu. Ngươi đời này bên cạnh trẫm, trẫm không muốn bạc đãi ngươi về chuyện con nối dòng, trẫm có, ngươi cũng nhất định phải có. Ngươi xem có được không?”
Văn Tĩnh Tư giật mình, nước mắt ngưng tụ thành dòng, muốn rơi mà không rơi, không chụi nổi Tiêu Uẩn Hi thúc giục, ngẹn ngào nói: “Bệ hạ làm như vậy, sao có thể đối mặt với hoàng thất dòng họ, với người trong thiên hạ?”
Tiêu Uẩn Hi dịch thân hôn lên tóc mai của y, ghé vào lỗ tai y lẩm bẩm nói: “Trẫm chỉ cần không phụ lòng ngươi. Vì trẫm sinh thêm một đứa, được không?”
Văn Tĩnh Tư nhắm mắt lại, nước mắt lăn xuống, há miệng nức nở nói: “Được!”
……
Ngày xuân đã đến, kỳ thi mùa xuân cũng khôngcòn xa nữa.
Công việc của Văn Tĩnh Tư bắt đầu bận lu bù lên.
Tuy bao năm qua do Lễ Bộ Thượng Thư hoặc Hàn Lâm Việ học sĩ đảm nhiệm quyền biết tiến cử, Thấu Ngọc Điện sẽ đối chiếu để ý phong ấn bài thi đứng đầu, Tử Vi Các học sĩ kiểm tra giám quan, Hồng Văn Điện học sĩ kiểm tra bài thi, Hàn Lâm Viện học sĩ kiểm tra quan khảo thí, nhưng để phòng ngừa vì tình riêng mà làm rối loạn kỉ cương, trừ quan chủ khảo, từng thành viên giám quan còn lại đều do hoàng đế bí mật đích thân tuyển chọn trước ba ngày cuộc thi mở ra. Hôm nay Văn Tĩnh Tư toàn quyền chủ quản khoa thi, vô luận là tuyển chọn quan viên hay quyết định đề thi, không gì là không tự thân tự lực, thận trọng thêm thận trọng.
Yến quốc kẻ sĩ trọng Tiến sĩ khoa, năm ngoái khi tiên đế còn tại vị, đề thi khoa Tiến sĩ đa phần đều là làm thơ từ khúc phú năm đạo, kinh nghĩa sử luận năm đạo. Sau khi Văn Tĩnh Tư bẩm báo với Tiêu Uẩn Hi, đem văn chương thi phú đổi thành ba đạo, kinh nghĩa hai đạo, sử luận ba đạo, ngoài ra còn thêm vào kế sách từng thời năm đạo. Vốn đề thi là do Hàn Lâm Viện học sĩ thừa chỉ cùng chủ khảo đưa ra sau khi thương nghị trước một tháng, trình hoàng đế cho ý kiến phúc đáp mới được định. Tuy Văn Tĩnh Tư đối với trọng điểm đề thi hiểu rõ, chỉ cần trao đổi ý kiến với Sử Truyền Phương là xong, nhưng hiện tại đã mang thai chín tháng, sao có thể cùng ông ngồi xuống thương thảo cụ thể đề mục. Mắt thấy thời gian chỉ còn lại hơn mười ngày, gấp đến độ chân tay luống cuống. Sau khi Tiêu Uẩn Hi biết được, cười y nhất bên trọng, nhất bên khinh. “Ngươi ngày đó chẳng phải ưỡn bụng cùng Trình ái khanh đàm đạo đấy thôi, huống chi Sử Các lão là người biết rõ nội tình, ngươi sợ cái gì?”
Văn Tĩnh Tư cắn môi nói: “Ngày đó thần không biết Hạc Khanh sẽ xông vào, nếu thần trông thấy hắn đến, chắc chắn quát bảo đứng lại bên ngoài mành che. Có thể Sử Các lão không giống, ông tuy hiểu được, nhưng bệ hạ muốn thần dùng bộ dạng này cũng ông gặp mặt, thật khiến thần không mặt mũi nào chống đỡ.”
