--- ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------ ------
Những sự kiện lớn lao của ngày hôm trước cùng những ấn tượng ban đêm khiến Xtas và Nen mệt đến nỗi, khi đã thiếp đi, cả hai ngủ một giấc say như chết, mãi đến gần trưa hôm sau cô bé mới tỉnh giấc bước ra khỏi lều: Xtas bật dậy sớm hơn một chút trên tấm đệm trải gần đống lửa, và trong khi chờ đợi cô bạn nhỏ, em bảo Ca-li chuẩn bị bữa ăn sáng, bữa ăn vì quá muộn nên đồng thời cũng là bữa trưa.
Ánh sáng chói lọi ban ngày xua tan những nỗi hãi hùng của đêm, cả hai tỉnh dậy không những chỉ được nghỉ ngơi mà còn được củng cố tinh thần. Nen trông khá hơn và cảm thấy người khỏe hơn, và vì cả hai đều muốn đi càng xa chỗ bọn Xu-đan bị bắn chết càng tốt, nên ngay sau khi ăn, cả bọn lên ngựa tiến về phía trước.
Vào giờ này, tất cả những người bộ hành trên đất Phi châu đều dừng lại nghỉ trưa, thậm chí cả những đoàn chỉ gồm toàn người da đen cũng phải nấp dưới bóng các cây to, vì đó là những “giờ trắng” - tức là giờ nóng bức và im ắng - như người ta thường gọi.
Trong những giờ đó, mặt trời thiêu đốt không thương tiếc, và từ trời cao chòng chọc dòm xuống, dường như xoi mói tìm người để giết vậy. Mọi loài thú đều lẩn vào những bụi cây lớn nhất, tiếng chim hót ngừng hẳn, tiếng côn trùng nỉ non cũng vắng bặt, toàn thể thiên nhiên chìm trong im lặng nín hơi lại, dường như muốn ẩn náu thật kín trước cặp mắt của lão trời già dữ tợn. Còn bọn trẻ thì vẫn đi theo khe núi, trong đó, một vách đã ngả bóng mát che kín, nên chúng có thể đi như thế lên phía trước mà không bị cháy nắng. Xtas không muốn rời khe núi dễ tìm thấy nước uống tại các hõm đá lớn, còn ở những nơi lộ thiên, nước bị ngấm vào đất, hoặc bị ánh nắng mặt trời biến thành hơi.
Con đường liên tục dẫn lên cao - mặc dù không nhiều lắm.
Trên vách đá ở nhiều chỗ, có thể trông thấy những vệt lưu huỳnh màu vàng. Nước trong các khe đá cũng nhiễm mùi lưu huỳnh, khiến hai trẻ nhớ lại Om-đu-a-man với các tin đồ của Ma-hơ-đi dùng mỡ trộn với lưu huỳnh để bôi lên đầu. Ngược lại, tại một số chỗ khác lại thoảng mùi mèo xạ, còn những nơi dây leo nhiều tầng rủ xuống từ các rạn đá cao lại ngào ngạt mùi hương va-ni thơm ngát.
Các vị khách bộ hành tí hon rất sẵn lòng dừng chân trong bóng mát của những bức rèm che điểm hoa đỏ thắm và hồng lam ấy; cùng với các loại lá cây, chúng cung cấp thức ăn cho ngựa.
Không thấy bóng dáng một loài vật nào, chỉ thỉnh thoảng, trên các đỉnh đá mới có những con khỉ ngồi chồm chỗm, trên nền trời trông chúng giống như những vị thần linh ngoại đạo huyền thoại mà ở Ấn Độ người ta thường trang trí riềm của các thánh đường. Những con đực, đầu bù xù những lông, nhe răng ra với Xa-ba hoặc chúm môi lại thành hình tròn vo biểu lộ sự kinh ngạc và tức giận đồng thời nhảy nhót không yên, vừa hấp háy mắt vừa gãi sườn. Còn Xa-ba, đã quá quen với hình bóng thường xuyên của chúng, hoàn toàn chẳng thèm để ý tới những điều đe dọa ấy.
