Các sơn trang đều nằm quấn quanh trên ngọn núi nhỏ ở ngoại thành phía Tây. Trước thôn là một con sông, có tên là Phúc Thọ Hà, tương truyền con sông này nước sông chưa bao giờ cạn, nhưng hễ có ai hay uống nước sông này thì đều có được tuổi thọ rất cao, thế nên sông mới mang tên Phúc Thọ Hà.
Đỗ Văn Hạo và Lâm Thanh Đại ngồi trên xe bò kéo đi ra khỏi thành. Xe bò vừa đi ra khỏi thành, thì Đỗ Văn Hạo bèn ôm Lâm Thanh Đại vào lòng, hai người ôm hôn nhau thắm thiết và thì thầm bên tai nhau những lời yêu thương.
Ông lão đánh xe rất biết ý, ngồi trên thành xe, kéo mành che của xe xuống, miệng còn cao giọng hò một bài sơn ca lạc điệu, quất dây giục bò tiến bước, cũng không làm phiền Đỗ Văn Hạo và Lâm Thanh Đại tình tứ với nhau.
Đỗ Văn Hạo ôm hôn Lâm Thanh Đại một cách say đắm, bất giác đưa tay lên cởi nút áo trên người Lâm Thanh Đại, nhưng Lâm Thanh Đại đã nhanh tay tóm lấy tay của hắn sẵng giọng: “Đứng đắn một chút đi! được không? Lâu lắm rồi hai ta mới đến Quách gia trang, phong cảnh đẹp như vậy, sao lại không thưởng thức phong cảnh cơ chứ?”
Đỗ Văn Hạo cười cười, ngồi thẳng người dậy. Vén màn xe lên nhìn, xe đang đi đến một cây cầu đá hình cầu vồng, dưới cầu nước sông man mác, gió là đà vờn trên mặt sông. Hắn bất giác cảm thấy khoan khoái vô cùng, nói: “Phong cảnh quả là rất đẹp, sao ta lại không đi ngắm nó nhỉ?”
“Ngắm chứ.” Lâm Thanh Đại và Đỗ Văn Hạo hai người cùng đi xuống xe, gọi ông lão đánh xe đi qua cầu trước, còn hai người bọn họ từ từ đi phía sau để còn ngắm phong cảnh. Ông lão gật đầu đồng ý, ra roi quất bò đi trước.
Hai người đứng trên cầu thưởng thức cảnh đẹp trước mắt. Nước sông Phúc Thọ Hà trong vắt đến tận đáy, đứng từ phía trên cầu có thể nhìn thấy cá đang nô đùa ở dưới chân cầu. Lâm Thanh Đại nói: “Nghe nói cá của con sông này có thể chữa được bệnh.”
Đỗ Văn Hạo vòng một tay ôm lấy cái eo nhỏ xinh của Lâm Thanh Đại, liếc mắt nhìn ra xung quanh xem có ai không, rồi nhanh như tia chớp hôn chụt lên má Lâm Thanh Đại, nói: “Vạn vật trên thế gian này đều là thuốc, chỉ tiếc là chúng ta biết quá ít về chúng mà thôi. ”
Lâm Thanh Đại nhẹ nhàng lách khỏi vòng tay của hắn, quay nghiêng người nửa cười nửa không, nhìn hắn: “Bốc thuốc cũng vậy, làm người cũng như vậy. Chàng hiểu thiếp được bao nhiêu đây?”
“Ta dĩ nhiên hiểu nàng chứ! Chúng ta ở bên nhau gần được một năm rồi còn gì?”
“Thời gian không nói lên điều gì cả. Có những người, ở với nhau cả một đời người, mà vẫn không hề hiểu nhau chút nào, cứ như là người xa lạ vậy. Nhưng có những người, chỉ ở với nhau dù chỉ một khắc, thậm chí chỉ một cái liếc mắt thôi, mà đã tâm đầu ý hợp rồi.”
“Đúng là thần giao cách cảm, câu nói của nàng tràn đầy thiền ý đó! Nếu như Tĩnh Từ Sư Thái ở Bạch Vân Xã nghe được câu này, chắc chắn rằng bà ấy sẽ khuyên nàng xuất gia bằng được, để không phải hối tiếc cái huệ căn hiếm có của nàng.”
Lâm Thanh Đại làm mặt hề, cười hì hì: “Thiếp xuất gia, chàng đành lòng sao?”
“Dĩ nhiên là không đành lòng rồi!” Đỗ Văn Hạo trông nàng kiều mỵ đáng yêu như vậy, bất giác lại không cầm nổi lòng, đưa tay ra ôm nàng vào lòng, Lâm Thanh Đại lắc người lẩn tránh: “Đừng đùa nữa! có người lên cầu kìa.”
