Thấy trong điện chỉ còn sáu người bọn họ, Vương hoàng hậu mới từ từ hỏi: “Hoàng Tử Hà, ý ngươi là có người vu vạ cho Quỳ vương, nói y và Trần thái phi loạn luân ư?”
“Thưa vâng. Ngạc vương và Quỳ vương xưa nay rất thân thiết, muốn bày kế ly gián, thực khó vô cùng. Nhưng nếu khéo lợi dụng tình cảm thân thiết ấy, có thể giáng cho Quỳ vương một đòn trí mạng, tổn thương sâu sắc. Hung thủ tính toán đủ đường, biết rõ Ngạc vương yếu đuối nhạy cảm, yêu nhất là mẫu phi, chẳng ngại làm nhục cả Trần thái phi quá cố, khiến Ngạc vương căm hận tận xương, đặt cược tất cả để báo thù Quỳ vương! “ Nói tới đây, giọng Hoàng Tử Hà cũng run lên đầy căm phẫn, “Trước lúc gieo mình xuống gác Tường Loan, một trong những điều Ngạc Vương tố cáo Quỳ Vương là 'náo loạn triều cương', bấy giờ nô tài đã ngạc nhiên, giờ nghĩ lại... thì ra tất cả đều có căn nguyên của nó.”
“Hoang đường...” Giọng hoàng đế khản đặc, lại thêm phần âm trầm đứt quãng vì khí suy lực kiệt, “Dưới gầm trời này, kẻ nào to gan dám làm nhục thái phi? Lại có kẻ nào dám... đối xử với Thất đệ của trẫm như thế? Thất đệ... từ nhỏ trầm tĩnh thông tuệ, việc gì cũng suy xét kỹ càng, sao có thể bị người ta xúi giục ly gián, nhẹ dạ cả tin như thế?”
“Thưa vâng, người Ngạc vương yêu thương nhất là mẫu phi của mình; còn kính trọng nhất, trừ bệ hạ ra, hẳn là Quỳ vương. Còn vì sao vương gia lại sinh lòng nghi ngờ hai người mình yêu kính nhất, nô tài nghĩ là vì cái này.” Hoàng Tử Hà mở bình sứ đeo bên mình ra, chìa cho mọi người xem: “Chắc hẳn Vương công công biết rõ thứ này nhất.”
Trong bình sứ chính là hai con cá đã thối rữa, nhỏ như con muỗi, trông rất ghê tởm.
Vương Tông Thực nhìn xác hai con cá trong bình, chợt lộ ra vẻ cảm thương, gương mặt vốn trơ trơ lạnh lùng cuối cùng cũng xuất hiện vài biểu cả sinh động: “Hoàng Tử Hà, ta không thể không bội phục ngươi, hai con cá nhỏ như thế mà ngươi cũng tìm ra được.”
“Đây là Tử Hà giải phẫu thi thể cha con họ Trương, rửa sạch nội tạng, mãi mới tìm được trong cửa hầu của họ. “Hoàng Tử Hà bình thản đáp: “Hai con cá giống hệt, tìm thấy trong cửa hầu hai người với tình huống chết giống hệt. Người chết trước lúc lâm chung đều thay đổi hẳn tính tình, vốn dĩ ôn hòa thuần hậu lại trở nên cực đoan dị thường, trước khi Trương Hàng Anh chết đã tố cáo tôi nối giáo cho giặc, muốn thay trăm họ diện trừ; Trương lão bá sau khi con trai chết thì trèo lên thành lâu, gieo rắc tin đồn Quỳ vương mưu phản, tình cảnh này chẳng phải giống hệt Ngạc vương điện hạ ư?”
Vương hoàng hậu không dám tin vào tai mình nữa, tuy ra sức trấn tĩnh nhưng hàng trâm mành mành trên đầu đã hơi run rẩy: “Ý ngươi là Ngạc vương cũng bị người ta đưa cá vào cơ thể ư?”
“Không sai, chính vì con A Già Thập Niết này mà Ngạc vương điên cuồng, tự vẫn chết, trước lúc lâm chung còn vu cáo Quỳ vương!”
Hoàng hậu phẩy tay áo cười nhạt: “Hoang đường! Người thiên hạ ai chẳng biết Ngạc vương chết trong tay Quỳ vương. Trước lúc lâm chung còn chính miệng tố cáo Quỳ vương giết mình, Vương công công và hơn trăm quân Thần sách đều chính tai nghe thấy, tận mắt chứng kiến, giờ ngươi lại nói là vương gia tự vẫn, ai mà tin được?”