Bọn trẻ đi hăng hái. Niềm vui giành lại được tự do trút khỏi lồng ngực Xtas cơn ác mộng thường vẫn khiến em nghẹt thở đêm đêm. Giờ gây, em chỉ nghĩ xem phải làm gì nữa, phải làm gì để đưa Nen và bản thân ra khỏi địa phận, trong đó chúng bị đe dọa phải quay trở lại kiếp sống nô lệ trong tay bọn phiến loạn, làm sao để có thể xoay trở trong chuyến đi dài ngày vượt qua vùng rừng thẳm khỏi bị chết đói chết khát, và sau nữa: đi đâu bây giờ? Nhờ ông Ha-tim, em biết rằng từ Pha-sô-đa đến biên giới A-bi-xi-ni-a tính theo đường thẳng thì không quá năm ngày đường, và em tính rằng khoảng cách đó dài khoảng một trăm dặm Anh(1). Kể từ ngày khởi hành khỏi Pha-sô-đa đến giờ đã gần hai tuần lễ trôi qua, nên hẳn là các em đã không đi theo đường thẳng, mà vì đi tìm Xmai-nơ, chúng đã phải vòng nhiều về phía Nam. Em nhớ lại rằng, ngày đi đường thứ sáu, các em vượt qua một con sông không phải sông Nin, rồi sau đó trước khi miền đất bắt đầu đi lên cao dần, chúng đi ngang qua gần một vùng lầy lội rộng lớn nào đó. Trong trường học ở Port Xai-đơ, người ta dạy địa lí châu Phi rất kĩ, và trong trí nhớ Xtas còn đọng lại cái địa danh Ba-lo-rơ, tên của vùng ngập nước thuộc một con sông ít người biết tên là Xốp-bat, đổ vào sông Nin. Tuy em không hoàn toàn chắc chắn là đã ngang qua chính vùng ngập nước nọ, nhưng em cho rằng có lẽ là như thế. Em nghĩ rằng, muốn bắt nô lệ thì Xmai-nơ không thể tìm ở phía Đông Pha-sô-đa, vì vùng đó đã hoàn toàn bị cạn người bởi quân phiến loạn và dịch đậu mùa, hắn phải tiến về phía Nam, trong vùng cho tới nay chưa có cuộc càn người nào hết. Từ đó, Xtas rút ra kết luận là đoàn em đi theo vết của Xmai-nơ và thoạt đầu ý nghĩ ấy khiến cho em bàng hoàng hoảng sợ.
Em bắt đầu cân nhắc xem có nên bỏ khe núi hay không (bởi khe núi mỗi lúc một vòng về phía Nam) để tiến thẳng về phía Đông. Song sau một lúc suy nghĩ em bỏ ý định đó. Phải, theo em, việc đi theo dấu vết bè lũ Xmai-nơ (nhưng cách chúng chừng hai ba ngày đường) là an toàn nhất, bởi lẽ Xmai-nơ không khi nào lại mang món hàng người đó quay trở lại theo con đường quanh co đã đi mà không hướng thẳng tới sông Nin. Xtas cũng hiểu rằng chỉ có thể tới được A-bi-xi-ni=a từ phía Nam, về phía ấy đất nước này tiếp giáp với rừng hoang, chứ không phải từ biên giới phía Đông, nơi đang bị quân phiến loạn canh phòng nghiêm ngặt.
Suy nghĩ như vậy, em quyết định sẽ đi thật xa về phía Nam.
Rất có thể về phía ấy sẽ chạm trán với người da đen, những người từ bờ sông Nin chạy trốn đến, hoặc là những người bản xứ. Nhưng giữa hai cái dở thì Xtas thà chọn phải đương đầu với người da đen hơn là với các tín đồ của Ma-hơ-đi. Thêm vào đó, em cũng tính đến chuyện nếu gặp những người chạy trốn, hoặc cư dân bản xứ, thì Ca-li và Mê-a sẽ có thể là những người trợ thủ đắc lực. Chỉ cần nhìn thoáng qua cô thiếu nữ da đen cũng có thể đoán được cô thuộc về bộ lạc Đin-ca hoặc Sin-lúc, vì cô có cặp chân rất dài và rất mảnh mai, đôi chân đặc thù cho các bộ lạc này, những bộ lạc sinh sống dọc hai bờ sông Nin và lặn lội như cò sếu trong những vùng ngập nước của dòng sông. Ngược lại, Ca-li mặc dù dưới tay Ghe-bơ-rơ đã trở nên giống như một bộ xương - lại có vóc dáng hoàn toàn khác. Thân hình chắc nịch và lực lưỡng, hai cánh tay khỏe mạnh, còn hai bàn chân thì lại nhỏ so với chân Mê-a.