Đỗ Văn Hạo quay vừa đầu lại, liền nhìn thấy một đàn bò đang đi lên trên cầu, phía sau đàn bò có tiếng hét lớn: “Trên cầu có người không? Nếu nghe thấy, thì mời nhanh chân tránh ra, bò nhà ta rất khó bảo, húc vào người thì đừng trách.”
Mấy con bò đó mũi thở phì phò dẫm đạp lên những viên sỏi lát trên cầu đá, tiếng dẫm đạp ầm ầm dồn dập dường như sắp lên đến nơi. Cây cầu hẹp quá nhỏ, đàn bò xông lên chật cứng, khi Đỗ Văn Hạo định kéo Lâm Thanh Đại xuống cầu lẩn tránh đàn bò, thì Lâm Thanh Đại đã xông lên chắn ngay trước mặt hắn, chờ đàn bò xông đến, nàng đưa tay phất lên một luồng kình lực, đàn bò đã bị đẩy dạt sang một bên.
Mặc dù mấy con bò này đều thuộc hàng hung hãn, nhưng dưới sức ép của chưởng lực từ tay Lâm Thanh Đại, bọn chúng không thể nào áp sát đến bên hai người được nửa bước, cuối cùng bị ép chật cứng thành một đống, chầm chầm từng bước một lết qua cầu.
Đỗ Văn Hạo nói với ông lão chăn bò: “Ông lão ơi, cầu bé như thế này, ông nên nhường cho người ta đi trước rồi mới cho bò qua chứ, nếu không mấy con bò hung hãn này húc người thì làm thế nào? May mà phu nhân của ta biết chút võ công, nếu không, bọn ta đã bị đàn bò của ông hất văng xuống cầu rồi. ”
Ông lão đó gập người đáp lễ liên tục, xin lỗi nói: “Thành thật có lỗi với tiểu huynh đệ quá, mắt của lão phu gần đây kèm nhèm không được tốt lắm, không nhìn rõ sự vật, nhìn cái gì cũng mờ mờ mịt mịt cả, không biết trên cầu có người, thật là đắc tội, đắc tội.”
Đỗ Văn Hạo định thần nhìn lại, mới nhận ra mắt ông lão đã sưng đỏ cả lên, khóe mắt có rỉ vàng như mủ chảy ra, nhìn trông khiếm nhã, bẩn thỉu vô cùng, thế nhưng người nông thôn lại thường rất thật thà, chất phác, chẳng ai quan tâm những tiểu tiết như vậy cả, Đỗ Văn Hạo bèn nói: “Ông lão, bệnh mắt của ông đúng là không nhẹ chút nào.”
“Ừ, đúng vậy, đây là do nóng trong phát hỏa đó.”
Đỗ Văn Hạo lắc đầu nói: “E rằng không phải nóng trong thôi đâu.”
“Ồ? ” Ông lão nheo mắt liếc nhìn Đỗ Văn Hạo: “Nghe cách nói của các hạ, thì các hạ là một lang trung rồi.”
“Tại hạ Ngũ Vị Đường Đỗ Văn Hạo!”
“Đỗ Văn Hạo?” Ông lão dường như không biết đến danh tiếng của Đỗ Văn Hạo, liếc hắn một cái nói: “Tiên sinh đến đây mua thuốc phải không?”
“Ha ha, tại sao ông lại không nghĩ là tại hạ ra đây là chẩn đoán, khám bệnh cơ chứ?”
“Người trong thôn chúng tôi đa số đều hiểu chút ít y thuật, mấy cái bệnh cỏn con này thì tự khám cho mình là được rồi, cần gì cứ phải chạy vào thành tìm đại phu chứ?”
“Nghe ông nói vậy, thì ông cũng học y phải không?”
“Hiểu một ít bề ngoài mà thôi, ài! Bị bệnh mà không tự chữa được cho mình thì kém quá! Thôi ta đi đây!”
Ông lão lắc đầu, thở dài, ra roi quất bò khuất bóng dưới chân cầu.
Chờ ông lão đó đi xa rồi, Lâm Thanh Đại cau đôi lông mày, nhỏ nhẹ hỏi: “Trên người ông ấy có mùi gì vậy?”
Đỗ Văn Hạo gật gật đầu, đáp: “Là mùi của thuốc đắp làm mát hốc mắt. Ông ấy kê thuốc không đúng, nên bị phản tác dụng, bệnh ở mắt ngày càng nặng. Nếu trì hoãn thời gian chữa bệnh quá lâu, thì bệnh sẽ không thể chữa khỏi được nữa.”