“Nô tài không nói suông, trong tay nô tài có chứng cứ.” Hoàng Tử Hà rút trong rương ra một bộ hồ sơ nghiệm thi, hai tay giơ lên, “Sau khi Ngạc vương từ trần, Đại Lý Tự và Tông Chính Tự đã mời Chu Tử Tần tới khám nghiệm, hiện giờ hồ sơ đã niêm phong, chứng cứ xác thực. Nhưng trong tay tôi là bản sao, bên trên viết rõ vết thương trước ngực Ngạc vương xéo từ bên phải xuống dưới, tức là tương ứng với chếch xéo từ bên trái của người khám nghiệm. Cũng tức là, nếu Ngạc vương không tự vẫn, thì hung thủ chỉ có thể là người thuận tay trái.” Sắc mặt Vương hoàng hậu càng thêm khó coi, chẳng nói lời nào.
“Nhưng người trong triều ai cũng biết, mấy năm trước khi dẹp loạn Bàng Huân, Quỳ vương bị ám sát, hiện giờ tay trái chỉ làm được những việc bình thường hằng ngày, tay thường dùng vẫn là tay phải. Muốn giết người phải dùng lực mạnh, nhắm thật chuẩn, tay trái của Quỳ vương đâu thể giết người được nữa.”
Vương hoàng hậu cứng họng, đành hậm hực phất tay áo, ngồi phịch xuống, không buồn nhìn cô.
Hoàng Tử Hà nhìn Vương Tông Thực: “Còn về A Già Thập Niết, Vương công công đây chính là chuyên gia, bí mật của A Già Thập Niết cũng là công công tiết lộ cho tôi. Tử Hà bất tài, kiến thức nông cạn, xin công công giải thích rõ chuyện này cho mọi người cùng nghe thì hơn.”
Vương Tông Thực cười nhạt, vốn định làm thinh không đáp, nhưng lại nghe Lý Thư Bạch nói: “Mời Vương công công giải thích”, y do dự hồi lâu, cuối cùng đành hậm hực mở miệng: “Hoàng tiểu thư nói như vậy chưa đúng, trứng A Già Thập Niết nhỏ như hạt bụi, sau khi nuốt vào sẽ bám trong cổ họng, rồi từ từ nở ra. Cá con sau khi nở rất nhỏ, có thể chui vào cửa hầu hút máu người, không sống được bao lâu sẽ chết trong cơ thể, thối rữa tan biến. Nhưng cá con có độc, sau khi chết chất độc có thể theo máu vào não, khiến vật chủ tẩu hỏa nhập ma, trở nên cực đoan cố chấp, chỉ cần trong lòng có nghi ngờ sẽ bị khuếch đại thành oán niệm điên cuồng, đến chết mới thôi.”
Hoàng Tử Hà gật đầu: “Muốn khiến người ta nuốt phải cá con thì rất khó, nhưng trứng cá nhỏ như hạt bụi thì dễ hơn nhiều. Hơn nữa trứng cá muốn nở cần có thời gian, chắn hẳn khi Quỳ vương đến thăm, Ngạc vương đã bị trứng cá ký sinh rồi. Đồng thời hung thủ còn thác lời Trần thái phi điên loạn, để lại dấu móng tay khắc trên chiếc bàn trong phòng, ám chỉ cái chết của thái phi có liên quan tới việc Quỳ vương mưu đoạt thiên hạ, sau đó thừa cơ Ngạc vương phát cuồng vì độc A Già Thập Niết và những tin đồ vô căn cứ, bèn gửi đoản kiếm và dải đồng tâm đến, vậy nên, dù Ngạc vương đóng cửa ở nhà, kẻ đó cũng vẫn đoán đúng thời điểm, gửi cho Ngạc vương ám hiệu cuối cùng!”
Vương hoàng hậu gắng trấn tĩnh, nghiêng người đỡ lấy hoàng đế, thấy ngài ngự mặt mày tái nhợt, thân thể lạnh ngắt, bèn sẽ giọng hỏi: “Bệ hạ thấy thế nào? Có cần về nghỉ ngơi không?” Hoàng đế ánh mắt mông lung, nắm chặt tay hoàng hậu định nói gì đó nhưng không thốt nổi nên lời, mấp máy môi hồi lâu mới thều thào đáp: “Không... trẫm vẫn... muốn nghe...”
