Bắc Tống, năm Nguyên Phong thứ hai, thu nguyệt, Đạt Huyền thành, lúc đêm tối.
Đỗ Văn Hạo mặc chiếc áo trường bào may bằng vải thô màu trắng, ngồi cô độc trên một hòn đá ở ven đường cái bên trong thành.
Từ lúc hắn đến Bắc Tống đến giờ đã một ngày, hắn vừa mệt lại vừa khát, bụng đói réo ầm ĩ, khi hắn vừa xuyên đến đây, hắn hỏi thăm biết hắn không hiểu sao đi xuyên thời gian đến Bắc Tống của hơn nghìn năm trước, hắn hưng phấn hò hét ầm ỹ, hắn đi loạn khắp nơi với hai mắt mởống như người ngư dân lạc vào chốn tiên cảnh, nhìn thấy cái gì cũng mới lạ phải nhìn một lúc lâu làm cho người khác tưởng hắn điên, lại thấy cách ăn mặc kỳ dị của hắn họ càng sợ hãi tránh xa hắn, cũng có mấy tên tiểu tử to gan đi theo hắn, líu ríu xem náo nhiệt to, gi
Nhưng niềm hưng phấn này không kéo dài nhanh chóng tan biến. Sau cả ngày đi lại, hắn đã kiệt sức. Bây giờ hắn muốn ăn một bát mỳ thịt băm lớn, uống một cốc nước ấm lớn.
Nhưng hắn cái gì cũng không có.
Khi xuyên đến đây trên người hắn chỉ có một bộ đồ tây cùng một đôi dầy da. Bình thường hắn không dùng đồng hồ đeo tay, hắn xem giờ bằng điện thoại di động, nhưng điện thoại di động lại để trong túi, nhưng khi hắn chạy trốn đã đánh rơi túi sách trên đường cho nên hắn đến Bắc Tống với hai bàn tay trắng
Hắn nhận thấy ánh mắt mọi người nhìn hắn rất kỳ quái, chỉ chỉ, chỏ chỏ, thì thầm nói chuyện, hắn cảm thấy bộ đồ tây ẩn giấu nguy hiểm, không chừng sẽ mang phiền toái đến cho hắn, bịười đời coi là quái vật hoặc gian tế của phiên bang mà bắt vào nha môn, hắn vội vàng chuồn vào một tiệm may trong thành, hắn muốn đổi bộ đồ tây lấy một bộ trường sam màu trắng bằng vải thô của dân chúng thời Bắc Tống. Chưởng quỹ của tiệm may không nhận ra kiểu dáng của bộồ tây, nhưng hắn thấy chất vải bông của bộ đồ tây rất mới lạ. Hắn miễn cưỡng dùng một bộường sam bằng vải thô rẻ mạt nhất đổi cho Đỗ Văn Hạo, nhưng gã chưởng quỹ lại không đồng ý các thêm tiền, nếu không thì hắn cũng không đổi nữa. ng đ tr
Đỗ Văn Hạo thực sự cũng không qua để ý đến món tiền ấy, hắn nghĩ hắn muốn dùng trí tuệ của người hiện đại làm nên sự nghiệp ở thời cổ đại. Vì thế hắn háo hức đi tìm việc, chuẩn bị kiếm món tiền đầu tiên
Nhưng suốt một ngày hắn không tìm được việc phù hợp.
Bởi vì lúc này hắn mới nhận ra hắn sẽ không chế tạo được súng ống, thủy tinh, không điều chếước hoa, không trồng được lúa lai, không chế tạo được máy phát điện, xe hơi, đồng hồậm chí cũng không thể làm được cái đơn giản như xe đạp. Không phải cứ đến từ xã hội hiện đại là có thể kiếm được tiền ở xã hội cổ đại. ra n th
Chuyên môn của hắn là bác sỹ pháp y, điều tra phá án có lẽ là giải pháp tốt, vì thế hắn muốn tìm cơ hội biểu diễn một chút năng lực phá án để đạt được mục đích tiến vào quan trường, từ đó làm nên sự nghiệp huy hoàng. Nhưng khi đi dạo hồi lâu, hắn phát hiện phong tục xã hội thời Bắc Tống rất đơn giản, tuy chưa đến mức ban đêm không cần đóng cửa, nhưng trên phố hiếm khi gặp bộ khoái hoặc dũng binh đi tuần, công việc trị an rất tốt, không có các băng đảng móc túi, hắn đi cả nửa ngày cũng không thấy tiếng cãi nhau ầm ĩ trên phố chứ đừng nói đến phát sinh án mạng cho hắn điều tra, phá án.
