Trong cảnh hỗn loạn của xe cứu thương, xe cảnh sát và người xem tới lui khi xác của gã thủ thư được mang ra khỏi con đường phía trước thư viện trường đại học, trong thoáng chốc cha đứng như chết lặng. Thật kinh khủng, không thể tưởng tượng được là cuộc đời của một con người, dù đáng ghét đến đâu, lại có thể kết thúc một cách đột ngột như vậy, nhưng mối quan tâm kế tiếp của cha là Helen. Đám đông nhanh chóng đông lên, cha chen lấn xô nơi này đẩy nơi kia để tìm cô ta. Và cha vô cùng nhẹ nhõm khi cô ta lại tìm được cha trước, đứng ở phía sau dùng bàn tay đeo găng vỗ lên vai cha. Cô ta trông tái xanh nhưng có vẻ như đã trấn tĩnh lại. Cô ta đã quàng lại chiếc khăn kín quanh cổ và cha lại rùng mình khi nhìn thấy nó trên chiếc cổ mềm mại ấy. “Tôi chờ thêm một lúc rồi mới chạy theo anh xuống cầu thang,” cô ta nói giữa tiếng ồn ào của đám đông. “Tôi muốn cám ơn anh vì đã đến giúp tôi. Hắn đúng là một kẻ thô bạo. Anh thật can đảm.”
Sau tất cả những chuyện ấy, cha ngạc nhiên khi nhìn thấy gương mặt cô ta có thể tử tế đến vậy. “Thực ra cô mới là người dũng cảm. Và hắn đã làm cô đau,” cha trầm giọng, nói và cố không làm ra vẻ không chú ý nhìn vào cổ cô ta. “Có phải hắn đã…?”
“Vâng,” cô ta bình tĩnh trả lời. Theo bản năng, cha và cô ta nhích lại gần nhau hơn để không ai nghe được cuộc chuyện trò của bọn ta. “Ở trên đó, hắn đã cắn vào cổ tôi khi lao vào tôi.” Trong một thoáng dường như đôi môi cô ta run run, tựa như gần bật khóc. “Hắn chưa hút được nhiều máu - không có thời gian. Và cũng chỉ hơi đau thôi.”
“Nhưng cô…” cha lắp bắp, không tin.
“Tôi không nghĩ sẽ bị nhiễm,” cô ta nói. “Vết thương chảy máu rất ít, và tôi đã cố gắng cầm lại.”
“Liệu chúng ta có nên đến bệnh viện?” Cha cảm thấy hối tiếc ngay khi vừa buông ra câu nói đó, chỉ vì ánh mắt tỏ vẻ chế nhạo mà cô ta ném vào cha. “Hay chúng ta có thể chữa trị theo cách nào đó?” Cha bán tín bán nghi tự hỏi liệu có thể hút chất độc này ra như khi xử lý một vết rắn cắn. Vẻ đau đớn trên khuôn mặt cô ta chợt khiến lòng cha quặn thắt. Nhưng rồi cha chợt nhớ đến việc cô ta đã phản bội, tiết lộ bí mật về tấm bản đồ. “Nhưng sao cô…?”
“Tôi biết những gì anh đang thắc mắc,” cô ta vội ngắt lời cha, giọng nhấn mạnh. “Nhưng tôi không còn thứ gì khác có thể dùng làm mồi nhử tên vô lại đó, và tôi muốn nhìn thấy phản ứng của hắn. Tôi đâu có đưa tấm bản đồ hay bất kỳ thông tin nào khác cho hắn. Tôi cam đoan với anh như vậy.”
Cha nghi ngờ nhìn cô ta chằm chằm. Nét mặt cô nghiêm trang, miệng trễ xuống, mím lại thành một đường cương quyết. “Cô chắc chứ?”
“Thề với anh đấy,” cô ta đáp lại giản dị. “Vả lại” - nụ cười mỉa mai của cô ta chợt cứu vãn nét mặt cau có - “tôi không hẳn là có thói quen chia sẻ những gì mình có thể sử dụng được, anh cũng vậy chứ?”
Cha đành cho qua chuyện đó, nhưng có nét gì đó trên gương mặt cô ta thật sự làm nỗi sợ hãi trong cha như lắng xuống. “Phản ứng của hắn quả thật rất đáng chú ý, đúng không?”
Cô ta gật đầu. “Hắn nói lẽ ra hắn phải được phép đi đến ngôi mộ kia, và rằng ông Rossi đã bị người nào đó bắt đưa đến đó. Việc này rất kỳ lạ, nhưng có vẻ như hắn biết gì đó về tung tích của cha… à không, của vị giáo sư hướng dẫn anh. Nói một cách chính xác, tôi không thể nào tin câu chuyện Dracula này, nhưng có lẽ có nhóm người kỳ bí nào đó đã bắt cóc giáo sư Rossi, đại loại là vậy.”
Đến lượt cha gật đầu, dù rõ ràng cha tin chuyện này hơn cô ta.