Ánh mắt Lý Thư Bạch chậm rãi dừng lại ở đế hậu, giọng nói vẫn sang sảng lạnh lùng như mọi khi: “Vương công công hẳn biết, hôm tiên hoàng băng hà, bản vương từng tìm thấy một con A Già Thập Niết trong vũng máu tiên hoàng khạc ra.”
Vương Tông Thực hơi nhếch môi như cười, nhưng cuối cùng vẫn thong dong đút tay vào tay áo: “Đúng vậy, lâu nay vương gia vẫn giữ con A Già Thập Niết ấy bên mình. Có điều gia không biết cách nuôi, khiến lão nô mỗi lần trông thấy lại thầm tiếc nuối.”
Lý Thư Bạch chẳng buồn đáp lời y, chỉ kể tiếp: “Năm xưa lúc tiên hoàng băng hà, các hoàng tử chúng ta đều quỳ ở bên ngoài, song Vương công công cũng là người hầu cận tiên hoàng, chẳng những được vào điện mà còn triệu tập tăng nhân pháp sư các nơi vào kinh, lại rất ưng ý Mộc Thiện đại sư thông thạo thuật nhiếp hồn, dẫn ông ta vào điện cầu phúc cho tiên hoàng đúng không?”
Vương Tông Thực gật đầu. Sự thật đã vậy, y cũng chẳng chối cãi.
“Cha Trương Hàng Anh năm xưa vào cung chẩn trị cho tiên hoàng đã châm cứu giúp tiên hoàng tỉnh lại một chốc. Nhưng sau khi phụ hoàng tỉnh lại, công công lại không cho các hoàng tử vào bái kiến, cũng không cho triều thần đến nghe dặn dò, mà chỉ gọi riêng Mộc Thiện đại sư vào. Bấy giờ trong điện xảy ra chuyện gì, khắp thiên hạ hiện nay chỉ mình Vương công công biết mà thôi.”
Nghe y nói vậy, Vương Tông Thực nhếch môi cười nhạt: “Còn có thể xảy ra chuyện gì được chứ, tiên hoàng tỉnh lại, biết Trương Vĩ Ích đã cứu tỉnh mình, bèn đòi bút giấy. Lão nô cứ ngỡ tiên hoàng định để lại di chiếu nên lấy giấy gai vàng đến, nào ngờ bệ hạ chỉ cầm bút vẽ lung tung trên giấy thành ba mảng mực đen rồi cưỡi rồng về trời. Lão nô và Trần thái phi đoán rằng tiên đế muốn ban tranh cho Trương Vĩ Ích, liền sai người đưa đi. Giờ bức họa đó chắc đang ở trong tay Trương Vĩ Ích.”
Hoàng Tử Hà lại lên tiếng hỏi: “Công công có dám khẳng định là tiên đế chỉ để lại một bức họa không?”
“Ba mảng mực đen, chẳng có đầu đuôi gì cả, ta cũng không hiểu là gì. Nhưng quả thật tiên đế nói là ban cho Trương Vĩ Ích, bấy giờ Trần thái phi đêm ngày hầu hạ tiên đế cũng ở đó, chính thái phi đã sai người đưa đi. Từ ấy về sau, ta không thấy bức tranh nọ nữa.” Vương Tông Thực lạnh lùng thuật lại.
Hoàng Tử Hà nhìn thẳng vào mắt y, chậm rãi hỏi: “Công công cho rằng giấy trắng mực đen, mọi sự đã rồi, sự thật bị mực đen vùi lấp sẽ không bao giờ hé lộ nên mới ung dung như thế, phải không?” Nói đến đây, Lý Thư Bạch bỗng nghiêng đầu nhìn ra ngoài điện, như vừa nghe được tiếng gì đó, nhưng có lẽ là nghe lầm, nên y lại quay đầu lại.
Vương Uẩn vốn phụng mệnh giám sát Quỳ vương không rời một khắc, nhưng lúc này nghe Hoàng Tử Hà phân tích vụ án, ánh dương ban sớm len qua khung cửa chiếu lên mình cô, bộ áo xanh đen cùng chiếc mũ đen càng khiến làn da trắng muốt ngời lên như ngọc dưới nắng. Y nhất thời ngơ ngẩn, quên cả Lý Thư Bạch, chỉ mải nghe cô nói.