Tiêu Uẩn Hi cười nhạo nói: “Da mặt ngươi cũng quá mỏng. Bỏ đi, đề thi Tiến sĩ khoa trẫm cùng Sử Các lão sa khi thương nghị, sẽ để ngươi tới định đoạt, Minh kinh khoa thì để cho Sử Các lão cùng Hàn Lâm Viện đại học sĩ quyết định đi. Bất quá, thi đình tam vấn, vẫn phải nhờ ngươi thượng điện đến khảo. Trẫm sai người sau ngự tọa dựng bình phong, nếu không người trong thiên hạ đều biết Thừa tướng đương triều cùng hoàng hậu là một người.”Bống nhiên thu lại tiếu dung, mơ hồ lộ ra thần sắc lo lắng: “Không biết hoàng nhi của trẫm có đợi được đến lúc thì đình xong xuôi hay không.”
Văn Tĩnh Tư cười trấn an nói: “Thần đã hỏi Từ Thái y, ngày sinh ước chừng vào trung tuần tháng tư. Đầu tháng tư là thi đình, cho nên đừng lo lắng.’
Tiêu Uẩn Hi lúc này mới yên tâm.
Ba ngày sau, đề thi Tiến sĩ khoa được giao cho Văn Tĩnh Tư xét duyệt. Hai người kia quả nhiên hiểu rõ tính cách của y, đề thi thiên về dân sinh bách tính, nhất là kế sách, đều là hỏi về phòng chống thiên tại, trừng phạt tham quan.
Ngày mười lăm tháng ba, Văn Tĩnh Tư định ra các giám quan, do Tiêu Uẩn Hi tại Chính Đức Điện bí mật tuyên cáo.
Ngày mười tám, hai mươi, hai mươi hai tháng ba, Lễ Bộ Thượng Thư tiến hành mở ba đợt thi hội ở kinh thành. Cử nhân cả nước tề tụ một nơi, có hơn ba trăm cống sinh bảng. Sáng sớm ngày hai mươi ba, Hồng Văn Điện học sĩ đã đem bài thi làm thâu đêm niêm phong cất vào kho chuyển đến Lễ Bộ Văn Các, ba vị đại học sĩ của Hàn Lâm Viện tính cả Sử Truyền Phương cùng phê duyệt. Sáng sớm mười ngày sau, cống sinh bảng chiêu cáo thiên hạ, buổi chiều hôm đó, Sử Truyền Phương tự mình chọn lọc một trăm hai mươi tám bài thi Tiến sĩ khoa, chỉnh tề đặt trước mặt Văn Tĩnh Tư ở tiểu thư phòng trong Vĩnh Ninh Cung.
Văn Tĩnh Tư dù chưa trải qua khoa cử đã thụ quan, nhưng sao lại không biết từng bài thi này đại biểu cho cái gì. Mười năm gian khổ học tập đèn sách, một khi đề danh sẽ làm rạng rỡ tổ tông. Thiên hạ chưa bình, dân chúng không giàu có, đại trượng phu tinh trung báo quốc. Chim nhạn bay qua để lại tiếng hót, người sống trên đời phải lưu danh, mở ra khát vọng, lưu danh muôn đời. Mỗi một bài thi mỗi một chữ, đều là tâm huyết đọng lại của học sinh kẻ sĩ, dốc hết tài hoa, y không được phép có nửa điểm sơ hở cùng khinh suất. Bởi vậy, bài thi của cống sinh này, Văn Tĩnh Tư phá lệ cẩn thận chăm chú xem xét.
Y cẩn thận, liền làm khổ Tiêu Uẩn Hi. Ngoài việc phê duyệt tấu chương, còn phải đốc thúc Văn Tĩnh Tư cơm ăn ba bữa, tranh thủ nghỉ ngơi, cái này cũng thôi đi. Đau khổ nhất chính là buổi chiều hắn ngủ trên ngự sàng, lăn qua lộn lại, đợi mãi không thấy người, phân phó Mộc Phùng Xuân đi thúc giục, mỗi lần đều không công mà lui. Đến ngày thứ ba, Tiêu Uẩn Hi giật mình tính giấc, đã là giờ sửu canh ba, rốt cuộc không chịu nổi nữa việc phải ngủ một mình, đứng dậy mặc quần áo đến tiểu thư phòng cách vách. Thấy Tĩnh Tư vẫn cầm sách trầm ngâm bên ngọn đèn dầu, trong lòng không khỏi nảy sinh vài phần oán giận, đi đến trước mặt y, lấy tay đè xuống bài thi. Văn Tĩnh Tư đang xem mê mẩn, bống nhiên một bàn tay duỗi đến, giật mình kinh ngạc, một hơi lãnh khí hít vào phế phủ, thiếu chút nữa sợ hãi kêu lên. Tiêu Uẩn Hi không ngờ chính mình nhất thời tức giận khiến y sợ tới mức không nhẹ, tỏ ra hối hận, ôm lấy bờ vai của y ôn nhu khuyên nhủ: “Bài thi còn lại để mai xem cũng không muộn, hiện tại thân thể của ngươi quan trọng hơn, không thể quá mức vất vả, mau cùng trẫm đi ngủ.”
