Vú nuôi vội vàng ôm đứa trẻ chạy tới quỳ xuống. Đỗ Văn Hạo có chút luống quống vội đưa tay đỡ dậy: “Này, này, không cần phải làm vậy!”.
Tuyết Phi Nhi cũng chạy lại đỡ lấy bà mẹ: “Lão thái thái, Đỗ đại phu là người tốt, bà không cần làm như vậy ông ấy cũng sẽ đáp ứng mà. Tối hôm qua tại khách sạn của chúng ta có một đứa nhỏ bị độc sang, cha mẹ đứa nhỏ đó không có tiền mời đại phu, chính Đỗ đại phu đã chủ động khám và bốc thuốc cho đứa nhỏ mà không lấy một xu nào!”
“Tám điếu hả?” Bàng mẫu nghiêng nghiêng cái lỗ tai lắc đầu: “Hầy, chỉ cần chữa trị cho Ngọc Nhi, đừng nói chỉ có tám điếu tiền, mà ngay cả tám quan hay tám mươi lượng bạc ta đây cũng chịu!”
Tuyết Phi Nhi vội nói: “Lão thái thái à, không phải là tám điếu, có ai đòi tiền của lão đâu. Lão cứ yên tâm đi, hắn sẽ cứu mà, hắn thật sự là người tốt mà!”
“Áo bông mới? Đại phu muốn mua áo bông mới làm gì vậy? Trời vẫn còn ấm mà, còn lâu mới tới tháng chạp. Hay là trước hết đại phu cứ tìm cách chữa trị cho Ngọc Nhi đã, sau đó lão sẽ đưa ngân lượng cho đại phu mua áo bông là được!”
Bàng Huyền úy biết mẫu thân mình tai điếc, nghe cái nọ xọ cái kia, nhưng tình huống khẩn cấp cũng không có thời gian để giải thích cho bà. Ông chắp tay hướng Đỗ Văn Hạo mà cầu xin: “Đỗ đại phu, mời người, không, ta cầu xin ngươi cứu Ngọc Nhi của ta! Chỉ cần cứu được Ngọc Nhi, ngươi muốn bao nhiêu tiền bổn quan cũng đáp ứng ngươi!”
Đỗ Văn Hạo thở dài: “Huyền úy đại nhân đừng hiểu lầm, vấn đề không phải là tiền, mà cũng không phải tại hạ thấy chết mà không cứu. Thật sự là bệnh tình của nhị nãi nãi đã để quá lâu mà không được cứu chữa, hiện đã vào tới cao hoang (trở thành mãn tính), khả năng cứu được là không cao, nếu không muốn nói là rất nhỏ. Nhiều khả năng không thể cứu được. Hơn nữa, Tiễn thần y vẫn luôn uy hiếp ta, muốn đến nha môn cáo ta. Đại nhân cũng biết ta là người ở nơi khác, thực sự cũng không tiện gây sự với địa đầu xà này!”
Tiễn Bất Thu tức giận cực độ khiến cho bộ râu bạc của hắn dựng ngược hết cả lên: “Ai là địa đầu xà? Ngươi nói rõ ta nghe xem nào! Bằng không hai chúng ta cùng tới nha môn để giải thích!”
Bàng Huyền úy quay sang Tiễn Bất Thu: “Tiễn thần y, mới vừa rồi hai ngươi tranh luận ta cũng nghe được. Văn không có đệ nhất, võ không có đệ nhị, các đại phu không phục lẫn nhau vẫn là chuyện thường xảy ra. Mỗi đại phu có cách dùng thuốc khác nhau, như vậy cũng không thể nói ngươi không tốt, vậy ngươi cũng không nên làm khó cho Đỗ đại phu!”
Huyền úy đã lên tiếng, tất nhiên Tiễn Bất Thu đành phải nhịn, hắn chỉ chắp tay nói: “Vâng!”
Bàng Huyền úy quay sang phía chiếc xe trên đó vẫn là một người nằm im lìm, hai mắt nhắm nghiền, hô hấp tỏ ra càng lúc càng yếu ớt, buồn bã nói với Đỗ Văn Hào: “Ta biết, bệnh của Ngọc Nhi cũng đã đến chỗ khó cứu được. Đỗ đại phu, ngươi cứ yên tâm chữa trị đi, cho dù chuyện gì xảy ra, ta cũng sẽ không trách tội ngươi. Nếu ngươi có thể cứu sống được Ngọc Nhi, ta nhất định sẽ tạ ơn ngươi xứng đáng!”