Bên kia, Vương Tông Thực ngẩng đầu hờ hững đáp: “Cái gì là sự thật bị mực đen vùi lấp? Sự thật chính là thế này, ngươi cần gì phải nhiều lời?”
“Nhưng Vương công công hẳn cũng biết, dị vực có sách chép rằng, nước cải bó xôi hòa với a phù dung, cỏ thiên hương, v.v... bôi lên giấy, có thể bóc tách lớp mực phía trên, để lộ nội dung bên dưới.” Nói rồi Hoàng Tử Hà lại cúi xuống rút trong rương một cuộn giấy, trải ra trước gương mặt đanh lại của Vương Tông Thực.
Nét chữ rành rành trên nền giấy gai vàng, ngay hoàng đế nãy giờ mệt mỏi dựa vào người Vương hoàng hậu cũng trợn trừng mắt, hơi thở dồn dập hẳn lên.
Chữ trên giấy chia làm ba đoạn, có phần đứt quãng vì người viết đã yếu lắm, cổ tay run rẩy rũ xuống. Nhưng mấy hàng chữ nguệch ngoạc yếu ớt ấy vẫn rành rành:
Vẫn biết mệnh trời, nay nên lui ẩn.
Quỳ vương! Trẫm yêu dấu chẳng rời gang tấc, dĩnh ngộ tựa Thái Tông, nay đem non sông xã tắc giao phó.
Vương hãy về giúp rập lâu dài.
Hoàng đế sắc!
Vương Tông Thực tái mặt, vẻ lạnh lùng ngạo nghễ thường ngày thoắt chốc biến mất, loạng choạng lùi lại một bước. Vương Uẩn đứng phía sau ngỡ ngàng nhìn mảnh giấy gai vàng cũ kỹ, y hiểu rõ nội dung, chỉ là rúng động quá đỗi, không biết làm sao mà thôi.
Vương hoàng hậu đứng phắt dậy, rồi lại ngồi thụp xuống, nửa ôm nửa đỡ lấy hoàng đế, lồng ngực phập phồng dữ dội mà không thốt nổi tiếng nào.
Hoàng Tử Hà đến trước bệ rồng, giơ bức ngự bút tiên đến lên cho hoàng đế xem, thong thả nói: “Xin phép để Tử Hà trình bày suy đoán về những việc xảy ra trong đêm tiên hoàng qua đời. Để đưa bệ hạ lên ngôi, Vương công công đã dốc hết tâm sức, chuẩn bị hai nước cờ. Một là A Già Thập Niết, hai là Mộc Thiện đại sư. Trong lúc hầu hạ tiên hoàng uống thuốc, Vương công công đã lén để tiên hoàng uống thuốc, Vương công công đã lén để tiên hoàng nuốt trứng A Già Thập Niết vào, rồi tính chuẩn thời gian trứng nở, cho Trương Vĩ Ích châm cứu để tiên hoàng hôn mê nhiều ngày tỉnh dậy, sai Mộc Thiện đại sư thôi miên chỉ đạo tiên hoàng lập di chiếu truyền ngôi cho Vận vương. Ngờ đâu tiên hoàng bệnh nặng nôn ra máu, con cá nhỏ cũng bị khạc ra theo, nên chưa kịp phát huy công hiệu. Việc đã rồi, Mộc Thiện đại sư dường như cũng chỉ có thể khống chế tâm trí Trần Thái Phi để bí mật không bị tiết lộ mà thôi, chẳng rõ Tử Hà đoán như vậy có đúng không?”
Trong điện Hàm Nguyên, trên dưới bệ rồng đều lặng phắc như tờ.
Hoàng đế và Vương Tông Thực nghiến răng không nói, chẳng thừa nhận cũng chẳng phản bác.
Vạch trần một bí mật lớn như vậy khiến Hoàng Tử Hà cũng choáng váng bải hoải cả người, tưởng như trông thấy đao búa bổ xuống mình. Song cô lại hít sâu một hơi, ép mình gắng gượng nói tiếp: “Nhưng chiếu thư, di ngôn cùng đại thần gửi gắm con côi mà tiên đế để lại, rốt cuộc đều vô dụng. Sau khi tiên đế băng hà, di chiếu bị hủy, thái phi bị ép phát điên, đại thần Vương Quy Trường được tiên đế phó thác con côi bị giết, đế vị bị đoạt. Đến giờ bệ hạ lại ban cho rượu độc, định đoạt luôn cả tư cách sống trên đời của Quỳ vương!”