Văn Tĩnh Tư trẫn định tâm thần, thấy hắn kiên trì, chỉ biết không thể nhượng bộ thêm nữa, đành phải khép bài thi lại đứng lên. Vừa đứng dậy, từ eo xuống chân đều đau nhức, hai chân chết lặng, cơ hồ ngã xuống đất. Tiêu Uẩn Hi tay mắt lanh lẹ dìu y ngồi trở lại ghế, giận tái mặt khiển trách: “Ngươi cần cù chăm chỉ, vốn không sai, nhưng phải có điều độ. Hiện sắp lâm bồn, ngươi vất vả quá độ giống như lần trước chút nữa đã sảy thai, bảo trẫm sống thế nào!”
Văn Tĩnh Tư lần dầu bị hắn nghiêm nghị trách cứ, tuy có khổ sở, nhưng biết những gì hắn nói cũng không oan, đành phải cúi đầu tiếp nhận. Tiêu Uẩn Hi thấy y đã biết sai, cũng không nói thêm nữa, chờ y đứng lên được, mới chậm rãi dìu trở về tẩm điện. Nhìn y được thái giám phục thị canh đêm rửa mặt xong, kéo qua đến nằm trên ngự sàng, mới thả lỏng tâm tình.
…..
Sáng sớm hôm sau, Văn Tĩnh Tư ăn sáng xong đi vào tiểu thư phòng, bắt gặp Tiêu Uẩn Hi đã hạ triều trở về, đổi một thân thường phục ngồi trên mặt ghế xem bài thi cuối cùng y thẩm duyệt đêm qua, mỉm cười, nói: “Bệ hạ cảm thấy thế nào?”
Tiêu Uẩn Hi buông bài thi, đứng thẳng người dậy nói: “Chả trách ngươi mất ăn mất ngủ, Mộc Cánh này thật có vài phần hiểu biết chính xác. Văn vẻ thi phú tuy hơi khiếm khuyết, nhưng sử luận cùng kế sách lại đáp trật tự rõ ràng, rất có tầm nhìn xa trông rộng.”
Văn Tĩnh Tư tiến đến bên cạnh hắn, chỉ vào mặt bài thi: “Đây chính là sự khác biệt giữa hạ tầng dân chúng cùng thượng tầng sĩ tộc. Bình dân bách tính quan tâm nhiều đến cơm no áo ấm, mà sĩ tộc đệ tử thì am hiểu thi phú cùng kinh nghĩa.”
Tiêu Uẩn Hi khiêu mi nói: “Làm sao ngươi biết Mộc Cảnh này là bần gia học sinh?”
Văn Tĩnh Tư chỉ vào chữ trên bài thi nói: “ Bệ hạ xem chữ của người này, tuy mỗi nét đều như vẽ, đoan chính chỉnh tề nhưng ngòi bút lại có phần mất tự nhiên giãn ra, mười phần câu nệ. Thần đoán thời gian tập viết của người này ngắn ngủi, ngày thường cũng không coi trọng ca từ thi phú. Nếu là người gia cánh giàu có, sao lại không hảo hảo đọc sách tập viết? Tuy rằng như vậy, kế sách trên bài thi, viết ra cực kỳ đặc sắc, nhất là câu này! ‘Dân cường thì quốc cường, dân phú thì quốc phú. Phú cường giả thường tư quá vãng, duy giám giới dã, cố cảnh tỉnh, bần hàn giả thường tư tương lai, duy hy vọng dã, cố tiến thủ.’ Từng chữ đều nói đến nội tâm của thần.”
(Dịch nôm na thì thế này:Dân mạnh thì nước mạnh, dân giàu thì nước giàu. Kẻ giàu có thường qua lại, chỉ không biết rút kinh nghiệm, cần cảnh tỉnh, người nghèo khó thường nghĩ cho tương lai, chỉ không mấy ước ao, cần có chí tiến thủ)
Tiêu Uẩn Hi gật đầu đồng ý, kéo y ngồi xuống bên cạnh nói: “Một đám quan viên của Văn gia tại kinh thành bị ngươi điều đii, Tông gia bị diệt, triều đình đang lúc cần dùng người, cũng không biết lần khoa cử này có thể bổ sung mấy ghế trống này hay không.”
