CÓ MỘT VÙNG ĐẤT TÊN LÀ RETHALA.
Không ai biết tại sao nó được gọi như thế. Nhưng qua hàng thế kỷ, cái tên đó vẫn được giữ nguyên.
Con sông vĩ đại vắt qua Rethala được gọi là Ner Rill. Từ tháng tư đến tháng mười một mỗi năm, con sông cuồn cuộn nước chảy. Nhưng từ nửa tháng mười một, khi tuyết bắt đầu rơi, nó yên tĩnh trở lại và đóng băng. Đấy là một cảnh tượng mà bất kỳ ai cũng phải kinh ngạc. Băng cứng đến mức có thể đi lên trên.
Rethala có những ngọn đồi dài hiu quạnh. Có những dải núi hùng vĩ và khu rừng u ám không tên. Xen kẽ rừng với rừng là thảo nguyên hoang dã. Vào những ngày trời mưa, cỏ rũ xuống và mặt đất trở nên lầy lội.
Không ai xây dựng nhà cửa tại Rethala và cạnh dòng Ner Rill cho đến khi một gia tộc đến và quyết định đây là đất ở của họ. Họ gây dựng nên dòng tộc đồ sộ của mình bên dòng chảy xiết của Ner Rill. Họ tạo dựng cả một thành phố. Và ở bên bờ kia con sông, họ xây dựng một tòa lâu đài hoàn toàn cách biệt với thế giới. Đó là lịch sử của lâu đài Quỷ. Ra đời giữa những cơn mưa trái mùa, gió tuyết và bão, tòa lâu đài là một trong những thành trì cổ nhất của cả lục địa. Nó không được xây dựng để trở thành trung tâm chính trị, hay bất kỳ mục đích nào khác ngoài sinh sống. Gia tộc Lucifer đã sống ở đó hàng thế kỷ.
Mà có lẽ là hàng thế kỷ nữa, họ vẫn sống ở đấy.
Cho đến thế hệ của Howl, tòa lâu đài đã không được tu bổ quá lâu. Nó trở nên ảm đạm, mục rữa, như cái xác khô từ địa ngục, vào đêm trăng thanh bỗng sống dậy. Một đàn quạ lông đen tuyền bay qua lại trên những tháp canh. Chúng làm tổ trong những hốc đá, gờ tường, những bụi thường xuân bao quanh mấy cây cột cổ kính.
Trên đầu Howl, bầu trời ầm ì sấm, báo hiệu một cơn mưa.
Những con quạ khác rồi cũng xuất hiện. Chúng mặc bộ đồ trắng và đen, tuổi tác thường quá ba mươi, đi ra từ cửa lâu đài để dỡ hành lý. Nước da xanh nhợt nhạt, nhiều nếp nhăn, tóc chải gọn gàng, mắt đen láy và cái cằm hơi nhọn. Đó là những người làm thuê, hầu hạ trong lâu đài. Những nô lệ buồn chán.
Một đàn quạ, két.
Vây quanh Howl.
Có con quạ lớn hơn đi xuống từ cầu thang. Có khi là kền kền, Howl nghĩ. Vì ông ta quả giống con kền kền, loài chim cáo già ấy. Da ông ta ửng đỏ và nhăn nheo, râu tóc đều trắng. Cái nhìn của ông ta đăm chiêu, dò xét và chờ đợi. Con kền kền ấy bước xuống các bậc thang như bước trên lông vũ, không một tiếng động. Rồi đến ngay trước mặt Howl.
“Quản gia James Rider, thưa ngài.” Kền Kền xưng danh. Y mang vẻ mặt điềm tĩnh, đôi mắt sắc của loài cáo, và cái mũi quả thật làm Howl nghĩ đến loài chim đấy. Đôi môi y uốn thành một nụ cười mảnh, giống những nét vẽ trên một tấm mặt nạ cười.
Trái ngược với sắc thái trầm, dò xét của James, giọng nói Howl vang hơn, sôi nổi hơn. Cậu bắt tay ông ta, tươi cười:
“Ông đã làm ở đây bao lâu rồi?”
“Khá lâu rồi, thưa ngài. Từ ngày Quỷ Vương bắt đầu công việc của ngài ấy.”
“Tôi không nhớ nhiều về ông lắm.” Howl nói.
“Vậy ư?” Trông y không có vẻ ngạc nhiên lắm. James quay đi, vẫy vẫy tay với đám quạ két đang khuân vác hành lý cho Howl. Cậu đi sau gót ông ta. “Tôi thì biết ngài từ khi ngài mới là đứa trẻ.”
Mười ba năm không phải quãng thời gian quá dài, nhưng cũng không hẳn là ngắn. Howl cố không nhớ những điều đáng quên về lâu đài Quỷ, dù một số ký ức của cậu vẫn chẳng đi đâu cả. Nhưng cậu hoàn toàn không nhớ về James. Cậu có đã từng gặp ông ta? Có, có thể chứ.
Quanh ông ta, phảng phất mùi thuốc men.
“Tôi sẽ dẫn ngài lên phòng.”
