Sáng hôm sau Hazel dõi mắt nhìn ra ngoài thế giới thù địch và lạnh giá. Gió đã đi theo các hướng mùa đông của nó, thổi dữ dội từ trên đỉnh núi xuống ngôi nhà của mục sư và ầm ầm kéo vào rừng. Đó là lí do tại sao Edward và Hazel không nghe thấy những âm thanh – những âm thanh khủng khiếp nhất của vùng nông thôn nước Anh – nổi lên từ nhiều mảng rừng ở phía dưới, những âm thanh dai dẳng, thèm khát, hung dữ khi đoàn chó săn hoành hành ở nơi này. Có lúc những âm thanh đó rộ lên, nhưng rồi lại lắng xuống, và chủ của đoàn chó săn đó không khỏi thất vọng. Đàn chó săn chưa phát hiện được con mồi. Ông chủ của chúng là một người đàn ông béo nung núc có hàng lông mi màu trắng và đôi mắt giống như mắt lợn con. Cô Amelia Clomber ngưỡng mộ ông ta và vừa mới phóng ngựa tới nói, “Có một chỗ đi săn đầy hứa hẹn. Mọi người đều đến săn ở đó.” Rồi cô ta nhìn thấy Reddin ở phía xa xa, và đợi gã tới. Cô ta đỏ ửng mặt, thở hổn hển và hoàn toàn im lặng – một điều bất thường đối với cô. Rõ ràng gã trông phong độ hơn bao giờ hết với hương vị mới mẻ và tuổi trẻ mà Hazel đã đem đến cho gã, tôn thêm màu xanh trong mắt gã và bổ sung vẻ ngạo mạn đậm chất đàn ông cho dáng vẻ của gã. Khi Amelia ngắm nhìn gã đang tiến lại gần, cô ta cảm thấy vì đôi mắt xanh và vẻ đàn ông cao ngạo kia, chỉ cần một cái gật đầu của gã thôi là cô ta vui lòng trở thành tình nhân của gã.
Gã hoàn toàn không biết điều đó. Gã chưa bao giờ là một người đàn ông hão huyền, và phụ nữ đối với gã chẳng khác gì một chiếc đồng hồ đeo tay đối với một đứa con nít – một thứ để đập chứ không phải để ngắm nghía. Vả lại gã còn mải suy nghĩ về cuộc gặp gỡ sắp tới với Edward. Gã rất bối rối không biết mình nên nói gì hoặc làm gì trong cuộc gặp đó. Những quả đấm là câu trả lời duy nhất mà gã có thể nghĩ tới. Nhưng lần trước những quả đấm đã khiến gã mất Hazel, mà gã thì vẫn muốn có được nàng. Gã khá ngạc nhiên trước ham muốn được thoả mãn này. Tuy nhiên, như gã nghĩ, sự thoả mãn ham muốn chỉ bị trì hoãn mà thôi. Vào tháng Năm tới…
Nếu cô Clomber nhìn thấy ánh mắt của gã lúc đó, thì có thể cô đã cầu hôn gã. Nhưng lúc đó gã lại đang nhìn đi chỗ khác, về phía những ngọn đồi cao nơi có ngôi nhà của Edward. Trong tâm trí gã xuất hiện bóng dáng những điều tốt đẹp hơn.
Hazel mang lại cảm giác ngọt ngào trong cuộc chinh phục; nhiều phụ nữ không có khá năng đó. Và nàng là một thứ gì đó mỏng manh, hoang dại, bé nhỏ. Gã thấy tiếc cho nàng. Gã nghĩ nếu bán con ngựa gã đang cưỡi đi, thì gã có thể trả tiền để một vị bác sĩ hàng đầu và hai cô y tá chăm sóc nàng. “Mình sẽ bán con ngựa đi,” gã quyết định. “Mình có thể đi bộ thoải mái mà. Đi bộ tốt cho mình.”
“Chúc buổi sáng tốt lành, ông Reddin!” cô Clomber nói bằng giọng dịu dàng nhất có thể.
“Chúc cho cái bóng của cô không bao giờ nhỏ đi!” gã đáp một cách khôi hài rồi cười phá lên khi phi ngựa qua chỗ cô ta.
“Giá mà cô ta chết quách đi trong khi sinh đứa bé thì tốt biết bao!” cô Clomber tức tối nghĩ.