Vì nó hoàn toàn không nói được tiếng Ả Rập, còn tiếng kix-va-hi-li - thứ tiếng gần như có thể dùng để nói chuyện với toàn bộ Phi châu, thứ tiếng mà Xtas đã học được chút ít nhờ những người Dan-di-ba lao động ở vùng kênh đào - thì nó nói rất kém, nên hẳn là quê nó ở một vùng xa xôi nào đó.
Xtas quyết định tìm hiểu xem nó thuộc địa phương nào.
- Ca-li này, dân tộc của cậu là gì? - Em hỏi.
- Va-hi-ma. - Cậu bé da đen đáp.
- Dân tộc đó có lớn không?
- Dân tộc vĩ đại lắm, đánh nhau với những người Xam-bu-ru xấu bụng và lấy trâu bò của chúng(2).
- Làng của cậu ở đâu?
- Xa, xa lắm!... Ca-li không biết ở đâu.
- Ở đó có giống như vùng này không?
- Không. Ở đó có con nước lớn và nhiều núi lắm.
- Các cậu gọi tên con nước ấy là gì?
- Chúng tôi gọi là “con nước Đen”.
Xtas nghĩ thầm rằng có thể cậu bé quê ở vùng sông An-be Ni-an-da, cho tới nay vẫn nằm trong tay pa-sa E-min, nên muốn kiểm tra xem có đúng thế không, bèn hỏi tiếp:
- Ở vùng đó có phải có thủ lĩnh da trắng, người có những cá i thuyền nhả khói đen và nhiều quân lính hay không?
- Không đâu. Người già ở chỗ chúng tôi nói rằng đã trông thấy người da trắng (nói tới đây Ca-li xòe các ngón tay ra đếm), một, hai,. ba lần!... Đúng thế! Có ba người mặc những cái áo dài trắng. Họ đi tìm ngà... Ca-li không được trông thấy họ, vì chưa có trên đời, nhưng cha Ca-li đã tiếp họ và cho họ nhiều ngà lắm.
- Cha của cậu là ai?
- Là vua của người Va-hi-ma.
Điều này khiến Xtas khoái chí, vì như thế cậu ta có người hầu vốn là một hoàng tử.
- Cậu có muốn gặp cha không?
- Ca-li muốn gặp mẹ.
- Cậu sẽ làm gì khi gặp người Va-hi-ma, và họ sẽ làm gì?
- Người Va-hi-ma sẽ phục xuống lạy Ca-li.
- Thế thì cậu hãy dẫn chúng tớ tới chỗ họ, cậu sẽ ở lại với họ và sẽ trị vì kế vị vua cha, còn chúng tớ sẽ tiếp tục đi thẳng tới biển.
- Ca-li không biết đường đi tới chỗ họ và sẽ không ở lại với họ, vì Ca-li yêu mến ông lớn và con gái của mặt trăng.
Xtas vui vẻ quay lại nói với cô bạn:
- Nen, em được phong là con gái của mặt trăng rồi đấy.
Song nhìn thấy cô bé, em lại buồn xỉu đi, vì em chợt nghĩ rằng, với khuôn mặt tái nhợt và gần như trong suốt của mình, cô bé gầy gò này quả thực có vẻ là một sinh linh từ mặt trăng xuống hơn là người trần thế.
Cậu bé da đen im lặng một lúc rồi nhắc lại:
- Ca-li yêu bvana kubva, vì bvana kubva không giết Ca-li, chỉ giết Ghe-bơ-rơ, lại cho Ca-li ăn nhiều nhiều.