“Vậy sao chàng không nói cho ông ấy biết?”
“Nói gì cơ chứ? Người ta căn bản không coi ta ra cái gì cả, một Thái Y Viện Viện Phán lừng lẫy như vậy, mà cũng không biết đến. Đi thôi, chúng ta vào thôn mua thuốc.”
Đỗ Văn Hạo dắt tay Lâm Thanh Đại đi xuống cầu, từ rất xa hình như ông lão nghe thấy điều gì đó. Ông đứng im, quay đầu lại, kinh ngạc ngó nhìn sang đầu cầu bên kia, ngẩn người suy nghĩ.
Sáng ngày thứ hai, dược đường vừa mở cửa. Người đầu tiên bước vào, tự xưng là Quách Kính, chỉ đích danh Đỗ Văn Hạo đến xem bệnh, không muốn bất kỳ một vị đại phu nào ngoài Đỗ Văn Hạo chữa bệnh cho mình cả. Những người hâm mộ tên tuổi của Đỗ Văn Hạo đến tìm hắn chữa bệnh, nhiều đếm không xuể, thế nên mọi người nơi đây cũng quá quen với việc này, làm cho Diêm Diệu Thủ và Hàm Đầu phải hết lời khuyên nhủ thuyết phục.
Người đó tự xưng mình cũng là một đại phu, nhưng kê đơn thuốc rồi mà vẫn không chữa được bệnh mắt của mình, nói là muốn người ta kiểm tra tình hình dùng thuốc hộ mình.
Diêm Diệu Thủ và Hàm Đầu đều nhìn vào đôi mắt của người này, rồi nghe người này trình bày tình hình dùng thuốc của mình xong, cả hai người đều há hốc mồm kinh ngạc, bèn kêu người ra hậu đường gọi Đỗ Văn Hạo đến.
Đúng lúc đó Lâm Thanh Đại đang ngồi nói chuyện với Đỗ Văn Hạo. Nghe thấy vậy, cũng đi theo Đỗ Văn Hạo ra bên ngoài, nhìn thấy bệnh nhân, liền thấp giọng nói với Đỗ Văn Hạo: “Đây không phải ông lão chăn bò hôm qua gặp ở cầu đá sao?”
Đỗ Văn Hạo gật gật đầu tiến lên phía trước ra hiệu bọn tiểu nhị đỡ người đó ngồi xuống.
Ông lão ôm lấy mắt hỏi: “Có phải Đỗ tiên sinh đó không?”
Đỗ Văn Hạo mỉm cười nói: “Chính là tại hạ.”
Ông lão đưa tay mò mẫm muốn bám lấy cái gìđó, thấy vậy Đỗ Văn Hạo liền đưa tay ra đỡ lấy, ông lão bắt được tay của hắn, chưa kịp nói câu gì thì nước mắt kèm theo những vệt mủ vàng đã từ khoé mắt bị mưng mủ, chảy dài xuống.
Đỗ Văn Hạo vội vàng ngăn lại, nói: “Đừng vội, bệnh của ông không được khóc, có gì cần giúp đỡ cứ việc nói ra, chỉ có điều nước mắt ông không được chảy nữa, cái này không có ích gì cho đôi mắt ông hết .”
Ông lão vội đưa vạt áo lên quẹt nước mắt, rồi run run nói: “Đỗ tiên sinh, xin ngài hãy tha thứ cho lão phu có mắt mà như mù. Hôm qua gặp mặt, mà không biết rằng tiên sinh là thần y Đỗ đại phu. Lại còn lùa bò húc ngài nữa, khi về hỏi mới biết rằng tiên sinh có tiếng như vậy, thật đáng hổ thẹn.”
“Không có gì, không có gì, đừng khách khí quá. Bệnh mắt của ông rốt cuộc là bị làm sao vậy?”
“Đó là một câu chuyện khá dài, lão phu vốn là một đại phu làng nhàng ở quê, hàng ngày ngoài làm việc đồng áng ra, còn biết cắt thuốc để buôn bán lấy tiền và còn xem mấy cái bệnh lặt vặt cho những người trong thôn. Đầu xuân năm nay, đột nhiên mắc bệnh mắt này, cứ ỷ mình cũng là một đại phu, nên không cần mời người khác đến xem bệnh cho mình, mà tự mình kiểm tra, tôi nghĩ đây là nóng trong nên dùng những loại thuốc như Hoàng Liên, Sơn Ngôi, Cúc Hoa, Bạc Hà, toàn những loại thuốc mát lành để chữa, không ngờ bệnh ngày càng nặng thêm. Hôm qua, Đỗ thần y chỉ cần nhìn qua một cái, là biết bệnh của lão phu rồi. Còn nói đặc điểm dùng thuốc của tôi nữa, lão phu kinh ngạc vô cùng, lại biết tiên sinh còn tinh thông Thần Kỹ Hoa Đà nữa, thế nên lão phu vô cùng ân hận khi để lỡ cơ hội được tiên sinh chỉ bảo cho. Do vậy sáng sớm ngày hôm nay, bèn đích thân đến đây mong tiên sinh cứu giúp.”