Ở trên núi Edward và Hazel đang xem một tấm bản đồ để quyết định họ sẽ chuyển đến sống ở vùng nào trên đất nước. Cáo Nhỏ, con mèo chột, con thỏ ngồi quanh lò sưởi. Con chim già ở trong lồng hót ríu rít đầy vẻ hài lòng. Trên bệ cửa sổ những bông nghệ tây được cắm trong một chiếc bát đang phô ra những cánh trắng.
Nhưng giữa bầu không khí của tình yêu – buổi bình minh toại nguyện của Edward và tiếng cười của Hazel – bỗng vang lên tiếng gõ cửa gấp gáp. Edward đi ra cửa. Đứng trước cửa nhà họ là ông James, ông già có mái tóc rối bù, người đã cùng Abel lĩnh giải thưởng dành cho loại mật ong ngon nhất ở hội chợ hôm nào, hai người nông dân đến từ bên kia núi, anh trai của Martha và người đàn ông đeo vòng đỏ, người đã chiến thắng trong cuộc thi đua ngựa khi Reddin bỏ cuộc giữa chừng.
Họ hắng giọng.
“Các vị vào nhà chứ?” Edward hỏi.
Họ bước vào nhà, trông có vẻ rất bối rối.
Hazel cất tiếng chào họ.
“Người đàn bà trẻ này,” ông James nói, “có thể đi chỗ khác trong lúc chúng ta nói chuyện.”
“Em muốn đi hay ở lại, Hazel?”
“Em ở lại với anh, Ed’ard ạ.”
Trực giác mách bảo nàng rằng có điều gì đó đang đe doạ Edward.
Họ ngồi xuống, trông rất nghiêm trang. Cáo Nhỏ đã rút lui vào gầm bàn. Người đàn ông có mái tóc bù xù ngắm nghía con chim.
“Một con chim cảnh đẹp đấy,” ông ta nói. “Nó làm tôi nhớ đến con chim hoét tôi nuôi.”
“Thôi nào, thôi nào, Thomas! Vào việc đi!” ông James nói.
“Phải. Các vị có chuyện gì xin nói luôn đi.” Edward nói.
James bắt đầu nói.
“Mục sư ạ, chúng tôi đến đây, sáu người đàn ông kính sợ Chúa, và tôi là người phát ngôn, người trợ tế; chúng tôi hy vọng rằng Chúa sẽ phù hộ cho nỗ lực của chúng tôi. Và bây giờ, tôi nghĩ, chúng ta nên cầu nguyện một chút, được không nhỉ?”
“Tôi không nghĩ vậy.”
“Như ông muốn, mục sư ạ. Có những lúc người ta tránh cầu nguyện như người ốm không chịu uống thuốc.”
James có giọng nói vang rền, và giọng nói đó luôn lên bổng xuống trầm đầy ngữ điệu. Ông ta cũng thường nhấn giọng ở hầu hết mọi âm tiết.
“Chúng tôi mang đến cho ông thông điệp của Chúa, mục sư ạ. Tôi phát ngôn cho ngài.”
“Ông chắc chứ?”
“Chẳng phải Chúa trả lời mỗi chúng ta và trả lời riêng từng người bằng giọng vang vang trong những phiên gác đêm sao?”
“Phải! Chúa trả lời chúng ta! Đúng thế! Đúng thế đấy!” đám đông lẩm bẩm.
“Và những gì chúng tôi sắp nói,” ông James tiếp tục, “là kẻ thông dâm phải đi khỏi đây. Ông phải tống khứ cô ta khỏi đây một cách công khai ngay lập tức; và nếu cô ta công khai thú nhận tội lỗi của mình, thì sự ngay thẳng, đứng đắn sẽ thuộc về ông.”
Edward đi tới đứng trước mặt Hazel.
“Giá như,” James tiếp tục nói oang oang như tiếng kèn trumpet – “khi cô ta mắc tội cùng với ông Reddin, mắc tội lôi kéo một người đàn ông đáng kính trọng sa vào con đường tội lỗi, ông đã uốn nắn và trừng phạt cô ta – khiến cô ta phải đau khổ và ăn năn và giá như ông bàn bạc với chúng tôi thì...”