Và bắt đầu vừa xoa xoa bộ ngực, nó vừa lặp lại với vẻ khoái chí lộ rõ trên mặt.
- Nhiều thịt, nhiều nhiều thịt!
Xtas còn muốn biết thêm tại sao cậu bé lại trở thành nô lệ của bọn phiến loạn, nhưng hóa ra, kể từ cái đêm người ta tóm được nó trong cái hố đào dành cho những người mắc bệnh sốt rét, nó đã qua không biết bao nhiêu tay chủ, đến nỗi không thể nào luận ra nổi từ câu chuyện kể của nó xem nó đã phải lang thang qua những nước nào và người ta đã đưa nó qua những chặng đường nào để tới tận Pha-sô-đa. Xtas chỉ lưu ý tới những điều nó nói về “con nước Đen”, bởi vì nếu nó gốc người vùng A-be Ni-an-da, An-be Et-vac Ni-an-da hoặc Victoria Ni-an-da, những vùng thuộc các quốc gia U-ni-ô-rô và U-gan-đa, thì chắc hẳn nó phải nghe nói tới Pa-sa E-min, tới quân đội và các tàu chiến của ông ta, những chiếc tàu chiến làm cho người da đen kinh ngạc và sợ hãi. Tan-ga-nai-ca thì quá xa, nên chỉ còn có giả thuyết rằng dân tộc của Ca-li cư trú ở đâu đó gần hơn. Vì lẽ đó, việc gặp gỡ người Va-hi-ma không phải hoàn toàn là chuyện không thể xảy ra.
Sau mấy giờ đường, mặt trời bắt đầu hạ xuống thấp. Cái nóng giảm đi đáng kể. Bọn trẻ đến được một lòng thung rộng rãi, có nước và hơn chục cây vả dại, chúng bèn dừng lại cho ngựa nghỉ và lấy thêm dự trữ. Vì nơi đây vách đá đã thấp hơn trước, Xtas bảo Ca-li leo lên cao để xem thử chung quanh đây có vết khói nào hay không.
Ca-li thực hiện ngay mệnh lệnh, và trong chớp mắt nó đã leo lên đỉnh vách đá. Sau khi ngắm nhìn kĩ tứ phía nó tuột xuống theo một thân dây leo to tướng và nói rằng không thấy vết khói, nhưng lại thấy có nyama (thịt). Dễ đoán ra rằng nó không nói về loài chim pen-tác-ca mà muốn nói tới loài thú nào đó to hơn, vì nó trỏ vào khẩu súng của Xtas rồi lại đặt hai ngón tay lên đầu ra dấu rằng đấy là súc vật có sừng.
Đến lượt Xtas trèo lên cao, thận trọng nhô đầu lên khỏi đỉnh vách đá, quan sát khu vực trước mắt. Không có vật gì chắn tầm nhìn xa của em, vì rừng rậm cây cao trước kia đã bị cháy, còn rừng non mọc lên từ mặt đất màu tro xám thì mới chỉ cao được vài phân. Nhìn hút tầm mắt chỉ thấy có vài cây gỗ lớn mọc thưa thớt, với những cái thân ám khói. Dưới bóng một trong những cây như thế có một đàn linh dương gơ-nu đang gặm cỏ, loài linh dương này có thân mình giống như ngựa, còn đầu lại giống trâu. Mặt trời chiếu qua những chiếc lá bao báp rải những vệt nắng nhảy nhót linh động trên những cái bờm màu nâu của chúng. Có chín con cả thảy.
Khoảng cách không quá một trăm bước chân, nhưng vì gió đang thổi từ phía chúng vào khe núi nên chúng vẫn gặm cỏ bình thản, không hề ngờ tới nguy hiểm ở gần. Muốn cung cấp thịt cho cả đoàn, Xtas bắn hạ con vật đứng gần nhất, con vật ngã lăn ra đất như bị sét đánh. Những con còn lại chạy túa đi, cùng với chúng là một con trâu rừng đồ sộ mà trước đấy cậu bé không nhận ra, vì nó nằm khuất sau một tảng đá. Không phải vì cần thiết mà chẳng qua chỉ vì má u thợ săn, nên cậu bé nhân lúc con vật giơ sườn ra liền phóng cho nó một phát đạn. Sau tiếng nổ, con trâu loạng choạng rất dữ, kéo lê thân sau, nhưng vẫn chạy tiếp được, và trước khi Xtas kịp thay đạn, nó đã khuất sau những chỗ lồi lõm của địa hình.
