Lần này không phải Barley mà là tôi ngủ gật. Lúc thức dậy, tôi nhận ra mình đang tựa vào người anh, đầu gục lên vai chiếc áo len dài tay kiểu hải quân của anh. Anh đang chăm chú nhìn qua cửa sổ, những lá thư của cha đã được xếp lại, cất vào các bì thư nằm gọn trên đùi đôi chân bắt tréo chữ ngũ của anh, gương mặt anh - không xa lắm phía bên trên gương mặt tôi - đang quay về phía những phong cảnh, tôi biết chắc lúc này đã là cảnh đồng quê nước Pháp, đang lướt qua. Tôi mở mắt và nhìn thấy chiếc cằm xương xương của anh. Khi nhìn xuống, tôi thấy hai tay Barley đan hờ vào nhau trên những lá thư. Lần đầu tiên tôi để ý anh có tật cắn móng tay giống như tôi. Tôi lại khép mắt, vờ ngủ tiếp, hơi ấm từ bờ vai anh thật dễ chịu. Nhưng rồi vì sợ anh không thích tôi tựa vào người như vậy, hoặc ngại sẽ nhỏ dãi lên chiếc áo len của anh trong lúc gà gật, nên tôi đã vội ngồi thẳng lại. Barley quay lại nhìn tôi, đôi mắt anh như đầy những suy tư xa xôi, hay có thể chỉ đầy ắp những cảnh đẹp đồng quê phía xa bên ngoài cửa sổ, lúc này là một khung cảnh đồng quê bình thường với các trang trại kiểu Pháp, không còn bằng phẳng nhưng vẫn đang lướt nhanh. Lát sau, anh mỉm cười.
“Khi nắp chiếc hộp chứa đựng tài liệu bí mật của Quốc vương Mehmed được giở lên, cái mùi mà cha đã biết rất rõ cũng theo đó lan tỏa. Đó là mùi của những tài liệu rất xưa cũ, của các trang giấy da dê hay da bê, của bụi bặm và hàng thế kỷ quá khứ, của những trang giấy mà theo dòng trôi dài dặc của thời gian đã bắt đầu bị hủy hoại. Đó cũng là mùi của cuốn sách nhỏ ấy, cuốn sách trống trơn không một dòng chữ và chỉ có hình con rồng ở giữa, cuốn sách của cha. Cha chưa bao giờ dám kê sát mũi vào nó, như thường lén làm với những cuốn sách cổ khác mà cha phải sử dụng - cha sợ, có lẽ thế, rằng có thể có một cái gì đó gớm ghiếc phảng phất trong cái mùi của nó, hoặc tệ hơn, một sức mạnh tiềm ẩn bên trong nó, một thứ độc dược mà cha không muốn hít phải.
“Turgut nhẹ nhàng nhấc các tài liệu ra khỏi hộp. Tài liệu nào cũng được gói lại trong loại giấy lụa đã ngả vàng, và chúng có hình dạng và kích cỡ khác nhau. Ông cẩn thận sắp chúng lên mặt bàn, trước mặt chúng ta. ‘Tôi sẽ đích thân cho các bạn xem mớ giấy tờ này và nói với các bạn những gì tôi biết về chúng,’ ông nói. ‘Sau đó, có lẽ các bạn sẽ muốn ngồi xuống để nghiền ngẫm, các bạn cũng nghĩ như vậy chứ?’ Phải, có lẽ cha và Helen cũng nghĩ như vậy - cha gật đầu, và ông ta tháo một cuộn giấy, cẩn thận trải ra dưới ánh nhìn chằm chằm của chúng ta. Đó là một dải giấy da được gắn vào hai trục gỗ nhỏ, khác hẳn với những trang giấy khổ lớn và các tập sổ cái được đóng gáy mà cha đã quen thuộc khi nghiên cứu về thế giới của Rembrandt. Hai mép dải giấy da được trang trí bằng những đường diềm sặc sỡ, mạ vàng hoặc xanh đậm hoặc đỏ sẫm. Cha cảm thấy thất vọng vì nó được viết bằng chữ Ả-rập. Cha không chắc mình mong đợi điều gì nữa: tài liệu này xuất xứ từ trung tâm của một đế quốc nói tiếng Thổ nhưng lại dùng chữ Ả-rập để viết, chỉ viện đến tiếng Hy Lạp để đàn áp người Byzantine, hay tiếng Latin để gây dông bão ở cổng thành Vienne.