“Đúng đấy! Bàn bạc là khôn ngoan!” người nông dân có đôi mắt xảo quyệt nói.
“Thì,” ông James tiếp tục nói, “thì mọi chuyện đã êm xuôi. Nhưng bây giờ tội chết cũng đã là khoan dung lắm rồi.”
“Đúng, chết vĩnh viễn!” những kẻ ủng hộ lên tiếng.
“Và bây giờ,” – (Hazel nhận thấy ông James đeo cái vẻ mặt giống hệt vẻ mặt khi ông đút tiền thưởng vài túi ở hội chợ hôm nào) – “chỉ còn một cách cứu chữa. Cô ta phải đi cải tạo. Ở nơi cải tạo cô ta sẽ được rèn luyện. Cô ta sẽ bị làm cho phải ăn năn hối lỗi.”
Ông ta trông như thể muốn sẵn sàng thực hiện việc đó ngay lập tức.
Tất cả bọn họ rướn người về phía trước. Người đàn ông trẻ thấy thương cho Edward. Không ai trong số họ thương cho Hazel. Khi họ rướn người về phía trước, trông họ giống hệt những con chó săn.
“Sau đó thì sao” Edward hỏi, cơn run rẩy chạy dọc những dây thần kinh bên dưới da mặt chàng.
“Sau đó chúng tôi mong ông đưa ra tuyên bố trong một buổi giảng đạo, hoặc bằng bất cứ cách nào ông lựa chọn, rằng ông đã loại bỏ tội lỗi, rằng ông sẽ không bao giờ nói chuyện hoặc viết thư cho người đàn bà này nữa, và rằng ông sẽ hòa thuận với Chúa.”
“Sau đó thì sao?”
“Sau đó,” ông James đứng dậy, “chúng tôi sẽ tự hào đón nhận vị mục sư của mình trở lại bởi vì chúng tôi biết rằng chính sự lừa gạt của tuổi trẻ và sự xấu xa độc ác của một người đàn bà đã điều khiển ông.”
Cảm thấy rằng chừng ấy là chưa đủ để nhử Edward, người đàn ông có đôi mắt xảo quyệt nói:
“Và nếu như với sự sáng suốt của mình, Chúa thấy thích hợp để nhận cô ta về bên Ngài, thì, thưa ông, ông có thể chọn một người vợ trong giáo xứ của chúng ta.” (Ông ta đang nghĩ tới đứa con gái của mình). Ông ta thôi không nói thêm gì nữa.
Edward bắt đầu nói. Chàng nói nhỏ, nhưng không một người đàn ông nào trong phòng lại có thể quên những gì chàng nói, dù chỉ một từ.
“Những con vật nhỏ mọn bẩn thỉu!” chàng nói, nhưng sắc giọng chàng không toát lên vẻ chua cay mà chỉ thể hiện sự mệt mỏi tột cùng. “Tôi muốn bắn chết các người; nhưng các người thống trị thế giới – những vị thần bụng phệ. Không có Chúa nào khác cả. Lời gợi ý cuối cùng của các người (chàng nhìn bọn họ và nở nụ cười kì dị, ánh mắt chàng lạ lùng đến nỗi sau này ông già nuôi ong bình luận rằng ‘ánh mắt ấy nhìn vào tâm can người ta’) hoàn toàn xứng với câc người. Đối với các người sự thật rằng tình yêu không vị kỷ không thể cứu rỗi là chưa đủ. Sự thật rằng (khuôn mặt chàng run rẩy đau đớn) tình yêu được phép gây đau khổ cho người được yêu là chưa đủ; ắt hẳn các ngươi tới đây với đầu óc bẩn thỉu và những con mắt ‘để nhìn xác chết’. Các người chẳng biết gì hết – chẳng biết gì hết.”
“Chúng tôi biết sự thật.” James nói.
“Sự thật? Sự thật nào? Chỉ riêng sự ngu ngốc của ông cũng đáng để tôi lột trần ông mà dong qua cánh đồng bằng những nhát roi quất, ông James ạ.”
Một nụ cười mủm mỉm nở ra, James là một người đàn ông béo tốt. Ông ta co rúm người lại. Tuy nhiên sau đó những cảm giác sợ hãi ở ông ta tan đi.