“Đại nhân đã nói vậy, tại hạ thực sự cung kính không bằng tuân mệnh, chỉ là bệnh của nhị nãi nãi đúng là đã…”
Thần y Tiễn Bất Thu nghe vậy hừ giọng nói: “Thế này gọi là chỉ được cái khéo miệng! Nói nhiều, nói khéo vậy làm gì, không phải lại muốn làm rùa đen rút đầu sao?”
Đỗ Văn Hạo nhìn về phía hắn một cái: “Tiễn thần y, cắt ngang lời người khác như vậy là rất vô phép đó, sư phụ ngươi năm đó không dạy ngươi phép tắc này sao?”
Tiễn Bất Thu chắp hai tay, ngửa đầu lên cao giọng: “Tiên sư của ta năm đó nói y thuật là nhân thuật, người cũng nói người hành nghề y phải có trái tim nhân từ của bậc phụ mẫu. Xin hỏi có phải tôn sư không dạy qua điều đó cho ngươi? Đỗ tiên sinh, ngươi ở đây có thể nói là người giỏi nhất, nhưng lại trơ mắt nhìn người bệnh thống khổ mà chết đi, chỉ hành động này mà nói thôi cũng đã sợ là đi ngược lại những gì tôn sư dạy bảo. Mà kể cả tôn sư chưa từng dạy qua cho ngươi thì ngươi cũng không cảm thấy lương tâm mình không thanh thản sao?”
Đỗ Văn Hạo liếc mắt nhìn hắn một cái, trong bụng thầm nghĩ lão tiểu tử này nói nhăng nói cuội vậy cũng không sai. Bọn họ ở đây thực sự không có khả năng chữa trị bệnh này. Mình nếu tự biết cách chữa trị thì cũng nên ra tay. Không thể lo trước lo sau, sợ này sợ nọ được, cứu người là quan trọng nhất, chỉ cần có một tia hy vọng mình sẽ nhất định cố gắng hết sức. Dù sao mình cũng chẳng có cái danh khí gì, cho dù không cứu được cũng không có gì tổn hại nhiều. Cùng lắm cũng là thêm một cơ hội thực hành y thuật của mình.
Nghĩ tới đây, Đỗ Văn Hạo tiến tới phía Bàng Huyền úy ôm quyền mà nói: “Nếu Huyền úy đại nhân đã tin tưởng Đỗ mỗ, Đỗ mỗ xin cả liều mình thử cứu chữa cho nhị nãi nãi”.
Bàng Huyền úy mừng rỡ, cúi thật sâu thi lễ với Đỗ Văn Hạo: “Đa tạ Đỗ đại phu!”
Lưu thị kéo kéo Bàng mẫu nói như liên thanh: “Mẹ, Đỗ đại phu đáp ứng cứu Ngọc Nhi rồi!”
Những lời này Bàng mẫu nghe rõ, giọng bà run run: “Tốt, tốt, tốt lắm! Nhanh cứu Ngọc Nhi tỉnh lại cho ta, ta cho ngươi tám điếu tiền mua áo bông mới!”
Đỗ Văn Hạo cười cười: “Đa tạ! Bất quá ta còn một yêu cầu. Muốn cứu nhị nãi nãi, sợ rằng cũng mất ít nhất mười ngày nửa tháng, cho nên, hy vọng có thể đưa nhị nãi nãi đến chỗ chúng ta. Tại Ngũ Vị Đường đối diện chỗ của ta và Phi nhi, tìm thuê một gian phòng khách, ta sẽ tùy thời gian chữa trị”.
“Được! Hết thảy đều nghe theo Đỗ đại phu an bài, xin Đỗ đại phu nhanh lên cứu người!”