“Không cần.” Cậu nhoẻn cười. Vết thâm dưới mắt cho thấy sự mỏi mệt nhưng giọng nói cậu thì phấn khích. “Tôi muốn gặp ông già tôi đã.”
“Ngài không mệt sao?”
Rõ ràng ông ta tỏ ra phật ý. Cậu chợt hiểu ra y không thích mình gọi Quỷ Vương bằng cụm từ “ông già tôi”. Thái độ đó đã mang cho cậu khá nhiều thông tin về Kền Kền. Một điều chắc chắn, ông ta không phải kẻ ba phải.
Không, ông ta trung thành.
Mà sự trung thành không phải luôn là tốt.
“Không. Tôi đã không gặp ông ấy mười mấy năm.” Howl bóng gió. “Tôi sốt ruột lắm rồi.”
Y im lặng một quãng ngắn, rồi gật đầu:
“Được thôi. Mời đi lối này.”
Trong chốc lát, mọi người đã tản đi và sảnh trước của lâu đài lại vắng tanh. Từ sâu trong những ngóc ngách yên tĩnh của lâu đài, dội lại những âm thanh dù là nhỏ nhất.
Và Howl có thể nghe thấy,
đâu đó quanh đây,
tiếng khóc than
của một đám tang.
*
LÂU ĐÀI QUỶ CÓ KIẾN TRÚC ĐẶC TRƯNG của nền văn hóa vùng đất này. Cổ xưa. Tối. Và vắng lặng.
Hầu hết những cảnh cửa, mái nhà và cả trần nhà đều được xây theo hình vòm hẹp. Trên các bức tường và cây cột xây bằng đá là những họa tiết điêu khắc có tuổi thọ lên đến cả trăm năm. Howl bắt gặp trên những bức tượng điêu khắc ấy các đường nứt kín đáo và góc cạnh mòn vẹt của chúng.
Ở bên ngoài lâu đài, những cây thường xuân độc bám chắc rễ vào các gờ tường, mép đá, các bức điêu khắc, và cả cửa sổ. Những ô cửa kính bị rễ cây bám chặt lấy, chằng chịt như hàng rào mắt cáo. Ánh sáng trong lâu đài đã ít nay còn ít hơn. Howl tự hỏi mình đang tưởng tượng, hay là nhiệt độ trong lâu đài thấp hơn cả ở ngoài thật.
Cậu chợt cảm thấy tiếc.
Nỗi nuối tiếc đi cùng với nỗi nhớ. Lâu đài Quỷ từng là một trong những tòa lâu đài đẹp bậc nhất. Nó có sức sống, nó có hơi thở. Nó có vẻ đẹp trầm tư và yên lặng như một người góa phụ sống ẩn dật. Cậu thấy như mình vừa đặt chân vào một chốn xa lạ hoàn toàn.
Khi mẹ cậu còn sống, bà chắc chắn không bao giờ để lâu đài như một phế tích bỏ hoang như thế.
Không bao giờ.
Cậu đã sống ở đây. Qua ngày và đêm. Trong suốt thời thơ ấu. Trong suốt những năm tháng từng được nhớ đến với sự tốt đẹp, an bình hiếm hoi.
Bấy giờ khi bước theo gót chân James, Howl không còn cảm thấy tòa lâu đài thở nữa. Nó đã chết, theo cùng với những kỷ niệm đẹp, theo năm tháng. Nó đã chết dưới bàn tay của cha cậu, Quỷ Vương, Moldark Lucifer.
Nhưng sẽ chẳng có và sẽ chẳng còn khác biệt gì nữa cả.
Vì ông ta cũng đang sắp chết.
Theo chân James Rider, Howl lên tới tầng bốn. Băng qua các hành lang rộng thênh thang u tối và quanh co như một mê cung vô tận, cậu được dẫn đến căn phòng ngủ lớn nhất của tòa lâu đài. Cánh cửa gỗ hình vòm dày khoảng ba mươi phân nặng nề di chuyển dưới tay của Kền Kền. Y kéo nó một cách thận trọng nhưng không ngăn được tiếng rin rít ồn ào từ bản lề cửa rỉ sét phát ra.
James không vào trong cùng Howl. Y muốn giữ riêng tư cho cậu và Quỷ Vương. Đó cũng là điều Howl muốn. Chỉ cậu và ông ta, mặt đối mặt.
Ấn tượng đầu tiên của cậu là thứ không khí ẩm thấp, đặc và ngột ngạt của căn phòng. Cậu sớm trông thấy trên chiếc giường trải ga trắng một người đàn ông gầy guộc, xanh xao. Đôi khi cha cậu vẫn ghé qua Vampiton, nhưng cậu không chắc mình nhận ra người này. Ông ta tái nhợt, những đường gân nổi rõ trên da như rễ cây chằng chịt. Mái tóc muối tiêu của ông ta cũng ngả trắng dần.
Nhưng trong phòng không chỉ có cậu và ông ta.
Có một người khác cũng ở đấy.
Kẻ đó hẳn là một phụ nữ. Mà không, trẻ hơn thế, một cô gái. Cô ta mặc áo choàng trắng có mũ trùm, gương mặt ẩn trong vành mũ tối. Cô ta kinh ngạc nhìn Howl, dường như không thấy trước sự xuất hiện của cậu.