“Nếu ông không tống khứ người đàn bà này đi, thì tôi sẽ báo lên Hội đồng Trưởng lão,” ông ta nói, cố gẳng lấy lại can đảm.
“Để làm gì?”
“Để đuổi việc ông.”
“Không cần đâu. Chúng tôi sẽ rời khỏi đây. Ông nghĩ tôi sẽ làm gì ở đây chứ? Không có Ngày của Chúa cũng chẳng có Nhà của Chúa, bởi vì làm gì có Chúa trên đời này. Vì Chúa hãy biến cái nhà thờ này thành chuồng bò đi!”
Những người đàn ông chớp chớp mắt. Họ không hiểu chàng muốn nói gì, bởi vì lời chàng nói giống như gió ở trên cao thổi lạnh buốt từ ngọn núi này đến ngọn núi khác mà không chạm tới đồng bằng. Họ bận rộn với những gì họ có thể nắm bắt được.
“Nếu ông đem người đàn bà đó đi cùng, thì ông sẽ bị nguyền rủa,” James nói. “Tôi nghĩ,” ông ta nói tiếp, và giọng ông ta, như sau này ông ta miêu tả với bà vợ một cách đầy tự mãn, “rất hiểm ác” – “Tôi nghĩ rằng ông không biết những điều mà mọi người đều nói, những điều mà trong cuộc gặp gỡ đầy sửng sốt này chúng tôi tin là sự thật, đúng không?”
“Tôi không biết và tôi không quan tâm.”
“Mọi người nói ông là kẻ đổ vỏ.”
“Ông muốn nói gì?”
James ngập ngừng một lát. Những ý nghĩ bẩn thỉu tràn ngập trong đầu ông ta, và để biến chúng thành những lời lẽ chuẩn mực thì quả là không dễ dàng gì.
“À! Người ta nói có một thỏa thuận giữa ông và ông ta – vì lợi ích của cô ta – (ông già nuôi ong cố làm cho James im lặng) – và những tờ ngân phiếu có chữ kí “John Reddin” đã được chuyển vào tài khoản ngân hàng của ông. Than ôi!”
Edward hiểu ra ý của ông ta một cách chậm chạp. Chàng ngồi xuống, đưa hai tay lên bưng mặt. Chàng sụp đổ, vì bản thân chàng bị xúc phạm thì ít mà vì chàng đã đặt Hazel vào tình thế bi thảm này thì nhiều. Chàng nghĩ lại tất cả những rắc rối và sai lầm của nàng, đổ lỗi cho tình yêu của chính chàng. Trong khi đấu tranh vì hạnh phúc của nàng, chàng đã gây cho nàng một vết thương chí mạng, và không một ai cảnh báo chàng về điều đó. Đó là lý do tại sao chàng tin chắc rằng trên đời này không có Chúa.
Mấy người đàn ông ngồi xung quanh chàng, chứng kiến kết quả hành động của mình với chút ân hận. Ông già nuôi ong hắng giọng vài lần.
“Tất nhiên,” ông ta nói, “chúng tôi biết chuyện đó không có thật, mục sư ạ. Ông James không nên nói ra chuyện đó.” Nói rồi ông ta nhìn James bằng đôi mắt màu nâu nhạt đầy thách thức.
Edward không nghe những gì ông ta nói. Hazel không hiểu James nói với Edward điều đó là có ý gì. Tại sao ông ta lại khiến Edward của nàng đau khổ như vậy? Tình yêu đã khiến nàng có được sự nhanh nhạy mà nàng vốn không sở hữu, và cuối cùng nàng đã hiểu ra. Chính một trong những lời lăng mạ đã chạm đến nàng, bởi vì nó tác động đến bản năng nguyên thủy của nàng. Bản năng số một của nàng là bản năng chạy trốn khỏi nguy hiểm. Nhưng còn Edward. Nàng quay lưng lại phía những đôi mắt của mấy người đàn ông đang ngồi thành nửa vòng tròn, và đặt bàn tay run rẩy của mình lên vai Edward. Chàng nắm lấy tay nàng.
“Em, hãy tha lỗi cho anh!” chàng thì thầm. “Giờ em hãy đi vào rừng đi; rừng không lạnh lùng như những con người này. Khi nào anh xong việc với họ chúng ta sẽ đi, đi khỏi cái địa ngục này.”