“Turgut như hiểu được nét mặt của cha nên vội giải thích. ‘Các bạn ạ, đây là cuốn sổ cái báo cáo phí tổn của một cuộc chiến tranh với Giáo đoàn Rồng. Nó được một viên chức đang mua sắm cho Quốc vương tại một thành phố bên bờ Nam sông Danube ghi chép lại ngay tại đó - nói cách khác, đây là một báo cáo công tác. Các bạn có thể nhận ra là vào giữa thế kỷ mười lăm, cha của Dracula là Vlad Dracula đã khiến đế quốc Ottoman phải hao tổn một số tiền rất lớn. Viên chức này đã đặt mua áo giáp và - người ta gọi thế nào nhỉ? - đại đao cho ba trăm người canh giữ vùng biên cương phía Tây Carpates để không cho dân địa phương nổi loạn, ông ta còn mua cả ngựa nữa. Ở đây’ - ông ta chỉ một ngón tay dài về phía cuối cuộn giấy - ‘nói rằng Vlad Dracula là một rắc rối tốn kém và một… một mối phiền toái rất đáng ghét đã buộc họ phải chi nhiều tiền hơn mức quan tổng trấn mong muốn. Quan tổng trấn rất lấy làm hối tiếc và khổ sở, ông ta cầu chúc đấng Vô Song được trường thọ nhân danh Thánh Allah.’
“Helen và cha đưa mắt nhìn nhau, và cha nghĩ đã đọc được trong mắt cô nỗi kính sợ mà chính cha cũng đang cảm thấy. Góc lịch sử này cũng có thực như cái nền nhà lát đá dưới chân, hoặc cái mặt bàn gỗ bên dưới những ngón tay chúng ta. Những người mà nó đề cập đến cũng đã thực sự sống, hít thở, cảm nhận và suy nghĩ rồi chết đi, như chúng ta đã sống - như chúng ta sẽ sống. Cha nhìn ra chỗ khác, không thể thấy được thoáng cảm xúc hiện ra trên gương mặt rắn rỏi của Helen.
“Turgut đã quấn cuộn giấy kia lại và đang mở ra gói thứ hai, chứa hai cuộn giấy khác. ‘Đây là thư của quan tổng trấn xứ Wallachia, trong đó ông ta hứa sẽ gửi đến Quốc vương Mehmed bất kỳ tài liệu nào có liên quan đến Giáo đoàn Rồng mà ông ta có thể tìm thấy. Còn đây là một báo cáo về thương mại dọc theo sông Danube vào năm 1461, không xa nơi Giáo đoàn Rồng kiểm soát. Các bạn hiểu đấy, biên giới của khu vực này không hề bền vững - chúng liên tục thay đổi. Ở đây bản báo cáo liệt kê số lụa, đồ gia vị và ngựa mà quan tổng trấn yêu cầu trao đổi với len của những người chăn cừu trong lãnh địa ông ta.’ Hai cuộn giấy kế tiếp cũng có nội dung báo cáo tương tự. Sau đó, Turgut mở ra một gói nhỏ hơn, chứa một tờ giấy da có một bản vẽ phác thảo. ‘Một tấm bản đồ,’ ông ta nói. Cha tự động đưa tay tìm chiếc cặp đựng các bản vẽ phác thảo và ghi chép của thầy Rossi, nhưng Helen khẽ kín đáo lắc đầu. Cha hiểu ý cô muốn gì - bọn ta quen biết Turgut chưa đủ rõ để bộc lộ hết với ông ấy tất cả bí mật của mình. Chưa phải là lúc này, cha thầm bổ sung trong đầu; xét cho cùng, rõ ràng ông ta đã thổ lộ với chúng ta tất cả những gì ông ta biết.
“Tôi chưa bao giờ hiểu được tấm bản đồ này chỉ dẫn tới cái gì, các bạn ạ,’ Turgut thừa nhận với chúng ta. Có chút nuối tiếc trong giọng nói đó, và ông vuốt bộ ria mép, vẻ trầm tư. Cha cúi xuống nhìn sát vào tờ giấy da, và cảm thấy run sợ khi thấy nó giống hệt phiên bản đầu tiên mà thầy Rossi đã sao chép, dù đã mờ nhạt, những đường vòng cung dài thể hiện các dãy núi với dòng sông uốn khúc ở phía Bắc. ‘Các bạn biết đấy, nó chẳng giống bất kỳ khu vực nào mà tôi đã đích thân khảo sát, và không có cách nào để biết được - người ta gọi là gì nhỉ? - tỷ lệ xích của tấm bản đồ này.’ Ông đặt nó sang một bên. ‘Đây là một tấm bản đồ khác, có vẻ như thể hiện cận cảnh hơn khu vực trong tấm bản đồ đầu tiên.’ Cha biết đúng là thế - cha đã xem qua tất cả bản sao của những tấm bản đồ này rồi mà, nên cảm thấy mỗi lúc một phấn khích. ‘Tôi tin rằng đây là những ngọn núi, được vẽ nằm ở phía Tây tấm bản đồ đầu tiên, đúng không các bạn?’ Ông thở dài. ‘Ngoài ra không còn thông tin nào khác, và chắc các bạn cũng thấy nó không được ghi chú gì nhiều, ngoại trừ vài dòng trích từ Kinh Koran, và cả câu phương châm kỳ lạ này nữa - trước đây tôi cẩn thận dịch ra - nói điều gì đó đại ý là “Hắn bị giam giữ nơi đây cùng với sự độc ác xấu xa. Hỡi độc giả, bằng một lời, hãy đào mồ hắn lên.” ’
“Cha giật mình đưa tay ra định ngăn ông ta lại, nhưng Turgut nói quá nhanh khiến cha trở tay không kịp. ‘Đừng!’ cha chỉ kịp hét lên, nhưng đã quá trễ, Turgut nhìn cha chằm chằm, kinh ngạc. Helen nhìn chúng ta, từ người này sang người kia, ông thủ thư Erozan đang làm việc ở phía bên kia đại sảnh cũng quay lại đăm đăm nhìn cha. ‘Tôi xin lỗi,’ cha thì thầm. ‘Chỉ vì tôi bị khích động khi nhìn thấy các tài liệu này. Chúng rất… thú vị.’