Đỗ Văn Hạo nhẩm tính trong long, bây giờ không có biện pháp gì để kiểm tra xem vì sao nhị nãi nãi bị bại huyết. Đây cũng chính là điểm mấu chốt khiến cho không thể dùng đúng thuốc để chữa trị, nhiều khả năng là bị nhiễm khuẩn. Giờ chỉ còn cách đem tất cả các dược liệu giảm nhiệt kháng khuẩn đưa vào một lượt, đánh cuộc vận khí, may ra đại dược liệu này có tác dụng. Thực ra các dược liệu cổ truyền này đều có tác dụng kháng khuẩn nhất định, mặc dù so với thuốc Tây thì thời gian phát huy hiệu quả có lâu hơn. Thêm vào đó, ở đây lại không có thuốc tiêm vào tĩnh mạch, cũng không có các dụng cụ tiêm, chỉ có thể phục thuốc qua đường miệng, điều này khiến cho hiệu quả càng suy giảm. Nhưng dù gì thì có cũng còn hơn không, trước hết phải đem người bệnh kháng hưu khắc (chống sốc) nhằm bảo trì trạng thái hiện tại, sau đó mới phục thuốc được.
Hắn âm thầm cắn răng một cái rồi lấy vài cái tam lăng kim châm từ hòm thuốc của mình ra. Hắn xốc chăn mền của Ngọc Nhi lên, dùng kim châm cẩn thận châm vào lần lượt các huyệt Thiếu thương, Trung trùng, Khúc trì và Ủy trung nhằm trích máu độc ra.
Huyết độc được đẩy ra ngoài khiến cho hơi thở của Ngọc Nhi trở nên bình ổn hơn.
Đỗ Văn Hạo nói: “Trong phủ có nhân sâm cực phẩm của Triều Tiên không vậy?”
Bàng Huyền úy lắc đầu: “Chỉ có hồng sâm thôi, liệu có dùng được không?”
“Cũng được, lấy ba tiền hồng sâm, thêm mười hai tiền Bắc kỳ, bảy tiền Nhu đạo căn, mười tiền Đoán mẫu, đun trong hai khắc rồi mang tới cho nhị nãi nãi uống. Làm nhanh lên!”
Bàng mẫu nghe vậy hối hả giục người làm, một nha hoàn vội vã chạy đi chuẩn bị.
Đỗ Văn Hạo lấy bút xoay xoay viết một cái đơn thuốc rồi nói: “Theo phương thuốc này, lập tức đi lấy ngay”.
Tiễn Bất Thu vốn rất tò mò, tiến đến định lấy tờ đơn thuốc, nhưng Đỗ Văn Hạo vội thu tay lại, cười lạnh: “Tiễn thần y, phương thuốc này là bí truyền của ta, ngươi muốn xem qua, sợ rằng không thể được!” Nói rồi đưa đơn thuốc cho Tuyết Phi Nhi.
Tiễn Bất Thụ bị một phen xấu hổ. Vốn dĩ y thuật ở thời đại này phần lớn đều là gia truyền, không ít lang trung chỉ dựa vào một vài phương thuốc kỳ lạ có thể chữa khỏi một vài căn bệnh hiểm nào đó mà trở thành một đời danh y, như vậy việc không truyền phương thuốc ra ngoài là chuyện đương nhiên. Các y thư thời xưa đều chỉ là thu thập rất nhiều các phương thuốc lại mà viết thành sách, ai có được cũng sẽ nghiễm nhiên trở thành người có y thuật cao minh, và vì vậy mà các phương thuốc đó cũng sẽ được giữ bí mật. Ví như Lý Khi Trân, người viết cuốn “Cây cỏ Trung Hoa”, đã từng đi khắp thiên hạ để thu thập các phương thuốc bí truyền. Rất nhiều phương thuốc trong đó có được là do ông ta chữa bệnh cho người khác để đổi lấy. Tuy vậy mà cũng mãi đến khi lâm chung, ông ta mới giao y thư của mình cho con trai. Điều này cũng bởi vì thái độ nghiên cứu khoa học nghiêm túc của Lý Khi Trân, trong đó chắc chắn có những phương thuốc bí truyền mà ông ta không muốn tiết lộ khi bản thân vẫn còn sống. Chính vì vậy, nếu như Đỗ Văn Hạo có thể trị khỏi bệnh này trong khi thầy trò Tiễn Bất Thu thúc thủ vô sách cứu người, vậy không phải phương thuốc kia đã trở thành bửu bối rồi sao.