“Anh định làm gì bây giờ?” cô ta hỏi, vẻ thờ ơ kỳ lạ.
Cha chưa kịp suy nghĩ cặn kẽ thì câu trả lời đã buột ra. “Đến Istanbul. Tôi tin rằng ở đó có ít nhất một tài liệu mà thầy Rossi chưa bao giờ có cơ hội xem xét, và có thể trong đó có thông tin về một ngôi mộ, có lẽ là mộ của Dracula ở hồ Snagov.”
Cô ta bật cười. “Tại sao anh không làm một kỳ nghỉ nho nhỏ đến quê hương Rumani đáng yêu của tôi? Anh có thể đến lâu đài của Dracula với một chiếc thánh giá bạc trong tay, hoặc thân chinh viếng thăm hắn tại hồ Snagov. Tôi nghe nói đó là một nơi khá đẹp để cắm trại đấy.”
“Này,” cha nói, giọng bực bội. “Tôi biết toàn bộ việc này thật kỳ quặc, nhưng tôi buộc phải lần theo bất kỳ dấu vết nào có thể liên quan đến sự mất tích của thầy Rossi. Và cô cũng biết rất rõ là công dân Mỹ không thể cứ thế mà vượt qua Bức Màn Sắt để tìm người này kẻ nọ.” Cô ta không trả lời, có lẽ sự thẳng thắn của cha khiến cô cảm thấy hơi ngượng. “Tôi có vài điều muốn hỏi cô. Cô nói khi chúng ta rời nhà thờ là mẹ cô có thể có vài thông tin về cuộc săn tìm Dracula của thầy Rossi. Cô có ý gì khi nói vậy?”
“Tôi chỉ muốn nói khi họ gặp nhau, ông ta đã nói với mẹ tôi là ông ta đến Rumani để nghiên cứu huyền thoại về Dracula, và chính bà cũng tin vào huyền thoại này. Có thể bà biết nhiều về cuộc nghiên cứu của ông ta tại đó hơn là những gì tôi nghe bà kể lại - tôi không chắc lắm. Bà không dễ dàng nói về chuyện đó đâu, tôi đã theo đuổi mối quan tâm nhỏ bé này của ông cha già thân yêu của mình qua những nguồn thông tin có tính học thuật, chứ không phải từ bầu sữa gia đình. Lẽ ra tôi phải hỏi mẹ tôi nhiều hơn về những trải nghiệm của riêng bà.”
“Một sơ suất kỳ lạ đối với một nhà nhân học,” cha cáu kỉnh trả miếng. Bây giờ khi đã lại tin cô ta là đồng minh của mình, cha lại cảm thấy toàn bộ nỗi khó chịu khi được nhẹ nhõm. Gương mặt cô ta sáng lên, thích thú.
“Giỏi lắm, anh Sherlock ạ. Lần tới khi gặp mẹ, tôi sẽ hỏi hết tất cả mọi chuyện.”
“Khi nào cô sẽ về thăm bà?”
“Tôi nghĩ một hai năm nữa. Thị thực quý báu của tôi đâu có cho phép tôi dễ dàng nhảy tới nhảy lui giữa phương Đông với phương Tây.”
“Cô không điện thoại hoặc viết thư cho bà ấy bao giờ sao?”
Cô ta nhìn chòng chọc. “Ồ phương Tây quả thật là một nơi chốn ngây thơ,” cuối cùng cô thốt lên. “Anh nghĩ bà ấy có điện thoại à? Anh nghĩ là thư của tôi không khi nào bị mở ra đọc lén hay sao?”
Cha không trả lời, hối tiếc vì mình đã hỏi câu đó.
“Tài liệu mà anh háo hức muốn tìm là tài liệu gì, thám tử Sherlock?” cô ta hỏi. “Đó có phải là thư mục, cái gì đó về Giáo đoàn Rồng không? Tôi thấy nó được ghi ở trong danh sách cuối cùng trong mớ giấy tờ của ông Rossi. Đây là thứ duy nhất mà ông ta không mô tả đầy đủ. Đó có phải là cái anh muốn tìm không?”
Lẽ dĩ nhiên cô ta đã đoán đúng. Cha có cảm giác kỳ lạ về trí thông minh tuyệt vời của cô ta, và nuối tiếc khi thoáng tưởng tượng đến những cuộc nói chuyện giữa cô ta và cha nếu chúng diễn ra trong những điều kiện tốt đẹp hơn. Mặt khác, cha cũng không thích cách suy đoán của cô ta lắm. “Tại sao cô muốn biết?” cha hỏi ngược lại. “Vì công việc nghiên cứu của cô à?”
“Lẽ dĩ nhiên,” cô ta trả lời, vẻ nghiêm túc. “Anh sẽ liên lạc lại với tôi khi trở về chứ?”
Bất chợt, cha cảm thấy chán nản. “Trở về? Tôi còn không biết mình đang sắp lao vào cái gì, nói gì đến việc khi nào trở về. Có thể tôi sẽ bị ma cà rồng hạ gục ngay khi tới cái nơi mà tôi sắp đến, cho dù đó là nơi nào.”