Trước khi khói kịp tan hết, Ca-li ngự lên mình con linh dương và dùng lưỡi dao của Ghe-bơ-rơ phanh bụng nó ra. Muốn nhìn kĩ hơn con vật, Xtas tiến lại phía nó - và em kinh ngạc quá đỗi, vì ngay lúc đó, thằng bé da đen đưa cho em lá gan hãy đang còn bốc hơi nóng hổi của con linh dương trong hai bàn tay đẫm máu.
- Sao cậu lại đưa cho tớ? - cậu bé hỏi.
- Msuri, msuri! (Tốt, tốt!). Bvana kubva ăn ngay đi!
- Mày ăn thì có! - Xtas đáp, phẫn nộ vì lời đề nghị ấy.
Ca-li chẳng cần phải đợi nhắc tới lần thứ hai, ngay lập tức nó bắt đầu dùng răng rứt từ ng miếng gan tươi nuốt một cách thèm thuồng, và khi thấy Xtas đang nhìn nó với vẻ kinh tởm, nó liền nhắc đi nhắc lại giữa hai lần nuốt chửng: “Msuri! Msuri!” Nó chén như thế hết già nửa lá gan, sau đó bắt tay vào việc xẻ thịt con linh dương. Nó làm việc đó cực kì thành thạo và nhanh nhẹn, chẳng mấy chốc tấm da đã được lọc ra, các tảng thịt được tách ra khỏi lưng. Khi đó Xtas hơi ngạc nhiên, là tại sao Xa-ba không có mặt bên cạnh cái công việc này, liền huýt sáo miệng gọi nó tham gia bữa tiệc trọng thể gồm thân trước của con vật.
Song Xa-ba hoàn toàn không xuất hiện, ngược lại Ca-li đang cúi mình trên con linh dương lại ngẩng đầu lên nói:
- Con chó lớn chạy theo con trâu rồi.
- Cậu trông thấy à? - Xtas hỏi.
- Ca-li trông thấy.
Nói rồi, nó đặt tảng thịt thăn của con linh dương lên đầu, hai đùi mang trên hai tay, bước về khe núi. Xtas còn huýt sáo thêm vài lần nữa và chờ con chó, song thấy rằng làm chuyện đó chỉ vô ích, em cũng đi trở về theo sau thằng bé. Trong khe, Mê-a đang bận chặt cây gai làm hàng rào, còn Nen đang dùng những ngón tay nhỏ nhắn của mình vặt lông con chim pen-tác-ca cuối cùng.
- Anh huýt gió gọi Xa-ba đấy à? Nó chạy theo các anh à.
- Nó đuổi theo con trâu rừng mà anh bắn trúng, và anh đang rất lo đây. - Xtas đáp. - Đó là một loài vật rất hăng máu, và khỏe đến nỗi sư tử cũng không dám tấn công. Sẽ không lành đối với Xa-ba nếu nó đánh nhau với một đối thủ như thế.
Nghe thấy thế, Nen vô cùng lo lắng, cô bé nói rằng sẽ không đi ngủ, chừng nào Xa-ba chưa quay về. Nhìn thấy nỗi lo phiền của cô bé, Xtas đâm ra tự trách mình đã không biết giấu nỗi nguy hiểm đó và cố tìm cách an ủi Nen.
- Lẽ ra anh đã mang súng đi theo nó, - em nói, - nhưng chắc là cả hai đã đi rất xa, đêm lại sắp đến, sẽ không trông rõ vết đâu. Con trâu đã bị trọng thương, anh tin rằng nó sẽ gục thôi. Mà ít nhất nó cũng bị yếu đi nhiều vì mất máu, nếu nó có lao vào Xa-ba thì Xa-ba cũng còn kịp bỏ chạy... Phải! Có thể phải đến đêm nó mới quay trở về, nhưng thế nào nó cũng sẽ quay về.
