CƠN ÁC MỘNG VẪN ẬP TỚI HÀNG ĐÊM từ khi Howl bắt đầu sống ở lâu đài Quỷ.
Mỗi buổi sáng, Howl thức dậy với cơn đau đầu. Nhưng cũng chỉ khoảng nửa tiếng sau nó biến mất.
Cậu không hiểu tại sao.
Lễ đăng quang của cậu diễn ra vào tuần trước. Lâu đài Quỷ chưa bao giờ đông như thế, hầu như không còn ai đề cập đến chuyện Moldark đã chết nữa. Nhưng Howl biết ở sau lưng mình, họ vẫn rì rầm đồn đoán về điều ấy. Kẻ giết người là ai? Tại sao hắn lại làm thế? Bằng cách nào hắn giết được Moldark? Việc ông ta bị ám sát có lẽ đã là một thông tin khó tin và gây sửng sốt, nên người ta càng tò mò về danh phận của thủ phạm.
Nghiễm nhiên, vị bác sĩ đã khám cho ông ta lại nổi tiếng. Vào đám tang, ông ta cũng đến nhưng chẳng chia sẻ điều gì hữu ích cả.
Howl và những người thuộc Hội đồng chỉ cố gắng im lặng hết sức có thể. Dẫu bản thân cậu cũng tò mò.
Sáng hôm nay, người giữ bản di chúc của Moldark đã đến. Anh ta mặc một bộ vest đen ngay ngắn, không vết nhăn nhúm, mái tóc nâu cắt cao được chải gọn. Chắc anh ta chỉ tầm ngoài ba mươi, dáng vẻ nhanh nhẹn, có khuôn mặt hơi xương xẩu và cái mũi cao thẳng, hơi gãy. Anh ta bước thẳng đến trước bàn làm việc của Howl và ngồi xuống đối diện cậu.
“Buổi sáng tốt lành, thưa ngài.”
Howl chỉ hờ hững gật đầu. Chiếc ghế của cậu xoay ngang so với chiếc bàn, và Howl ngoái nhìn ra cửa sổ. Mưa rơi lất phất bên ngoài, Rethala vẫn đang vào mùa mưa nên chẳng mấy khi trời tạnh ráo. Cỗ xe ngựa bên ngoài hẳn là của người giữ di chúc. Anh ta có vẻ cũng là loại khá giả.
“Một năm điên rồ phải không?” Anh ta nói khi thấy Howl vẫn chưa chú ý đến mình lắm. Thật ra chẳng có lý do gì mà cậu phải chú ý: bản di chúc của Moldark chỉ là vấn đề giấy tờ trước và sau khi qua đời của ông ta. Những gì viết trong đó đã rõ, mọi tài sản sẽ để lại cho cậu và Abigail, không thể khác được.
“Còn tùy nữa.” Howl nói, rốt cuộc cậu cũng quay người lại phía anh ta. “Còn chưa hết năm mà.”
Anh ta nhăn trán rồi lấy tay vuốt sống mũi, tỏ ra mệt mỏi. “Tôi biết, nhưng nó dài như cả thập kỷ vậy... Được rồi, tôi mang đến đây di chúc của ngài Moldark. Tôi đã đến một vài lần trước khi ngài ấy qua đời và, cũng không có gì bất ngờ lắm cả.”
“Cho tôi xem đi.” Howl nói.
Người đàn ông đặt chiếc vali đen lên bàn. Anh ta lật mở những cái chốt, rồi lấy ra trong vali một tập phong bì niêm kín có dấu đỏ. Đặt vali xuống, anh ta để chiếc phong bì ngay ngắn trên bàn, trước mặt Howl.
“Tôi phải báo trước có vài điều hơi kỳ lạ.” Anh ta nói, rồi cẩn thận mở niêm phong phong bì. “Nhưng cũng không có gì đáng lo cả, tôi nghĩ vì ngài ấy là người khá kỳ quặc thôi.”
“Kỳ quặc ư?” Howl trả lời bằng một tiếng cười. “Ông ta không kỳ quặc, anh bạn. Ông ta là loại vô cảm và tham lam. Nhưng thôi được, cho tôi xem anh có gì ở đó nào.”
Người đàn ông lấy những tờ giấy da được giữ phẳng phiu bên trong phong bì ra, ở trong là những nét chữ đều đều màu nâu. Howl cầm lấy bản di chúc. Lẽ ra cuộc gặp mặt ngày hôm nay phải có cả Abigail vì con bé cũng là một phần trong gia đình. Nhưng sự xuất hiện của nó cũng chẳng để làm gì cả ngoài tăng thêm sự giận dữ.