Hoàng đế trừng trừng nhìn bức thủ bút cũ kỹ của tiên đế, cơ thịt trên mặt rần rật, sắc mặt xám ngoét, khiến gương mặt trở nên cực kỳ đáng sợ. Một lúc lâu sau, ngài ngự mới nhắm mắt, ngả người ra sập cười khẽ: “Vương Tông Thực, trẫm đã bảo rồi, xé hay đốt quách đi, ai... ai dám truy cứu thủ bút tiên hoàng trước lúc lâm chung ở đâu chứ? Hoặc là, cho nhà họ Trương một mồi lửa... đốt quách thư của nợ này đi là xong... ngươi cứ khăng khăng nói nó vẫn còn tác dụng, không chịu ra tay!”
“Thần không dám tin... Không thể có chuyện này được!” Vương Tông Thực gầm lên, “Trên đời lấy đâu ra cách bóc tách hai lớp mực bên trên, khôi phục nét chữ phía dưới chứ?”
“Vương công công, thế gian rộng lớn chẳng gì không có, công công quá tự tin và kiến thức của mình rồi.” Hoàng Tử Hà thở dài, “Có điều Trần thái phi cũng thực đáng thương, đêm ấy hầu hạ tiên đế trong điện, ắt biết được việc này, nên đã bị Mộc Thiện đại sư dùng thuật nhiếp hồn, trước là ra mặt ban di chiếu cho Trương Vĩ Ích, sau lại phát điên phát cuồng, cả đời chỉ tỉnh táo lại một chốc lát để cảnh báo Ngạc vương. Ai ngờ lại phản tác dụng!”
“Bà ta còn tỉnh lại cơ à?” Vương Tông Thực mỉm cười thê thảm, “Bà ta đã làm gì?”
Hoàng Tử Hà hít sâu một hơi, chậm rãi cuộn tờ giấy gai vàng lại: “Thái phi để lại cho Ngạc vương một bức tranh, rất giống di chiếu sau khi bị bôi xóa. Có lẽ đó là cảnh tượng khắc sâu nhất trong tâm trí bà ấy trước khi phát điên. Tuy điên dại nhưng bà ấy vẫn nhớ đến di chiếu nên cho rằng Quỳ vương sẽ tranh đoạt hoàng vị, bởi vậy mới nhắc nhở Ngạc vương tránh xa Quỳ vương, sợ Ngạc vương bị cuốn vào vòng tranh đấu trong triều. Nào ngờ Ngạc vương lại coi đó là mẫu phi tố cáo Quỳ vương, thêm vào đó, bản thân Ngạc vương cũng từng yêu một người con gái lớn tuổi hơn, dẫn tới nghi kỵ và oán hận Quỳ vương. Sau khi phát điên, Ngạc vương chỉ chăm chăm xoáy vào điểm đó, bất chấp những chi tiết vô lý bên trong, đến chết cũng không chịu hiểu ra.”
Hoàng đế trỏ vào cuộn giấy trong tay cô, họng khản đặc, nói không ra tiếng: “Sao? Giờ ngươi mang di chiếu tiên đế từ mười mấy năm trước đến đây, định làm cái gì? Thiên hạ giờ đã là của trẫm, chẳng lẽ... Tứ đệ tưởng mình còn có thể khơi lên sóng to gió lớn ư?”
“Thần đệ nào có cầu mong gì, chẳng qua bệ hạ lúc nào cũng đề phòng thần đệ đấy thôi.” Lý Thư Bạch hiên ngang đứng dưới thềm, ngẩn đầu hờ hững đáp: “Từ sau khi thần đệ dẹp loạn Từ Châu, bệ hạ vừa muốn dựa vào thần đệ áp chế Vương công công, lại sợ thần đệ hai lòng, chẳng nề bày ra vô số mánh lới quỷ dị xung quanh thần đệ, thực là vô ích.”
Hoàng đế chỉ cười nhạt, vịn vào Vương hoàng hậu chậm rãi ngồi dậy, dựa sập không nói.