Nói thế, song em không hoàn toàn tin vào những điều mình nói, vì em nhớ lại những điều đã đọc được về sự hăng máu vô cùng của giống trâu rừng Phi châu, ngay cả khi đã bị thương rồi, con vật có thể chạy đường vòng quay trở lại phục cạnh đường thợ săn đi, rồi bất ngờ tấn công, chọc sừng vào người anh ta và tung bổng lên không. Với Xa-ba cũng dễ dàng xảy ra chuyện như thế, chưa nói tới những mối nguy hiểm khác đang đe dọa con chó trên đường trở về trong đêm tối.
Chỉ một lát sau, màn đêm buông xuống. Ca-li và Mê-a làm hàng rào, đốt lên một đống lửa và lo bữa tối, Xa-ba vẫn chưa thấy về.
Nen mỗi lúc một thêm buồn phiền, và sau cùng bật khóc.
Xtas phải bắt buộc cô bé đi nằm và hứa sẽ thức chờ Xa-ba, rồi khi trời rạng sáng sẽ thân chinh đi tìm con chó dẫn về. Nen đành đi vào lều, nhưng chốc chốc lại ló đầu ra khỏi cửa lều hỏi xem con chó đã về chưa. Mãi đến quá nửa đêm, khi Mê-a bước ra thay cho Ca-li canh lửa, cô bé mới thiếp đi.
- Tại sao con gái của mặt trăng lại khóc? - Ca-li hỏi Xtas, khi cả hai ngả lưng xuống tấm vải phủ mông ngựa - Ca-li không muốn thế.
- Cô bé thương Xa-ba, con chó chắc là đã bị trâu giết rồi.
- Cũng có thể chưa bị giết chết đâu. - Cậu bé da đen nói.
Rồi cả hai im lặng, và Xtas ngủ thiếp đi, rất say. Song em thức dậy ngay khi trời hãy còn tối, vì cái lạnh bắt đầu hành hạ.
Lửa đã lụi. Mê-a, người có nhiệm vụ canh giữ lửa, đã ngủ quên, và một lúc nào đó đã không tiếp thêm cành khô vào đống lửa nữa.
Tấm đệm nơi Ca-li nằm trống rỗng. Xtas tự mình tiếp thêm củi rồi lay cô gái da đen và hỏi:
- Ca-li đâu rồi?
Cô bé nhìn em một lúc lâu chưa tỉnh hẳn, sau mới bảo:
- Ca-li lấy kiếm của Ghe-bơ-rơ đi ra ngoài hàng rào. Em nghĩ là nó muốn chặt thêm củi, nhưng sau đó nó không quay về.
- Nó đi đã lâu chưa?
- Lâu rồi.
Xtas chờ một lát, nhưng vẫn không thấy cậu bé da đen đâu, em vô tình tự hỏi thầm:
- Nó trốn rồi chăng?
Và trái tim em thắt lại bởi một cảm giác khó chịu, cảm giác mà sự vô ơn của con người thường gây ra. Chính em đã bênh vực và bảo vệ Ca-li khi suốt ngày tên Ghe-bơ-rơ hành hạ thằng bé, rồi sau đó cũng chính em đã cứu thằng bé thoát chết. Bao giờ Nen cũng tốt bụng đối với Ca-li và thường khóc thương cho sự bất hạnh của nó, cả hai đối xử với thằng bé thật hết lòng. Ấy thế mà nó lại bỏ trốn! Chính nó đã nói rằng nó không biết làng mạc của người Va-hi-ma nằm về phương nào, rằng nó không biết đường đi tới đó, thế mà nó vẫn bỏ trốn. Xtas chợt nhớ lại chuyện đọc hồi còn ở Port Xai-đơ về các cuộc hành trình ở Phi châu, cũng như chuyện kể của các lữ khách về sự ngu ngốc của người da đen, những kẻ ném cả hàng hóa và bỏ chạy ngay trong những trường hợp sự chạy trốn mang tới cho họ cái chết cầm chắc. Dĩ nhiên, chỉ với một thanh gươm Xu-đan của tên Ghe-bơ-rơ là thứ vũ khí duy nhất trong tay, Ca-li sẽ phải chết đói, hoặc trở thành một miếng mồi cho các loài dã thú, nếu như không rơi lại vào tay của bọn phiến loạn.