“Em không bận tâm đến họ,” Hazel nói. “Anh yêu, tại sao em lại phải bận tâm đến họ chứ?”
Rồi nàng nhận ra khuôn mặt Edward đã trở nên ướt đẫm, tím tái, và ngọn lửa phẫn nộ trước những gì đã làm người yêu của nàng đau đớn bùng lên trong nàng.
“Quỷ tha ma bắt các người đi!” nàng nói và đôi mắt to thâm quầng rưng rưng lệ của nàng lần lượt nhìn thẳng vào từng người. “Quỷ tha ma bắt các người đi vì đã hành hạ Edward của tôi, người đàn ông tốt nhất trên đất nước này – các ông không ai là người tốt cả, không tốt chút nào hết!”
Tại sao những kẻ tầm thường và thấp kém lại có được sức mạnh hành hạ những con người cao quý, câu hỏi đó cứ âm ỉ mãi trong đầu nàng.
“Người đàn ông tốt nhất ư!” James nói, tránh cái nhìn của nàng, như tất cả những người còn lại. “Một kẻ không tín ngưỡng!”
“Tôi đã trở thành một người không có tín ngưỡng!” Edward nói, “không phải vì tôi không xứng đáng với Chúa của các người, mà vì Chúa không xứng đáng với tôi, Hazel, hãy đợi anh ở bìa rừng.”
Hazel lặng lẽ rời khỏi phòng. Trong lúc bước đi, nàng nghe thấy chàng nói:
“Sự tốt đẹp của thế giới không dành cho người tốt. Nó dành cho đám điền chủ ngu dốt và mấy kẻ u mê như các người – lũ người tàn nhẫn và chai sạn. Chúa của các người thối rữa như xác chết, James ạ.”
Hazel đi qua ngôi mộ nơi nàng đã ngồi trong ngày cưới. Nàng đi qua cái cửa nhỏ nơi nàng và mẹ nàng đều đã đi qua khi họ làm lễ cưới, và đi xuống sườn núi gần mỏ đá để vào rừng. Đàn chim nhạn đã bay đi đâu mất. Nàng đi tới chỗ cây thủy tùng của Reddin ở bìa rừng và ngồi xuống bên gốc cây, nơi nàng có thể quan sát được cửa trước của ngôi nhà. Mặc dù có đôi tai thính như tai của loài chim, nàng bị lấn át bởi cái cảnh nàng vừa mới bỏ lại phía sau nên không nhận ra sự ồn ào ma quái đầy đe dọa và ngày càng tăng đang phát ra từ trong rừng, lúc đầu còn thưa thớt, càng về sau càng dồn dập. Thoạt đầu đó chỉ là những tiếng ì ầm như thể một con ác thú nào đó bị nhốt lại để đảm bảo an toàn cho thế giới, đang rên rỉ và vùng vẫy hòng thoát khỏi một cái hang ngầm bị vít kín. Nhưng khi tiếng ồn ấy trở nên gần hơn – và dường như con thú đó đã thoát ra khỏi nơi giam giữ với dã tâm của nó – gió không còn đủ sức mạnh để ngụy trang cho sự hung dữ của nó nữa, mặc dầu âm thanh nó phát ra vẫn nhỏ, vẫn chỉ thảng hoặc và rải rác. Nó cũng chưa có mục tiêu nào; nó chỉ hò hét bâng quơ tìm máu, chưa tìm thấy cốt tủy của con mồi. Tuy nhiên, khi Hazel phát hiện ra nó, một cơn ớn lạnh chạy dọc xương sống của nàng.
“Đàn chó săn!” nàng nói. Nàng nhìn qua những thân cây, nhưng không thấy gì bởi vì khu rừng rất dốc. Trong cơn sợ hãi nàng nhớ ra mình đã để Cáo Nhỏ ở trong phòng khách mà không xích nó lại. Liệu bọn họ có để nó chạy ra ngoài không?
Nàng chạy về nhà.
“Cáo Nhỏ có đây không?” nàng hỏi.
Edward ngước nhìn lên từ mớ sổ sách của nhà thờ. James đang cố hăm dọa chàng.
“Không. Anh tưởng nó đi với em.”