“Ông ấy để lại lâu đài và mọi tài sản cho ngài và tiểu thư Abigail, về cơ bản thì vậy.”Anh ta tóm tắt lại. “Đất đai, tiền bạc, những tài sản có giá trị... Tuy nhiên có một phần hơi kỳ lạ.” Anh ta cười và những nếp nhăn ở mắt dồn ép lại với nhau. “Ông ấy để lại cây đàn piano của vợ mình cho một người tên Angeline Gallois.
Howl lật tờ giấy. “Ai là Angeline Gallois?”
“Tôi không biết, có lẽ là người quen?”
“Hoặc ông ta có nhân tình.”
“Tôi không nghĩ sẽ lộ liễu vậy đâu, vả chăng nếu có...”
Howl ngẩng nhìn anh ta, nhướn mày.
“Được rồi...” Người đàn ông hắng giọng. “Đó là tất cả, liệu ngài có muốn hỏi điều gì?”
“Bây giờ thì chưa.” Howl chống tay lên cằm, mắt vẫn dán chặt vào tờ giấy. Cậu đọc đi đọc lại dòng chữ viết “để lại cây đàn piano cho Angeline Gallolis”. Cậu không thể làm gì ngoài phỏng đoán về việc cô ta là ai. Cậu chưa từng nghe thấy cái tên này bao giờ cả.
Người đàn ông trong lúc chờ Howl đọc bản di chúc, ngả người ra ghế và nhìn ngắm một hồi căn phòng của cậu. Rồi anh ta dừng mắt ở chùm đèn pha lê màu vàng đục trên đầu:
“Thứ cổ lỗ này vẫn còn ở đây sao? Nó vẫn y nguyên như lần trước tôi đến đây.”
“Phải, vì chỉ mới có vài tháng thôi. Tôi đang thuê người sửa sang lại lâu đài rồi.” Howl lật lại tờ giấy, chau mày.
“Vài tháng? Không, ý tôi là lần tôi đến đây khi phu nhân qua đời.”
Howl ngẩng đầu lên. “Mẹ tôi sao?”
“Phải.” Anh ta chỉnh lại cổ áo. “Tôi đã đến đây khá nhiều lần rồi đấy.”
Howl không hiểu anh ta muốn gửi thông điệp gì khi nói đã đến đây nhiều lần và cậu cũng không muốn biết. Cậu đặt tờ giấy lên trên phong bì rồi cất lời:
“Bà ấy có để lại di chúc sao?”
“Không hẳn. Bà ấy chẳng để lại gì cả, không một bức thư hay gì đó đại loại thế nên Moldark đã gọi tôi đến để tạo một di chúc. Trên thủ tục giấy tờ thôi, bởi mọi tài sản hầu như chẳng có gì giá trị. Bà ấy có một cây đàn piano, theo tôi nhớ là thế. Mọi thứ đều được để lại cho Moldark.”
Một vài ký ức thoáng gợn lên khi anh ta đề cập đến cây đàn piano của mẹ mình. Những ký ức đó có phần mông lung, nhưng Howl có nhớ gì đó về những bản nhạc mà mẹ đã đàn, những nốt nhạc buồn vang lên trong ngày mưa. Bây giờ cậu mới băn khoăn cây piano đó ở đâu. Có lẽ Moldark đã bỏ mặc nó ở một xó xỉnh nào đó trong lâu đài, bây giờ hẳn nó đã cũ mòn và chưa chắc còn dùng được.
Mười ba năm.
Có cây đàn nào sau mười ba năm không sử dụng vẫn còn bền không?
Không thể nói là không thể, nhưng lại gần như không thể.
Khoảng nửa tiếng sau, người giữ di chúc ra về. Anh ta để lại bản di chúc cho Howl và một vài lời khuyên về việc lâu đài nên được tu bổ như thế nào.
Howl không tiễn anh ta. Cậu chỉ đứng ở cửa sổ và nhìn cỗ xe ngựa đi khỏi lâu đài Quỷ.
Trong bóng tối, như có một nốt nhạc vô hình vang lên.
Chúng vang lên,
Trong lửa.
*
NHỮNG BỤI HOA HỒNG chất đống trên cỏ. Các cánh hoa tơi tả bay đi khắp nơi.
Họ đang trang hoàng lại tòa lâu đài.
Các bụi hồng dại leo trên các hàng rào bị cắt và nhổ đi. Cỏ được tỉa, con đường được lát lại. Thậm chí cả cánh cổng chào mừng. Howl cho người dỡ nó xuống và thay bằng dòng chữ khác: Lâu đài Quỷ.
Chỉ thế, không có chào mừng gì cả.
Ở trên cao, những người làm bắc thang và lau chùi chữ L rêu mốc. Các bức tường bên ngoài cũng được sơn và ốp lại. Hẳn sẽ mất nhiều hơn một tháng mới có thể hoàn tất, nhưng Howl không e ngại điều đó.