Hắn cắn răng suy nghĩ hồi lâu, hắn quyết định đi vào nha môn tự tiến cử mình.
Khi hắn tới huyện nha, hắn thấy bộ khoái gác cửa tay cầm yêu đao mắt như hổ rình mồi. Với vốn kiến thứclịch sử ít ỏi của mình, hắn nghĩ hình như ở thời cổ đại chế độ hộ tịc rất nghiêm khắc, ngay cả chức ngỗ tác hèn mọn trong nha môn cũng phải điều tra lý lịch ba đời mới được nhận vào, hắn thì không có hộ tịch, thuộc loại di dân tới thành thị, bọn họ sẽ thấy ngạc nhiên khi thấy hắn tình nguyện đến hỗ trợ việc phá án. Chỉ sợ lúc đó hắn sẽ bị hoài nghi, chính mình lại trở thành đối tượng phá án của bọn họ
Hắn quay người , đi lảng vảng tìm cơ hội trên đường, nhưng Triều đại Bắc Tống chỉ là xã hội có nền kinh tế tiểu nông, ngay các cửa hàng lớn cũng không có nhiều càng không thể như xã hội hiện đại có các cơ quan nhà nước, các tổng công ty, xí nghiệp lớn. mặc dù cũng có cửa hàng dán cáo thị tìm tiểu nhị, hắn một sinh viên của xã hội hiện đại xuyên thời gian đến đây phải làm tiểu nhị trong cửa hàng thì đó là nỗi nhục của người có học thức.
Đi ngang qua mấy dược đường, hắn muốn trở thành một đại phu dược đường, ở thời cổ đại, làm đại phu không cần giấy phép hành nghề cũng như yêu cầu về tư cách hành nghề, nhưng ởời cổ đại muốn làm một đai phu so với xã hội hiện đại còn khó hơn nhiều. thời đó không yêu cầu tư cách hành nghề y, nhưng điều này phải có danh tiếng trong dân chúng, chỉ có sự tán thành của dân chúng thì mới có người tìm tới khám bệnh. Nếu không có người bệnh tìm đến, cho dù có tự nhận là thần y cũng vô ích, các dược đường cũng không mời đến làm đại phu dược đường. th
Dù Đỗ Văn Hạo đã được chân truyền Trung y của ông bác, lại đã học qua y học cơ bản và y học lâm sàng, vào các kỳ nghỉ hè và nghỉ đông lại đến phòng khám Trung y giúp ông bác khám chữa bệnh, trước khi kê đơn cho bệnh nhân phải được bác hắn kiểm tra lại, khi đó hắn có bác làm chỗ dựa, nhầm lẫn cũng không thành vấn đề, tâm lý luôn vững vàng, hắn bây giờ đang ở xã hội cổ đại, muốn chính mình độc lập hành nghề y nhưng hắn lại thiếu tự tin vì vậy hắn đã đi ngang qua cửa vài dược đường, hắn vẫn không có đủ dũng khí để đi vào tự tiến cử mình làm đại phu.
Hắn đi tiếp đến khi mặt trời lặn, các cửa hàng bắt đầu đóng cửa, hắn vẫn không tìm được công việc thích hợp, ngay cả chỗ nghỉ chân cũng không có. Cuối cùng hắn lê bước đến mức bị chuột rút, cả ngày không có cơm ăn, cái bụng đói kêu ục, ục, ục, đầu choáng váng, hoa mắt, hăn không đi được nữa liền ngồi bất động trên tảng đá ven đường, bối rối nhìn người đi lại trên phố.
Như vậy không thể dùng lối suy nghĩ hiện đại để giải quyết vấn đề ở thời cổ đại, chính xác là xã hội cổ đại hơn nghìn năm trước, hắn không thể tìm được công việc cổ cồn trắng như ở xã hội hiện đại, trừ phi là làm quan lại, nhưng muốn làm quan phải trải qua khoa cử, hắn lại không biết gì về tứ thư ngũ kinh. Xem ra nếu hắn muốn sống sót ở xã hội cổ đại thì chỉ có thể bắt đầu từ công việc tiểu nhị, sống lần hồi, kiếm miếng cơm ăn đã.