Hazel chạy ra phía sau nhà, nhưng Cáo Nhỏ không có ở đó. Nàng huýt sáo nhưng không thấy con vật cưng có khoang cổ màu trắng của nàng chạy ra từ một góc nào đó. Hazel chạy ngược lên đồi. Tiếng tù và rúc lên từng hồi đầy quỷ quyệt.
Nàng lại huýt sáo.
Reddin, xuất hiện từ trong rừng, cách xa đoàn đi săn, nghe thấy tiếng huýt sáo và nhìn thấy váy nàng bay trong gió ở phía xa trên đồi, liền hiểu chuyện gì đang xảy ra.
“Bực thật!” gã nói. Gã không quan tâm đến Cáo Nhỏ, và gã nghĩ tình cảm của Hazel dành cho Cáo Nhỏ thật ngớ ngẩn; nhưng gã hiểu rõ rằng nếu có chuyện gì xảy ra với Cáo Nhỏ, thì trong mắt Hazel gã sẽ là kẻ đáng trách. Giữa gã và Hazel là một loạt những vách đá. Gã sẽ phải đi vòng qua những vách đá đó để đến chỗ nàng. Gã thúc ngựa chạy nước kiệu, đánh liều với khả năng ngựa của gã có thể bị thụt chân xuống hang thỏ và vướng vào những dây kim ngân to giăng mắc từ cây này sang cây khác.
Hazel chạy tới chạy lui, cuống cuồng gọi Cáo Nhỏ.
Bỗng nhiên tiếng ồn, thứ âm thanh cáu kỉnh, thăm dò và hỗn loạn kia, bỗng thay đổi như tiếng của một chiếc đàn ống vang lên khi một ống đàn mới được kéo.
Đoàn chó săn đã phát hiện ra con mồi.
Nhưng mùi hơi dường như không nóng lắm. Hy vọng sống dậy trong Hazel.
“Đó là mùi hơi cũ từ hôm qua,” nàng nghĩ. “Có lẽ Cáo Nhỏ chưa tới đây?”
Nhìn thấy Reddin đang phóng ngựa bạt mạng, một mục sư có dáng người nhỏ thó (một mục sư được trả lương bằng đồng ghi nê vào những ngày Chủ nhật và là vị mục sư cuối cùng ở giáo xứ bên cạnh có thú vui đi săn vào những ngày cuối tuần) nghĩ rằng Reddin chắc hẳn đã phát hiện thấy con thú liền lớn tiếng chào gã. Ông ta cưỡi một con ngựa gầy giơ xương trông giống như một con khỉ.
Hazel không nhìn thấy ông ta, cũng chẳng nhìn thấy Reddin. Với trái tim yếu ớt nàng đã nhận ra rằng bầy chó săn không còn lần theo mùi cũ nữa. Chúng không chỉ nhằm vào một con vật sống, mà chúng đã tiến đến rất gần con vật đó. Và dù con vật sống đó là con vật nào thì nó cũng đang chạy ngược chiều gió chứ không phải xuôi chiều.
Với nỗi sợ hãi bóp nghẹt trái tim, Hazel biết đó là con vật nào. Nàng cũng biết rằng chính tính đãng trí của nàng đã mang đến nỗi kinh hoàng này. Cảm giác khiếp sợ xâm chiếm nàng khi nàng thấy bầy chó săn đến gần, nhưng nàng quyết không bỏ mặc Cáo Nhỏ.
Thế rồi, với sự vô lý đầy sợ hãi của một giấc mơ, Cáo Nhỏ lao ra khỏi rừng, chạy như bay đến với nàng, Lo lắng dâng đầy trong mắt nó. Nó sợ hãi. Nó mong đợi Hazel xoá bỏ điều khó chịu đang hành hạ nó, giống như bà Marston từng mong đợi Edward.
Và khi Hazel, với cái họng khô bỏng, thì thầm “Cáo Nhỏ!” rồi bế nó lên, những con chó săn đã tràn lên đồi như nước lũ. Cưỡi ngựa phóng theo bầy chó này, xuất hiện từ mọi phía của bìa rừng, là đám người đi săn. Màu đỏ tạc thành những cái bóng không thể xuyên thủng. Khi họ xuất hiện giữa khung cảnh u ám với những khuôn mặt nảy lửa, những chiếc áo khoác đỏ rực, những đôi mắt điên cuồng vì phấn khích và những cái miệng sâu hoắm mở to, họ trông giống như những con quỷ từ địa ngục chui lên trong một cuộc tàn sát. Cô Clomber với mái tóc buông xoã và vài lọn tóc quăn bị rứt đứt vì vướng vào những cành cây, là người đầu tiên, quyết định chứng kiến cảnh giết chóc.