Trong lâu đài, mọi thứ đều được sửa lại. Các chùm đèn được thay, cửa sổ được làm sạch và người ta sơn lại cả trần nhà. Lần đầu tiên trong bao nhiêu năm, lâu đài Quỷ lại đông đúc.
Howl đứng ở bên ngoài, nheo mắt nhìn những ô cửa sổ đang được lau chùi lại. Những người làm công vừa làm việc, vừa nói chuyện. Không khí vang những âm thanh lao xao của gió và tiếng người. Điểm tuyệt nhất trong sửa sang lại lâu đài, là cậu có thể xóa hết những dấu vết mà cha cậu in khắp nơi bên trong nó. Nó không còn thuộc về ông ta nữa. Nó thuộc về cậu. Tất cả.
Nhưng liệu nó có thật sự là của cậu không?
James bước đến cạnh Howl. Những vết chân chim ở khóe mắt nhăn lại.
“Ngài định trồng thêm bao cây?” Ông ta nhìn theo những cây non vừa được trồng rải rác quanh lâu đài. “Tôi e sẽ hơi rậm rạp quá. Và đến mùa đông không chắc chúng sẽ trụ được.”
“Chỉ thêm một chút bóng mát thôi. Dặn đám thợ thay những cửa nào đã nứt kính đi. Tôi không thích gió rít vào đâu.”
“Tôi sẽ bảo họ sau.”
Dưới ánh sáng ngoài trời, James trông già hơn. Tóc ông ta ngả trắng, được chải gọn gàng. Khó mà đoán được ông ta đã bao nhiêu tuổi. Cambion có tuổi thọ dài hơn người thường. Ông ta hẳn đã phục vụ cho gia tộc cậu từ rất lâu. Hàng chục năm, có khi hơn thế.
“Ông đang nghi ngờ.” Howl nói. Cậu nheo mắt nhìn. Một bụi cây leo độc đang được chặt bỏ gần mấy cây cột ở hiên ngoài lâu đài. Một vài người khiêng đến những chiếc ghế và xích đu mới. Dần dần, trông nó không còn giống khu vườn bị bỏ hoang hàng chục năm nữa.
Sự sống đang đẩy lùi hơi thở u ám của nơi này, như ánh mặt trời rọi qua sau những ngày mưa ẩm thấp.
“Nghi ngờ điều gì?”
“Ồ, ông biết mà. Đừng giả bộ với tôi.” Cậu gõ gõ vào đầu mình. “Tôi có khả năng tuyệt vời về tâm trí đó.”
Mọi cảm xúc bị rút cạn khỏi gương mặt ông ta. Howl đã nhầm. Cậu không nên so sánh ông ta với loài kền kền, mà phải với loài rắn. Thứ sinh vật ẩn náu trong bóng tối, nguy hiểm, khó lường. Bạn không bao giờ biết mình bị một trong số chúng cắn cho đến khi cảm thấy được nọc độc đang chảy trong cơ thể, và chết dần.
Howl không dành sự tin tưởng hoàn toàn cho James. Thật khó để tin được ai trong cái thế giới này.
“Quỷ Vương sẽ không thích cách ngài đang làm với nơi này đâu.”
“Vậy sao? Ông có vẻ biết rõ ông ta phải không?”
“Tôi đã phục vụ ngài ấy gần một thế kỷ.” Ông ta nói, rồi im lặng. Howl có thể đoán được vài điều qua sự im lặng đó.
Gần như có thể coi đó là một kiểu tài năng.
Cậu biết khi nào người ta giận dữ. Khi nào họ khó chịu. Khi nào họ vui vẻ, hả hê. Không cần trò gì bí hiểm với tâm trí cả, cậu chỉ cần lược vài điều từ ánh mắt và câu nói của họ. Sự im lặng của James cho thấy một chút nuối tiếc của ông ta từ vị chủ nhân cũ. Như một con thú nuôi vô chủ, ông ta đang rối trí. Và ông ta không chấp nhận cậu làm chủ nhân mới của mình.
Một con rắn khôn ngoan và trung thành làm sao.
“Sự thay đổi, James,” Cậu buộc ông ta phải nhìn vào mắt mình. James mím môi im lặng. Sức nặng từ ánh mắt cậu làm ông ta bối rối. “Chỉ là chuyện bình thường thôi. Ông không biết học cách chấp nhận sao?”
Bằng một chút nỗ lực, Howl đọc tâm trí ông ta.
Cậu vỗ nhẹ vai James Rider, rồi bỏ đi.
Cậu mỉm cười.
Cậu biết ông ta đang sợ.