Tuyết Phi Nhi thấy Đỗ Văn Hạo tín nhiệm mình như vậy, ngang nhiên giao phương thuốc bí truyền cho mình, liền đáp ứng một tiếng rồi xoay người muốn chạy đi ngay.
Đỗ Văn Hạo vội nói: “Chờ một chút, ta còn chưa nói hết. Nói với cha nàng chuẩn bị một phòng hảo hạng cho hai vị nãi nãi, nhưng nhớ phải kín đáo một chút, tránh những kẻ khác để ý”.
“Được!”
Tuyết Phi Nhi trả lời gọn một tiếng rồi quay người đi, đúng lúc đó Bàng Huyền úy kêu lên: “Hãy lấy kỵ mã của ta mà dùng! Kỵ mã đâu!”
Nghe tiếng gọi, một nô phó vội vàng dắt đến một con khoái mã. Tuyết Phi Nhi cũng không từ chối, hướng tới Đỗ Văn Hạo nói: “Đỗ đại phu yên tâm, phương thuốc này ta nhất định thay ngươi giữ thật tốt, lấy được thuốc rồi sẽ trả lại ngươi lập tức” Dứt lời chạy ra sân nhảy lên ngựa phóng đi.
Đỗ Văn Hạo vẻ mặt tỏ ra thật thần bí nói với Bàng Huyền úy: “Vẫn còn cần một vị thuốc dẫn nữa. Nhưng vị thuốc này nói ra thực sự có chút phiền phức”.
Bàng Huyền úy vội nói: “Đại phu muốn thuốc gì cứ nói. Kể cả sao trên trời nếu muốn ta cũng sẽ hái xuống!”
“Không cần đến như vậy, chỉ là hai vị nãi nãi đã bị độc hỏa công tâm, hiện giờ trước nhất phải bại hỏa (hạ nhiệt), mà thuốc dẫn để bại hỏa này cũng không đơn giản. Dùng tiểu tùng thụ tiểu tùng thụ (cây thông nhỏ) tinh khiết đã trải qua ba mùa đông băng sương, rửa qua rồi lấy nước giếng nấu lên cho nãi nãi uống. Phần còn thừa xoa toàn thân nãi nãi”.
“Tiểu tùng thụ trả qua ba mùa đông băng sương?”
“Đúng vậy, tuyệt đối không thể nhiều hơn, cũng không thể ít hơn, chỉ có thể là ba mùa đông. Nếu không sẽ không hiệu quả!”
Cổ nhân vẫn phi thường chú ý tới những phương thuốc dẫn công hiệu mạnh, thuốc này có chứa một hương vị lạ ở bên trong có tác dụng kỳ lạ với nhiều loại bệnh. Bàng Huyền úy nghe xong cuống quít gật đầu, vội vàng phân phó bộ khoái của huyện nha cùng nha dịch chạy ra ngoài thành tìm kiếm tiểu tùng thụ sinh trưởng trước đây ba năm. Nhưng yêu cầu phải tìm bằng được chứng cứ xác thực rằng tiểu tùng thụ đó đúng là đã trải qua ba mùa đông mới được.
Tiếp đó, Đỗ Văn Hào một lần nữa dùng kim châm vào đùi nhị nãi nãi để giảm nhiệt. Cùng lúc đó thì nha hoàn cũng mang bát súp hồng sâm tới.
Nhưng là, hàm răng của nhị nãi nãi đã khép chặt lại, không thể phục thuốc được. Thời xưa cũng có cách đặc biệt để ứng phó với trường hợp này. Đỗ Văn Hạo lấy trong hòm thuốc ra một loại dụng cụ giống hình cái phễu với phần ống khá dài.
Tiếp đó, hắn cậy hai hàm răng của nhị nãi nãi ra, thận trọng đưa phần ống vào tận yết hầu rồi chậm rãi đổ bát súp vào.
Sau khi uống hết một bát súp lớn, nhị nãi nãi mặc dù vẫn tỏ ra hôn mê nhưng hô hấp lại vững vàng hơn một chút, sắc mặt xem ra đã khá hơn nhiều. Đỗ Văn Hạo xem qua mạch phát hiện bệnh tình của nhị nãi nãi đã qua giai đoạn hiểm nghèo, lúc này mới có chút yên tâm.
Ngay lập tức, xe chở nhị nãi nãi được lệnh thẳng tiến tới Ngũ Vị Đường.