“ ‘Ồ, rất mừng vì anh nhận thấy chúng thú vị,’ ánh mắt Turgut gần như rạng rỡ dù vẻ mặt vẫn còn nghiêm trọng. ‘Và dòng chữ này thực sự nghe có vẻ kỳ bí khó hiểu. Chúng mang đến cho người ta - các bạn biết cái gì không? - một cú sốc.’
“Vào lúc đó có tiếng bước chân trong đại sảnh, cha bồn chồn đưa mắt nhìn quanh, gần như mong đợi được thấy chính Dracula, dù hắn có giống thứ gì đi chăng nữa, nhưng đó chỉ là một người đàn ông nhỏ thó, đội mũ trắng và có hàm râu xám bờm xờm. Ông Erozan bước ra cửa đón ông ta, và chúng ta trở lại xem xét mớ tài liệu. Turgut rút trong hộp ra một tờ giấy da khác. ‘Đây là tài liệu cuối cùng trong chiếc hộp này,’ ông ta nói. ‘Tôi chưa thể làm rõ được ý nghĩa của nó. Nó được liệt kê trong danh mục thư viện như một thư mục về Giáo đoàn Rồng.’
“Tim cha như hụt mất một nhịp đập và Helen cũng biến sắc mặt. ‘Một thư mục?’
“ ‘Phải, anh bạn ạ.’ Turgut nhẹ nhàng trải tờ giấy lên bàn, trước mặt chúng ta. Tờ giấy trông rất cũ và đã giòn, đầy những chữ Hy Lạp viết tay rất đẹp. Lề phía trên khá nham nhở, tựa như nó từng là một phần của một cuộn giấy dài, còn lề dưới thì rõ ràng bị xé bớt. Không có bất kỳ hình trang trí nào trên văn bản này, chỉ toàn là những dòng chữ viết đẹp đẽ bằng bút mực. Cha thở dài. Cha chưa bao giờ học tiếng Hy Lạp, dù cha cũng biết thừa rằng dù sao đi nữa, dẫu có học rồi thì để hiểu một tài liệu thế này cũng đòi hỏi phải cực kỳ thành thạo.
“Giống như đoán biết được vấn đề của cha, Turgut lấy trong cặp xách ra một cuốn sổ ghi chép. ‘Tôi đã nhờ một học giả chuyên về đế chế Byzantine trong trường đại học chúng tôi dịch bản văn này. Ông ta có kiến thức tuyệt vời về ngôn ngữ và các tài liệu của người Byzantine. Đây là một danh sách các tác phẩm văn chương mà đa số chưa được liệt kê trong bất kỳ danh mục nào khác và bản thân tôi cũng chưa bao giờ nhìn thấy chúng.’ Ông mở cuốn sổ ghi chép ra và vuốt phẳng một trang giấy đầy những chữ Thổ gọn gàng ngay ngắn. Lần này thì Helen thở dài. Turgut vỗ trán. ‘Ôi, vô cùng xin lỗi,’ ông ta thốt lên. ‘Đây, giở đến đâu tôi sẽ dịch đến đó, được chứ? “Herodotus, Cách đối xử với tù binh chiến tranh. Pheseus, Bàn về lý trí và tra tấn. Origen, Chuyên luận về các nguyên lý đầu tiên. Euthymius Lớn, Số phận của những kẻ bị đọa đày. Gubent xứ Ghent, Chuyên luận về thiên nhiên. Thánh Thomas Aquinas, Sisyphus.” Các bạn thấy đấy, đây là một tuyển chọn rất kỳ lạ, và một vài trong số các quyển sách này rất hiếm. Chẳng hạn, ông bạn học giả chuyên về Byzantine của tôi cho biết sẽ là phép lạ nếu còn tồn tại đâu đó một bản chuyên luận trước đây không được biết đến của Origen, một trong những triết gia Thiên Chúa giáo đầu tiên - vì Origen bị buộc tội là dị giáo nên phần lớn các tác phẩm của ông đều đã bị tiêu hủy.’