Cha có ý muốn nói ra câu trên bằng một giọng mỉa mai, nhưng tính phi thực của toàn bộ tình huống lại bắt đầu nhen nhóm trong đầu lúc cha nói; cha ở đây, đang đứng trên lề đường phía trước thư viện như hàng trăm lần trước đó, ngoại trừ lần này cha đang bàn về chuyện ma cà rồng - như thể cha tin chúng có thực - với một nhà nhân học Rumani, và cả hai chúng ta đang nhìn tài xế xe cứu thương và cảnh sát tụ tập ở hiện trường tai nạn chết người, trong đó cha có liên quan, ít nhất là một cách gián tiếp. Cha cố không nhìn họ làm cái công việc ghê rợn đó và chợt nghĩ nên rời khỏi cái sân này ngay, nhưng không được tỏ ra vội vã. Cha không chịu được việc bị cảnh sát giữ lại ở thời điểm này, thậm chí chỉ trong vài giờ để thẩm vấn. Cha còn rất nhiều việc phải làm, và phải làm ngay tức khắc - cha cần xin thị thực để đến Thổ Nhĩ Kỳ, mà cái đó cha phải về New York mới xin cấp được, và một vé máy bay, ngoài ra cần phải để lại ở nhà bản sao của tất cả các thông tin, tài liệu mà cha có cho an toàn. Ơn Chúa, học kỳ này cha không có giờ dạy, nhưng dù sao cũng nên nêu ra vài lý do này nọ cáo lỗi với khoa của cha cũng như giải thích vài lời với ông bà nội để họ đừng lo lắng.
Cha quay sang Helen. “Cô Rossi,” cha nói. “Nếu cô giữ kín chuyện này thì tôi hứa sẽ liên lạc với cô ngay khi tôi trở về. Cô còn điều gì khác có thể cho tôi biết không? Cô có thể nghĩ ra cách gì để tôi có thể tiếp xúc với mẹ cô trước khi tôi lên đường không?”
“Tôi chỉ có thể tiếp xúc với bà qua thư từ,” cô ta trả lời dứt khoát. “Vả lại, bà ấy đâu biết tiếng Anh. Hai năm nữa khi về nhà, tôi sẽ đích thân hỏi bà về các vấn đề này.”
Cha thở dài. Hai năm là quá trễ, trễ đến không thể tưởng tượng được. Chưa gì cha đã cảm thấy bồn chồn lo lắng vì phải xa cách người bạn lạ lùng đã ở bên mình vài ngày - đúng hơn là chỉ vài giờ - này, người duy nhất ngoài cha biết gì đó về bản chất vụ mất tích của thầy Rossi. Sau đây cha sẽ phải đơn độc tại một đất nước mà thậm chí cha còn chẳng mấy khi nghĩ tới. Tuy nhiên cần phải làm việc này. Cha chìa tay ra. “Cô Rossi, cám ơn cô đã hợp tác trong vụ việc điên rồ vô bổ này trong vài ngày vừa qua. Chắc chắn tôi sẽ cho cô biết nếu tôi an toàn trở về - ý tôi là, biết đâu đấy - nếu tôi đưa được cha cô trở về an toàn…”
Cô ta làm một cử chỉ mơ hồ bằng bàn tay đeo găng, tựa như chẳng mấy quan tâm tới việc thầy Rossi trở về an toàn hay không, nhưng rồi cô ta đặt bàn tay vào tay cha, và chúng ta đã bắt tay tạm biệt nhau, một cách thân tình. Cha có cảm giác cái bắt tay siết chặt của cô ta là mối tiếp xúc cuối cùng của cha với thế giới thân thuộc của mình. “Tạm biệt,” cô ta nói. “Chúc anh gặp nhiều may mắn trong cuộc tìm kiếm của mình.” Cô ta quay lưng bước đi lẫn vào đám đông - tài xế xe cứu thương đã đóng cửa xe lại. Cha cũng quay đi, bước xuống các bậc cầu thang rồi băng qua sân. Cách thư viện khoảng ba mươi mét, cha dừng lại, ngoái lại nhìn, hy vọng thoáng thấy chiếc áo khoác đen của cô ấy giữa đám đông đang nhìn theo xe cứu thương. Cha ngạc nhiên khi thấy cô ta đang vội vã chạy về phía cha, gần như đã theo sát gót. Cô nhanh chóng bắt kịp cha, và cha nhận thấy hai má cô ấy ửng hồng. “Tôi đã nghĩ kỹ,” cô ấy nói, chợt ngừng lại. Có vẻ như cô ta đang thở hít vào thật sâu. “Việc này liên quan đến cuộc đời tôi hơn bất kỳ việc nào khác.” Cô ta nhìn thẳng vào cha, vẻ thách thức. “Tôi không hoàn toàn chắc chắn sẽ hành động như thế nào, nhưng tôi nghĩ tôi sẽ cùng đi với anh.”