Ôi! Thằng vô ơn và ngốc nghếch!
Xtas bắt đầu suy nghĩ xem cuộc hành trình thiếu Ca-li sẽ khó khăn vất vả hơn bao nhiêu, còn công việc thì lại nặng nhọc hơn bao nhiêu. Cho ngựa uống nước và thả đi ăn buổi tối, căng lều, dựng hàng rào, cảnh giới khi đi đường để lương ăn và đồ đạc không bị rơi mất, lột da và xẻ thịt thú săn - tất cả những công việc ấy, thiếu chàng thiếu niên da đen, sẽ trút lên vai em, và tự trong thâm tâm em phải tự nhận rằng em không có khái niệm gì về một số công việc, thí dụ như việc xẻ thịt thú.
“Ha! Biết làm thế nào được? - Em tự nhủ. - Phải làm thôi!...” Lúc đó, mặt trời đã nhô lên từ sau đường chân trời và ngày bắt đầu ngay trong chớp mắt, như vẫn thường thấy ở vùng nhiệt đới. Một lúc sau, nước rửa mà Mê-a đã chuẩn bị ban đêm cho cô chủ bắt đầu reo lóc bóc dưới mái lều báo hiệu Nen đã dậy và đang mặc quần áo. Lát sau, cô bé bước ra, đã ăn mặc chỉnh tề nhưng hãy còn đang cầm lược trên tay và đầu tóc hãy còn bù xù.
- Xa-ba đâu? - Cô bé hỏi.
- Nó vẫn chưa về.Đôi môi của cô bé bắt đầu run run.
- Có thể nó sẽ về. - Xtas nói. - Em có nhớ là hồi qua sa mạc, đôi khi nó bỏ đi những hai ngày liền, nhưng sau đó bao giờ cũng theo kịp chúng ta chứ?
- Anh bảo là anh sẽ đi tìm nó cơ mà?...
- Anh không thể.
- Vì sao, anh Xtas?
- Vì anh không thể để một mình em với Mê-a ở lại trong khe núi.
- Còn Ca-li?
- Không có Ca-li.
Và em nín lặng, không biết có nên nói cho cô bé biết toàn bộ sự thật hay không. Song vì chuyện đó không thể giấu được, nên em nghĩ rằng tốt hơn hết là nói ngay lập tức.
- Ca-li lấy thanh kiếm của Ghe-bơ-rơ, - em nói, - và bỏ đi mất từ hồi đêm, không hiểu đi đâu. Ai biết được là nó có trốn đi hay không. Người da đen thường làm vậy đấy, nhiều khi để đánh đổi lấy cái chết. Anh tiếc cho nó... Nhưng rất có thể là nó sẽ hiểu rằng nó làm chuyện ngốc nghếch và...
Lời của cậu bé bị gián đoạn bởi tiếng sủa đầy mừng rỡ của Xa-ba, tiếng sủa tràn ngập trong khe núi. Nen vứt ngay cái lược xuống đất chạy ra đón, nhưng gai góc của hàng rào đã giữ cô bé lại.
Xtas vội vàng dỡ tung hàng rào, nhưng trước khi cậu kịp mở thông hẳn thì trước mắt cậu đã hiện ra trước tiên là Xa-ba, rồi sau đó là Ca-li, long lanh ướt đẫm sương như vừa qua một trận mưa to vậy.
Một niềm vui sướng to lớn tràn ngập trong lòng hai trẻ khi Ca-li mệt không kịp thở, vào được bên trong hàng rào, thì Nen đã dang hai vòng tay trắng muốt của mình ôm vòng lấy cái cổ màu đen và dùng hết sức siết chặt lấy nó.
Còn Ca-li thì nói:
- Ca-li không muốn thấy cô bé khóc, nên Ca-li đi tìm được con chó.
- Ca-li tốt quá! - Xtas vừa đáp vừa vỗ vỗ vào vai thằng bé. - Thế cậu không sợ gặp sư tử hay báo ban đêm hay sao?