“Bệ hạ cài người bên cạnh thần đệ, theo dõi nhất cử nhất động thì cũng được thôi, vì sao còn ban lá bùa quái dị kia, khiến thần đẹ lúc nào cũng nơm nớp sợ hãi, không thể sống yên?”
Hoàng đế lạnh lùng nhếch môi, vẻ mặt vừa như cười vừa như hận: “Sao trẫm lại nghe nói... đó là hóa thân hồn ma Bàng Huân muốn tìm đệ báo thù?”
Lý Thư Bạch chăm chú nhìn ngài ngự, giọng trầm mà chậm rãi: “Bệ hạ trăm phương ngàn kế sai người bên cạnh thần đệ thay đổi lá bùa, hẳn là chờ đến lúc này, biến thần đệ thành ác quỷ trong mắt mọi người rồi điều khiển Ngạc vương vạch mặt đệ, chính tay giết chết cả hai huynh đệ chúng thần?”
“Không! Trẫm... không hề muốn giết các ngươi.” Giọng hoàng đế khản đặc như tiếng gỗ mục bị chẻ đôi, “Từ nhỏ, người trẫm ghen ghét nhất đồng thời cũng ngưỡng mộ nhất, chính là ngươi. Thư Bạch... Ngươi thông minh, đáng yêu, lại được phụ hoàng sủng ái. Mười tuổi trẫm đã bị đẩy đến phủ Vận vương chật hẹp, còn ngươi... lớn như vậy mà phụ hoàng vẫn không nỡ cho xuất cung, mỗi lần trẫm vào cung, thấy ngươi ngồi trong lòng phụ hoàng, quay về đều khóc nức nở...”
Cơ thịt trên mặt rồng rần rật, thân hình co lại, tựa hồ vẫn còn là đứa bé chỉ chực khóc òa lên. Vương hoàng hậu vội vuốt lưng ngài ngự, sẽ sàng an ủi: “Bệ hạ đừng quá kích động, thả lòng một chút đi.”
“Vậy mà cuối cùng trẫm vẫn ngồi lên ngai vàng, một là vì đã cưới con gái họ Vương, hai là... trẫm có vẻ nhu nhược vô dụng, dễ điều khiển hơn ngươi nhiều... phải không? Vương công công?” Ánh mắt hoàng đế trừng trừng nhìn Vương Tông Thực, giọng khàn khàn.
Vương Tông Thực đứng yên bất động, cằm bạnh ra. Hồi lâu, y mới khom mình thi lễ: “Bệ hạ cả nghĩ rồi.” “Hừ...” Hoàng đế chẳng buồn để tâm, chỉ lầm bầm tiếp, “Phụ hoàng trước lúc lâm chung vốn định truyền ngôi cho ngươi, nên sau khi trẫm lên ngôi, đáng ra phải giết ngay ngươi mới phải... Nhưng, nhưng trẫm có xuống tay không?”
“Không hề! Trẫm chỉ muốn thấy ngươi mục nát cả đời trong phủ Quỳ, để vong linh phụ hoàng trên trời thấy được, đứa con mà ông ấy đặt bao kỳ vọng phải quỳ dưới chân trẫm suốt đời, uất ức khiếp nhược suốt đời... Ha ha ha...” Hoàng đế phá lên cười thê thảm, rồi thở hổn hển, cuối cùng không thốt ra được tiếng nào nữa, chỉ rên hừ hừ trong họng.
Hoàng Tử Hà lặng lẽ nhìn Lý Thư Bạch, thấy y mím chặt môi, chằm chằm nhìn hoàng đế phía trên.
“Trẫm còn nhớ, lúc Bàng Huân nổi loạn, các tiết độ sứ không nghe lệnh, ngươi lại dâng thư xin thay trẫm đi chinh phạt. Được thôi... Để trẫm xem ngươi làm cách nào điều khiển bầy lang sói rồi chết thảm! Cứ ngỡ ngươi sẽ bỏ mạng sa trường, không ngờ ngươi lại quay về... Những tháng ngày vinh quang của ngươi bắt đầu từ đấy, cũng từ đấy, hoàng thất Đại Đường có một luồng gió mới. Ngay Vương Tông Thực cũng bắt đầu kiêng dè ngươi, khuyên trẫm phải mau mau giải quyết ngươi... Nhưng trẫm không làm! Trẫm nghĩ mình đã nắm được cơ hội ngàn năm có một để ngồi xem hai hổ đấu nhau, xem hai người tranh đấu sống chết, như vậy trẫm có thể ngư ông đắc lợi...” Vương Tông Thực lạnh lùng nhìn Lý Thư Bạch.