Sự náo động khủng khiếp đến nỗi Edward và sáu người đàn ông đạo đức kia đổ ra ngoài xem có chuyện gì xảy ra. Tôn giáo và xã hội được xếp hàng cùng với sự trang nghiêm của Núi Nhỏ Của Chúa.
Hazel không nhìn thấy gì, chẳng nghe thấy gì. Nàng đang chạy với tất cả những dây thần kinh căng hết mức, toàn bộ tinh thần của nàng dồn xuống hai bàn chân. Nhưng nàng đã mất đi sự nhanh nhẹn của mình bởi vì đứa con của Reddin đã cướp đi của nàng nhiều sức lực. Cáo Nhỏ, trong nỗi sợ hãi đang dồn lại, cố vùng vẫy và điều đó càng cản trở nàng. Nàng chỉ cách mỏ đá nửa chặng đường, còn nhà của Edward thì xa gấp đôi.
“Mình không thể!” nàng kêu lên trong hơi thở hổn hển. Nàng cảm thấy như thể tim mình sắp nổ tung.
Một hình ảnh đầy máu và đau thương rực lên trong óc nàng. Một tiếng thét vang lên trong tai nàng – tiếng thét của linh hồn bị đày đọa. Hình ảnh nàng nhìn thấy trong đầu là Cáo Nhỏ, người bạn nhỏ dịu dàng của nàng, con vật đáng tôn kính, được chở che bởi lòng tốt, bị đôi tay của một tên thợ săn có khuôn mặt tím sẫm giơ lên trước bầy chó đang rít lên điên cuồng đòi cấu xé thân thể đang co giật của nó. Nàng biết đôi mắt Cáo Nhỏ trông như thế nào, và nàng suýt ngất đi vì điều đó. Nàng nhìn thấy con dao – nhìn thấy Cáo Nhỏ, người bạn đáng yêu và thú vị của nàng trong cuộc sống (một sinh vật sống), bị cắt ra làm đôi và bị ném cho bầy chó, và bị cắn xé thành nhiều mảnh. Nàng nghe thấy mình thét lên.
Đúng vậy: Cáo Nhỏ đang kêu khóc với nàng, như nàng đã kêu khóc với Thượng đế ngụ ở trong bóng tối. Còn nàng? Nàng sẽ làm gì? Nàng biết rằng nàng không thể sống nổi với tiếng kêu khóc đó vang vang trong đầu. Nàng ôm chặt cơ thể ấm nóng của Cáo Nhỏ vào lòng.
Mặc dù những ý nghĩ của nàng chỉ diễn ra trong chốc lát, nhưng trong khoảng thời gian đó cũng đủ để bầy chó săn tiến đến tìm.
Ở bên ngoài nhà thờ James nói:
“Chao ôi! Một cảnh tượng ngoạn mục! Chúng tôi sẽ xem họ săn bắn rồi kiểm tra sổ sách sau cũng được.”
Bọn họ thúc khuỷu tay trước mặt Edward. Nhưng chàng đã nhìn thấy cảnh tượng hãi hùng kia. Chàng chộp lấy chiếc mai để ở gần cổng và gạt James ra để lấy đường đi.
“Anh đến đây, em yêu!” chàng kêu to.
Nhưng nàng không nghe thấy tiếng gọi của chàng. Nàng cũng không nghe thấy Reddin, người giờ đây vẫn còn ở cách nàng một đoạn khá xa, và đang thúc ngựa chạy bạt mạng, giống như trong truyền thuyết về đàn chó săn ma, vừa chạy vừa kêu: “Tôi đến đây! Đưa nó cho tôi!” Nàng cũng không nghe thấy tiếng ông mục sư của giáo xứ lân cận gọi oang oang bằng giọng mũi: “Thả con vật xuống đi! Bọn chó sẽ làm cô ngã đấy!” trong khi cây thánh giá bằng vàng to tướng lóc xóc trên bụng ông ta. Cái chết mà Cáo Nhỏ phải chết, trừ phi nàng có thể cứu nó, nhấn chìm mọi cảnh tượng khác, mọi âm thanh khác.