Đi đến nơi nào làm tiểu nhị? Hắn suy nghĩ hay là tìm những quán có liên quan đến chuyên môn của hắn. Hắn nhớ lại ban ngày có nhìn thấy cáo thị tìm tiểu nhị hình như trong đó có một dược đường, vào thời đó làm tiểu nhị rất bị khinh thường nên hắn cũng không để ý. Bây giờ hắn quyết định đến dược đường đó làm tiểu nhị, nhưng hắn lại quên mất vị trí của dược đường đó, hắn chỉ còn cách dựa vào trí nhớ của hắn để từ từ tìm kiếm.
Huyền thành này khá rộng, hắn đi tới đi lui, từ sáng đến tối rốt cục hắn cũng tìm được dược đường có dán cáo thị.
Dược đường này không lớn, rộng khoảng ba gian, trên cửa treo biển hiệu chữ màu vàng trên nền đen, buổi tối nên hắn nhìn không rõ, tiến lại gần, ngẩng đầu lên mới nhìn kỹ mới nhận ra hàng chữ viết theo lối chữ thảo: “Ngũ Vị Đường”.
Nhìn vào hai tấm biển treo thẳng đứng ở hai cây cột ở hai bên cổng, tấm bên phải viết: “Hoàn tán cao đan”, tấm bên trái viết: “Thang tề ấm phiến”, trên cánh cửa có có một cây cờ mang dấu hiệu dược đường, cánh cửa bên kia treo một chiếc đèn lồng đỏ, trời đã tối mà đèn vẫn chưa thắp
Tiền sảnh dược đường rộng thênh thang, sàn gỗ, phòng khám bệnh nằm bên ngoài, phía trên tường treo một bức hoành phi, chữ khảm đồng rất cổ kính viết: “Tế thế dưỡng sanh” mặt trước của phòng khám là một dẫy tủ thuốc dài và cao, phía sau tủ thuốc có hai tiểu nhị nằm ngủựa vào tủ thuốc. Phía bên kia của phòng khám, ngồi sau cái bàn dài là một lão giả có chòm râu bạc, tay đang cầm một quyển sách, lão giả chăm chú đọc sách trong ánh sáng lờ mờ của căn phòng, xem bộ dạng thì chính là đại phu của dược đường. d
Đỗ Văn Hạo đứng ở cửa nhìn quanh một hồi cho đến khi bóng ối hoàn toàn bao phủ, bên trong dược phòng bắt đầu thắp đèn, ngọn đèn hắt ra ánh sáng màu vàng khắp phòng, dược đường đại phu đứng dậy thu thập đồ đạc chuẩn bị ra về, Đỗ Văn Hạo lúc này đã đủ dũng khí trong lúc hắn muốn đi vào xin việc, hắn chợt nghe đầu phố có tiếng huyên náo ầm ĩ, tiếp theo có rất nhiều người đi tới trước cửa “Ngũ Vị Đường”, đi trước là một tráng hán, lập tức vọt tới cửa "Ngũ vị đường" cửa, đưa tay đập lên bàn mà thầy thuốc tóc hoa râm kia đang ngồi, khí thế hung hăng chửi bới: “Mẹ nó, dong y họ Sài kia, bồi thường mạng sống cho đại ca ta!”
Tráng hán xông lên, thò tay qua bàn nắm cổ áo lão giả, dáng vẻ như muốn đánh lão.
Nghe tiền sảnh ồn ào, từ trong hậu đường, một thiếu phụ mặc váy lụa dài, phong tư trác tuyệt, dáng người thướt tha, ánh mắt lạnh lùng, sắc bén đi ra, người này đúng là nữ chưởng quỹ của Ngũ Vị Đường Lâm Thanh Đại. nàng ra đến tiền sảnh, thấy cảnh đó, lớn tiếng quát: “Dừng tay”, rồi nàng tiến lại cầm cổ tay tráng hán: “Ngươi muốn làm gì? Chuyện đâu có đó!”