Văn Tĩnh Tư khẽ cười. “Tuyển chọn nhân tài vì xã tắc sở dụng, hẳn là ngàn dặm mới tìm được một. Thần cho rằng, thà thiếu chứ không ẩu. Khoa thi lần này không thể như ý, thì đợi khoa thi sau, so với vì ham muốn nhất thời, tuyển nhập được ít người xuất sắc, bệ hạ không trọng dụng nổi, mà dân chúng càng không yên tâm.”
Tiêu Uẩn Hi vuốt ve tay của y nói: “Ngươi nói đúng, bất quá, thế gian vạn vật đều thay đổi, nhân tâm cũng vậy. Tài hoa và khát vọng của Tông Duy năm đó, kết quả cũng chỉ là tru di cửu tộc. Mới tuyển vào vô luận phẩm tính đức hạnh ra sao, cũng khó tránh khỏi một ngày bị danh lợi ăn mòn bại hoại, tương lai vốn không phải việc người phàm có thể nhìn thấu.”
Tiêu Uẩn Hi nói rõ ràng, Văn Tĩnh Tư sao lại nghe không hiểu ý chọn lựa sĩ tử không cần lo lắng về sau, nội tâm cảm kích vạn phần, chăm chú nắm tay hắn nói: “Bệ hạ, thần vĩnh viễn sẽ không thay đổi.”
Trái tim hai người đều cảm thấy ấm áp, có thể sánh với cảnh xuân mỹ lệ, phồn hoa tháng ba.
Ngày mồng tám tháng tư, Văn Tĩnh Tư đem một trăm hai mươi tám danh bài thi cống sinh duyệt hết toàn bộ, chậm hơn một chút, đem thi đình tam vấn giao cho Lễ Bộ Hoạt Tự niêm phong cất vào kho.
Mười ngày sau đó, Văn Tĩnh Tư dậy thật sớm, hôm nay y lên điện khảo sát một trăm hai mươi tám danh cống sinh. Tiêu Uẩn Hi đã sai Mộc Phùng Xuân ở sau ngự tọa dựng thêm bình phong, y phải đến sớm hơn so với tất cả mọi người, mới không đem cái bụng giữa ban ngày ban mặt lộ ra ngoài. Hai người dùng xong bữa sáng, sửa sang lại dung nhan, cùng nhau tiến đến Quảng Hiền Điện. Văn Tĩnh Tư ngồi sau bức bình phong Thông cảnh thập nhị khúc, mặt bình phong nạm vàng chạm ngọc ngăn cách y với bên ngoài. Tiêu Uẩn Hi ngồi xuống ngự tọa của mình, thị nữ thái giám theo thứ tự vào đúng vị trí, Mộc Phùng Xuân tuyên chúng thần lên điện, Văn Tĩnh Tư bất chợt thấy bụng xiết chặt. Đau đớn mặc dù không kịch liệt khó chịu như hồi năm tháng, lại kéo dài hơn mười giây. Y đợi đến khi cơn đau qua đi, lấy ra lọ thuốc tùy thân, ăn một viên thuốc an thai, thầm than mấy ngày nay chấm bài thi vẫn là có phần miễn cường.
Triều thần trên tứ phẩm lần lượt tiến vào trong điện, một trăm hai mươi tám danh cống sinh nhất tề nhập tọa tại trường thi bên ngoài Quảng Hiền Điện, theo một câu “Khai khảo” (Bắt đầu cuộc thi) của hoàng đế, thái giám truyền chỉ đọc quy chế thi cử, Hàn Lâm Viện học sĩ phân phát từng bài thi xuống dưới.
Văn Tĩnh Tư ngồi sau tấm bình phong, âm thầm nhẫn nại bụng co rút khẩn trương đau đớn, xuyên qua mặt bình phong dầy, bên tai như thể nghe được tiếng ngòi bút kiên định của đám sĩ tử xẹt qua trang giấy. Dưới ngòi bút ấy, mỗi chữ mỗi câu, ngưng kết tâm huyết của mười năm gian khổ học tập, là kế sách tương lai của Đại Yến đế quốc, là ký thác của dân chúng mong được giàu có an khang.