- Ca-li sợ, nhưng Ca-li cứ đi, - cậu bé đáp lại.
Những lời này càng khiến cho trái tim bọn trẻ yêu mến nó hơn nữa. Theo lời yêu cầu của Nen, Xtas lấy trong bị ra một chuỗi cườm bằng thủy tinh mà ông lão Hy lạp Ca-li-ô-pu-li đã cung cấp cho bọn trẻ khi rời Om-đu-a-man và dùng nó trang điểm cho cái cổ của Ca-li, còn cậu bé da đen, sung sướng vì món quà tặng, rất tự hào nhìn Mê-a và nói:
- Mê-a không có chuỗi hạt cườm, còn Ca-li có, vì Ca-li là “đại thế giới”.
Như thế là sự quên mình của cậu bé da đen đã được tặng thưởng, còn Xa-ba thì lại bị mắng một trận nên thân, trong đó, lần thứ hai kể từ khi phục vụ cô chủ Nen, nó được biết rằng nó là một con chó rất xấu xí và nếu như lần sau nó còn làm một chuyện tương tự thế này thì nó sẽ bị buộc dây dắt đi như một chú chó con.
Vừa nghe những lời mắng mỏ đó, nó vừa ngoe nguẩy đuôi, khiến người ta có thể hiểu theo cách nào cũng được. Tuy nhiên. Nen khẳng định rằng, qua mắt nó, có thể thấy rõ là nó xấu hổ, và rõ ràng là nó đã đỏ mặt, có điều không thấy được vì người nó phủ đầy lông đó thôi.
Sau đó là bữa ăn sáng gồm có những quả vải dại ngon tuyệt và thịt linh dương. Trong bữa ăn sáng, Ca-li thuật lại chuyến phiêu lưu của mình. Xtas thì dịch câu chuyện từ tiếng Kix-va-hi-li mà Nen không hiểu sang tiếng Anh. Hóa ra con trâu còn chạy rất xa. Ca-li khó tìm thấy vết vì đêm qua không trăng. May thay hai hôm trước trời đổ mưa và mặt đất không rắn lắm, nên dấu chân của con vật bị thương in hằn sâu trong đất. Ca-li tìm theo dấu chân bằng cách lần mò bằng ngón chân của mình và đi mãi rất lâu. Mãi sau con trâu ngã xuống và hẳn là nó ngã xuống chết ngay, vì không hề có dấu vết gì nói lên có trận đấu giữa nó với Xa-ba. Khi Ca-li tìm thấy cả hai, Xa-ba đã xơi hết một phần chân trước của con trâu, và mặc dù không thể ăn thêm nữa, nó vẫn không cho phép hai con linh cẩu và mấy con lang núi tiến lại gần miếng mồi, bọn này đành đứng chầu rìa chung quanh, chờ cho con thú ăn thịt khỏe hơn này kết thúc bữa tiệc và bỏ đi.
Cậu bé than phiền rằng, con chó gầm gừ cả với nó nữa, nhưng nó dọa rằng “ông lớn” và cô bé sẽ giận, và nắm lấy cổ dề kéo con chó rời khỏi con trâu, về tới khe núi mới bỏ tay ra.
Câu chuyện về chuyến phiêu lưu ban đêm của Ca-li kết thúc tại đó, cả bọn vui vẻ lên lưng ngựa tiếp tục lên đường.
Chỉ riêng cô Mê-a chân dài, mặc dù lặng lẽ và nhẫn nhục, vẫn ghen tị ngắm nghía chuỗi vòng cổ của chàng da đen trẻ tuổi và buồn bã nghĩ thầm:
“Cả hai người là ”đại thế giới", còn mình chỉ có một cái vòng bằng đồng đeo ở mỗi một chân thôi!"
--- ------ ------
1 Mỗi dặm Anh (đường bộ) bằng 1609,344 mét.
2 Ca-li nói sai ngữ pháp hoàn toàn. Ở đây chúng tôi cố gắng diễn đạt sự thô sơ trong ngôn ngữ cậu bé trong chừng mực có thể (N.D)