“Lâm chưởng quỹ, ta muốn tìm dong y này tính sổ, không có quan hệ gì với cô, mau tránh ra” Tráng hán vung tay muốn thoát khỏi sự kiềm chế của Lâm Thanh Đại nhưng không được, biết đối phương không phải tay thường, nên cũng không dám làm loạn, vươn cổ kêu to: “Lâm chưởng quỹ, cô muốn làm cái gì?”
“Ta hỏi ngươi muốn làm gì mới đúng?”
“Dong y này chữa bệnh làm chết huynh đệ của ta, ta phải tìm hắn đòi mạng!”
Lâm Thanh Đại vung tay đẩy tráng hán lui sau vài bước, lạnh lùng nói: “Sài đại phu là đại phu do Ngũ Vị Đừong mời về, hãy nể mặt ta, có chuyện gì từ từ nói, không được hành động thô lỗ!”
Đại phu có chòm râu hoa râm hoảng sợ, gương mặt già nua trắng bệch, hai tay ôm mặt, động tác run rẩy.
Lúc này, mấy người phía sau tráng hán đã khênh một cánh cửa trên có đặt một xác chết vào điếm đường, đặt trên mặt đất, tráng hán bi thương nói: “Huynh đệ của ta bị bệnh ôn thấp, tìm dong y xem bệnh, buổi sáng vẫn khỏe mạnh, lúc trưa uống thuốc do dong y bốc, lúc xế chiều trở bệnh, đưa đến Tế Thế Đường, Diêm đại phu, đại đồ đệ của Tiền thần y xem xong lắc đầu nói, chất độc đã ngấm vào tạng phủ, không cứu được nữa, sư phụ của ông ta lại tới phủ thành, ông ta không có cách nào. Chúng ta dùng nhân sâm để duy trì mạng sống chỉ để nghe lời trăng trối mà cũng không được, đến tối thì chết, hu hu hu…”
Phía sau có không ít nam nữ già trẻ đi theo, nhiều người đang kêu khóc.
Lâm Thanh Đại cau mày, đi tới ngồi xổm, đưa hai ngón tay dò hơi thở, hơi thở đã tuyệt, lại kiểm tra mạch, lật mí mắt thấy người này quả nhiên đã chết, lòng trầm xuống, lắc đầu, đứng dậy nói: “Lệnh huynh qua đời, ai cũng thương tiếc nhưng lệnh huynh là do bệnh tật mà chết hay lỗi do Sài đại phu bốc thuốc lầm, cái này phải tra rõ mới được”.
“Điều tra rõ ràng? Chứng cứ rõ ràng sao còn điều tra? Diêm đại phu, đại đồ đệ của Tiền thần y ởế Thế Đường đã nói thì không thể sai được, lão tam, ngươi kể lại lời của Diêm đại phu cho bọn họ nghe!” T
Từ đám người phía sau tiến ra một thư sinh ốm yếu, hắn rơi lệ nói: “Diêm đại phu nói đại ca của ta mắc bệnh ôn thấp, loại bệnh này kiêng nước nên rất khó dùng thuốc, lấy ổn định làm đầu, phải dùng Tam nhân thang hoặc Bạch hổ thang để ổn định bệnh cho đến khi bệnh suy giảm, yêu cầu tứ bình bát ổn, tuy công hiệu chậm, cũng không có gì sai, nhưng nếu dùng thuốc mạnh công phạt, tham công mà tiến, dong y này lại loạn dùng thuốc hổ lang, dùng Đại thừa khí thang cùng Giải độc thang mạnh mẽ mà đuổi ôn thấp, đại ca ta vốn đã sốt cao hôn mê, lại trúng loại thuốc hổ lang này, đáng thương hắn đang từ một người sống, lại bị dong y này trị chết!"
Gã đại hán khóc rống lên, hắn lại tiến lên muốn đánh Sài đại phu.
Lâm Đại Thanh nhíu mày ngăn lại nói: “Chậm đã, đồ đệ của Tiền thần y ở Tế Thế Đường nói vậy liệu đó có phải là sự thật không?”
“Ở Đống Đạt Huyền này, trong vòng bốn dặm, tám trấn còn có thần y nào lợi hại hơn Tiền Thần y sao? Nếu lời nói của đồ đệ ông ấy không tính thì lời nói của ai mới đúng đây?”