Nàng ngoái đầu nhìn lại phía sau. Bầy chó săn tràn tới như nước lũ không thể nào ngăn cản nổi và những con vật màu trắng, màu đen đã ở rất gần nàng. Phía sau chúng là những con quỷ đang gào thét.
Đó chính là đàn chó săn ma.
Không còn hi vọng. Nàng không bao giờ đến được ngôi nhà của Edward nữa. Vùng đất xanh tươi hiện ra sừng sững trước mặt nàng giống như đường dẫn lên chỗ Chúa Jesus bị đóng đinh câu rút.
Các thành viên của đoàn đi săn, ông chủ và những tay thợ săn của ông ta, rất chậm hiểu. Vả lại, họ đang ở vào thế bất lợi, cuộc săn đuổi này không bình thường – ngược chiều gió và trên một quả đồi dốc. Họ không thể điều khiển bầy chó dừng lại đúng lúc. Edward là người duy nhất đủ gần để cứu nàng. Nếu lúc ấy nàng nhìn thấy chàng và nếu như nàng sinh ra là để dành cho chàng, thì rất có thể chàng đã làm được điều gì đó.
Nhưng nàng chỉ nhìn thấy đàn chó săn ma; và khi Reddin lại kêu lên, khi gã đã ở rất gần nàng rồi, đang định kéo nàng lên ngựa, thì nàng bất ngờ quay đầu lại. Nàng nghĩ rằng đó là Kẻ Đi Săn Độc Ác. Bật ra tiếng thét khủng khiếp đến mức khiến bàn tay cầm dây cương của Reddin nhũn ra, nàng chạy nhanh gấp đôi về phía mỏ đá.
Mấy con chim nhạn lúc trước còn chơi đùa ở đó, mà giờ sự náo động đã khiến chúng chạy trốn đi chỗ khác.
Cùng lúc, đoàn thợ săn, mấy người đàn ông ra vẻ đạo đức, Reddin-Kẻ Phá Hủy, và Edward-Người Cứu Rỗi, cùng nhìn thấy nàng, nhỏ bé và mờ nhạt, lảo đảo trước bầu trời lồng lộng. Rồi, khi cả bầy chó săn, với sự đắc thắng đầy hung ác, lao vào nàng, nàng biến mất.
Nàng cùng với Cáo Nhỏ đã biến mất trong sự im lặng vĩnh hằng. Nàng sẽ không còn mút mật ngọt từ những bông hoa đỏ mọng nữa, không còn nhảy múa như một chiếc lá trong gió nữa. Trong những đêm sau đó Abel ngồi làm một chiếc quan tài nhỏ để rồi lão có vô khối những mảnh gỗ thừa để làm thùng ong.
Sự im lặng bao trùm khắp Núi Nhỏ Của Chúa.
Tiếng gào thét khủng khiếp, nhức nhối, chất chứa nỗi kinh hoàng khôn tả - tiếng gào thét của một con người đã hóa điên vì đau khổ - vang lên, bóp nghẹt trái tim của mọi người đàn ông, mọi người đàn bà. Ngay cả những con chó săn đang nổi giận ở trên rìa mỏ đá cũng co rúm mình, dựng đứng lông.
Tiếng gào thét đó dội vào vòm trời lạnh lẽo, vọng trở lại trái đất lạnh lẽo mà không có một giọng nói nào đáp lại. Vị mục sư có dáng người nhỏ thó nghe tiếng gào thét đó liền buông rơi cuốn sách cầu nguyện ở trên tay.
Một lần nữa tiếng gào thét ấy lại vang lên, và trước sự lặp lại kinh hoàng này, mấy người đàn ông ra vẻ đạo đức và đám thợ săn thôi không còn là người thuộc bất cứ tầng lớp, thời đại hay tín ngưỡng nào nữa, mà trở thành những sinh vật bị thống trị bởi một cảm giác thuộc bản năng - cảm giác sợ hãi. Họ co rúm người lại và rùng mình như những con chó bị cắn khi tiếng gào thét một lần nữa lại khuấy lên những tiếng vọng run rẩy:
"Về với đất rồi! Về với đất rồi!"