“Ông lão, ông cứ yên tâm, tại hạ sẽ cố gắng hết sức để chữa khỏi bệnh cho ông.” Đỗ Văn Hạo cầm tay bắt mạch, cẩn thận xem xét lưỡi ông, rồi dò hỏi từng ly từng tí quá trình phát bệnh của ông, cười nói: “Mạch của ông trầm, nhịp mỏng, yếu đích thị là âm hư huyết nhiệt, do sơ gan gây nên, chả trách ông dùng mấy phương thuốc giải nhiệt trị độc đều không khỏi. Bệnh này không khó. Chỉ cần kê ba đơn thuốc là có thể chữa khỏi bệnh trên mắt của ông. ”
Quách Kính mặt nghi ngờ, hỏi: “Lão phu biết thần kỹ của tiên sinh rất cao siêu, nhưng, mắt của lão đã nghiêm trọng như vậy rồi. Tiên sinh kê đơn thuốc gì trị liệu bệnh cho lão, uống thuốc là có thể chữa lành bệnh?”
Đỗ Văn Hạo cười cười, cất bút viết một đơn thuốc đưa cho ông ta, an ủi nói: “Có chữa được hay không, ông cứ uống rồi sẽ biết.”
Quách Kính tiếp lấy đơn thuốc, kinh ngạc nói: “Thưa Tiên sinh, mọi người ai cũng nói là bệnh của mắt đều do nhiệt mà ra cả. Nhưng phương thuốc mà tiên sinh kê lại không có bài thuốc nào làm thanh nhiệt tả hỏa cả, lão phu không hiểu như vậy có chữa được bệnh cho lão phu không?”
“Nóng có hư có thực, bệnh có trong có ngoài. Bệnh bên ngoài thì dùng Hoàng Liên, Thiền Thuế rửa cái là xong. Nhưng nhiệt nóng bên trong là do tỳ vị tụ hỏa, nên nhiệt công lên mắt, đây là chứng nội thực nhiệt. Phải thải được nhiệt bên trong thì mới chữa khỏi bệnh được. Ông hồi trước dùng các bài thuốc hàn lạnh nhưng hỗ hỏa, như vậy là không đúng với chứng bệnh, nên càng chữa bệnh càng nặng thêm. Ông không tìm đúng nguyên nhân của bệnh nên chữa không khỏi là lẽ đương nhiên rồi.”
Quách Kính chợt hiểu ra vấn đề, hổ thẹn chắp tay tạ ơn ra về.
Sau khi về, chỉ cần uống một thang thuốc thì cơn đau nhức giảm đi một nửa, uống hết ba thang thuốc, bệnh ở mắt quả nhiên được chữa lành toàn bộ.
Đưa ông lão Quách Kính về xong, Đỗ Văn Hạo quay lại nội đường. Gọi người chuẩn bị kiệu, sáng nay hắn phải đến Thái Y Viện làm việc. Thay xong quan phục liền lên kiệu, chiếc kiệu đủng đỉnh đưa hắn đến Thái Y Viện. Hắn vẫn vương vấn không biết món Tam Thất hầm gà mái dâng cho Hoàng Hậu thưởng thức, hiệu quả ra sao, nên sau khi đến Thái Y Viện báo danh xong, bèn đem theo Hạ Cửu Bà đến thẳng tẩm cung của Hoàng Hậu.
Nghĩ đến, mình sắp gặp được Hoàng Hậu nương nương sắc nước nghiêng thành, thì tim hắn đập rộn ràng. Muốn đến cung Long Hữu của Hoàng Hậu phải đi qua cổng cung Bảo Từ của Hoàng Thái Hậu. Đến cổng cung Bảo Từ Đỗ Văn Hạo dừng lại. Hắn nhớ ra cuộc hẹn ngày hôm qua, hắn đã hứa với Hoàng Thái Hậu sáng nay phải vào xem bệnh đau kinh cho bà, thế mà chỉ vì nghĩ đến quốc sắc thiên hương của Hoàng Hậu mà hắn suýt chút nữa quên béng mất chuyện này. Hắn lập tức quay người, bước vào trong cung Bảo Từ.