“Cô là ai?” Howl cất tiếng trước.
“Người hầu, thưa ngài.”
Người đàn ông nằm trên giường nhướn đôi mắt đục ngầu lên nhìn cô ta. Ánh mắt hai kẻ đó giao nhau, nhưng Howl đã không nhận ra được điều đó.
“Cô có thể đi được rồi.” Cậu nói và liếc thấy một giỏ táo đặt trên bàn. Những quả táo mang màu đỏ chín, quyến rũ và ngon mắt. Howl không thể cưỡng lại lời mời ngon lành đấy, cậu cầm một quả lên.
Cô ta gật nhẹ đầu. Khi đi lướt qua Howl, cậu mới băn khoăn về trang phục của cô ta. Người hầu trong lâu đài có đồng phục riêng. Nữ thì váy đen riềm trắng đơn giản. Không ai ăn mặc khác cả.
Điều đấy khiến Howl tự hỏi tại sao cô ta nói dối.
Một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng Howl. Cái không khí lạnh lẽo trong phòng cộng thêm tiếng cửa đóng ken két làm những sợi tóc tơ sau gáy cậu dựng cả lên. Quanh giường của Quỷ Vương, mùi thuốc men nồng nặc. Thật ra chúng làm từ thảo dược cả, nên cũng không quá khó ngửi.
Howl cắn quả táo một miếng, ung dung kéo chiếc ghế gần đó và ngồi xuống, gác chân lên mép giường. Quỷ Vương trông gầy gò và tiều tụy như một gã ăn mày đã bị bỏ đói cả tuần trời. Mắt ông ta mắt đục ngầu, hằn những tơ máu đỏ ửng còn trán thì lấm tấm mồ hôi. Ánh mắt trống rỗng, dằn dữ đó theo sát từng cử chỉ của Howl.
“Chào bố.” Howl nhoẻn cười.
Cậu gần như không nhận ra ông ta bởi bộ dạng lúc này của ông ta, nhưng Howl vẫn biết ông ta chính là Moldark, vĩ nhân trong lòng những Cambion biết đến ông ta, bậc thầy của chiến tranh và vị vua quyền lực. Nhưng với Howl, ông ta mãi mãi là một kẻ tồi tệ, cái gai độc trong mắt cậu.
Ông ta rên rỉ, dường như đã nhận ra cậu. Đôi mắt đỏ quạnh hướng theo Howl không rời.
“Trông bố tệ nhỉ?” Cậu nói mỉa mai. “Chỉ mới mười ba năm thôi mà. Con đã tưởng bố sẽ sống lâu hơn thế.”
“Dẫu sao, con cũng muốn chào hỏi bố trước khi, bố biết đấy...” Cậu đưa tay cắt ngang cổ mình và vờ trợn mắt lên. “...đi mất.”
Ông ta liếc nhìn lên trần nhà. James đã nói với cậu rằng khả năng giao tiếp và nói năng của ông ta giảm sút khá nhiều, nhưng cậu tin rằng ông ta hiểu mình đang nói gì. Bởi sau đó, ông ta chợt lắc đầu.
Cậu không muốn hiểu điều đó có nghĩa là gì, nhưng Moldark vẫn cứ lắc đầu, người run lên.
“Thật buồn khi con không thể nói chuyện được với bố.” Cậu nói. “Nhưng con có thể quen với việc đó. Bố biết không, cả nơi này sẽ thuộc về con và của mình con khi bố đã đi khỏi. Con biết điều đó thật nghiệt ngã, chẳng vị vua nào muốn từ bỏ ngôi báu của mình.” Cậu nhún vai. “Nhưng ai rồi cũng sẽ phải chết, và bố đừng lo...”
Howl vươn người, chỉnh sửa ngay ngắn cổ áo và tấm chăn trên người Moldark. “...con hứa sẽ chăm sóc nơi này thật tốt. Tốt hơn bố từng chăm sóc nó. Lâu đài Quỷ sẽ là của con, bố ạ, và không ai có thể lấy nó đi.”
Howl đứng lên, chỉnh sửa lại trang phục. “Con phải đi rồi, chúc bố có chuyến đi vui vẻ. À, và, hãy gửi lời thăm của con đến mẹ nhé.”
Cậu quay lưng đi, nhoẻn cười với mình. Đột ngột, Quỷ Vương vươn bàn tay gầy nhăn nheo của mình ra túm chặt lấy cánh tay Howl. Những ngón tay của ông ta bám lấy da cậu như một chiếc kìm kim loại.
Rõ ràng ông ta đang cố nói gì đấy.
“Sao cơ?” Howl cúi người ghé tai xuống nghe.
“Hãy cẩn thận...”
Đó là những gì ông ta có thể thốt ra được, cặp mắt như lồi ra và sưng lên nhìn cậu chằm chằm. Howl giật tay ra:
“Cẩn thận cái gì?”
Ông ta oằn người, đầu hơi nâng lên. Và một trong những ngón tay già nua nhúc nhích, khẽ chỉ vào giỏ táo tươi ngon trên bàn.