Vương hoàng hậu ôm lấy cánh tay run bần bật của hoàng đế, khẽ nài nỉ: “Bệ hạ đừng quá kích động, để thần thiếp đỡ người vào nội điện nghỉ ngơi một lát được không...”
Hoàng đế vung tay toan hất hoàng hậu ra, song cánh tay đã mềm oặt, làm sao hất nổi. Đành hổn hển lẩm bẩm: “Nhưng trẫm không định giết ngươi... Trẫm chỉ muốn lá bùa kia khiến ngươi kinh hoàng sợ hãi, hy vọng có một thứ gì đó giúp trẫm khống chế được ngươi... Tứ đệ... nếu ngươi cũng như những kẻ khác, tin vận mệnh, tin quỷ thần, thậm chí sợ hãi xin trẫm giúp đỡ, có phải mọi chuyện đã ổn không?”
Lý Thư Bạch nhìn thẳng vào cặp mắt đã mờ đục thất thần đang trừng trừng hướng về mình, từ từ cung tay hành lễ với hoàng đế, thong dong đáp: “Bệ hạ thứ tội, thần đệ đời này không hề tin quỷ thần.”
“Ngươi, cả ả Hoàng Tử Hà kia nữa, các ngươi chứng kiến từng điềm báo lần lượt thành sự thật, mà vẫn không tin...” Cánh tay yếu ớt rũ xuống sập, hoàng đế ra sức siết chặt nắm tay, nhưng sức đã kiệt nên không sao khum được năm ngón tay lại, đành phẫn uất nhìn chằm chằm hai người họ, giọng nói mơ hồ đến gần như không nghe rõ nổi: “Tứ đệ, nếu ngươi đừng quật cường như thế... nếu chịu cúi đầu tin vào vận mạng... thì trẫm và ngươi đâu đến nỗi phải đi đến tình cảnh hôm nay?”
“Vậy còn Thất đệ thì sao?” Lý Thư Bạch chậm rãi hỏi, “Thất đệ xưa nay một lòng kính yêu bệ hạ, đệ ấy cản trở gì mà bệ hạ không tiếc thí mạng để đối phó thần đệ?”
“Trẫm không muốn thí Thất đệ!” Giọng hoàng đế rung rẩy, muốn thét lên mà không có sức, đành rặn từ lồng ngực ra từng câu từng tiếng vỡ vụn: “Là Thất đệ năm lần bảy lượt... xin với trẫm, muốn bỏ lại tất cả, đến Võng Xuyên gia trang của Vương Ma Cật đóng cửa tu hành... Trẫm sao có thể bằng lòng được? Thất đệ... là vương gia, dù có tu hành, cũng phải... ở trong vương phủ...”
“Là lão nô khuyên bệ hạ chấp nhận thỉnh cầu của Ngạc vương.” Thấy ngài ngự không còn sức nói tiếp, Vương Tông Thực hờ hững tiếp lời, “Bấy giờ bệ hạ không khỏe, đang canh cánh lo không biết phải xử trí Quỳ vương điện hạ ra sao. Hai lần hành thích ở Thục không thành, trái lại còn khiến Kỳ Lạc quận chúa mất mạng, đủ thấy Quỳ vương điện hạ rất khó giải quyết. Thế nên trước khi vương gia về kinh, chúng ta đã cho Ngạc vương uống trứng cá. Rồi bày ra đủ thứ cạm bẫy, cuối cùng mới khiến Ngạc vương sinh lòng căm phẫn, nhận lời vạch trần vương gia trước mặt mọi người, kể ra cũng thực không dễ.”
Đến đây, tất cả đều đã được phơi bày. Lý Thư Bạch thở hắt ra một hơi dài, nhìn ánh nắng xiên xiên xuyên qua cửa sổ chạm hoa, phân rõ hai phần tối tăm và sáng sủa trong điện.
Họ đứng dưới ánh nắng nhàn nhạt, còn đế hậu lại ngồi trong góc tối tăm nhất. Đèn lửa trong điện đã nối nhau tàn lụi, không còn tia sáng nào hắt lên mình đế hậu, khiến gương mặt hai người cũng mờ hẳn đi.