“ ‘Dị giáo nào?’ Helen trông có vẻ quan tâm. ‘Chắc chắn là tôi đã đọc đâu đó về ông ta.’
“ ‘Ông ta bị kết án vì đã lập luận trong chuyên luận này rằng theo lý luận của người Thiên Chúa giáo thì thậm chí quỷ Xa tăng cũng có thể được cứu rỗi và phục sinh,’ Turgut giải thích. ‘Tôi có nên tiếp tục với danh sách này không nhỉ?’
“ ‘Nếu không phiền,’ cha đáp, ‘khi đọc cho chúng tôi nghe liệu ông có thể viết ra tiếng Anh tên các cuốn sách không?’
“ ‘Rất sẵn lòng,’ Turgut ngồi xuống với cuốn sổ ghi chú, rút ra một cây bút.
“ ‘Cô nghĩ sao về chuyện này?’ cha hỏi Helen. Gương mặt cô nói rõ hơn bất kỳ ngôn từ nào, Chúng ta đến đây chỉ vì mớ bòng bong danh sách sách vở này sao? ‘Tôi biết lúc này nó chưa có ý nghĩa gì,’ cha nói nhỏ với cô, ‘những hãy chờ xem nó có thể đưa chúng ta đến đâu.’
“ ‘Bây giờ, thưa các bạn, cho phép tôi đọc cho các bạn nghe vài tên sách kế tiếp.’ Turgut viết ra, vẻ phấn khích. ‘Các bạn có thể nhận ra, đa số các cuốn này đều liên quan đến hành động tra tấn hoặc hành vi giết người hay chuyện gì đó chẳng vui vẻ gì. “Erasmus, Số phận của một sát thủ. Henricus Curtius, Những kẻ ăn thịt người. Giorgio xứ Padua, Những kẻ bị nguyền rủa.” ’
“ ‘Niên đại các cuốn sách này có được liệt kê kèm theo không?’ cha hỏi, cúi người xuống mớ tài liệu.
“ ‘Turgut thở dài. ‘Không. Tôi chưa tìm được tài liệu tham khảo khác có liên quan đến các nhan đề sách này, nhưng từ những gì đã xác định được, tôi biết không cuốn nào trong số sách đó được viết sau năm 1600.’
“ ‘Và đó là quãng thời gian sau thuở sinh tiền của Vlad Dracula,’ Helen bình luận. Cha ngạc nhiên nhìn cô. Cha đã không nghĩ đến chi tiết đó. Đây là một điểm đơn giản, nhưng hoàn toàn chính xác và rất khó hiểu.
“ ‘Đúng vậy, thưa cô,’ Turgut nói, ngẩng nhìn lên cô. ‘Những tác phẩm gần đây nhất cũng được viết hơn một trăm năm sau cái chết của hắn, cũng như sau cái chết của Quốc vương Mehmed. Rất tiếc tôi đã không tìm được bất kỳ thông tin nào cho biết bằng cách nào và khi nào thư mục này đã trở thành một phần trong bộ sưu tập của Quốc vương Mehmed. Chắc hẳn ai đó đã bổ sung vào sau này, có lẽ rất lâu sau khi bộ sưu tập này được đưa đến Istanbul.’
“ ‘Nhưng trước năm 1930,’ cha trầm ngâm.
“Turgut nhìn cha sắc lẹm. ‘Đó là năm bộ sưu tập này được bỏ vào hộp khóa lại,’ ông ta nói, ‘Điều gì đã khiến anh nói lên điều đó, giáo sư?’
“Cha cảm thấy mình đang đỏ mặt, bởi vì đã nói quá nhiều, nhiều đến độ Helen phải quay sang nơi khác giấu nỗi thất vọng vì sự ngu ngốc của cha, và cũng bởi cha chưa phải là giáo sư. Cha im bặt một lúc; bao giờ cha cũng ghét phải nói dối, và, con gái thân yêu của cha ạ, không bao giờ nói dối nếu có thể tránh được.
“Turgut nhìn cha dò xét, và cha cảm thấy - khó chịu - vì trước khoảnh khắc này cha chưa bao giờ chú ý đánh giá hết sự sắc sảo cực kỳ trong đôi mắt đen, phúc hậu, hằn những vết chân chim của ông ta. Cha hít một hơi thật sâu. Cha sẽ giải thích với Helen sau. Từ khi gặp gỡ, cha đã tin tưởng Turgut, và ông ta có thể sẽ giúp đỡ chúng ta nhiều hơn nếu biết được nhiều hơn. Tuy nhiên để trì hoãn thêm chốc lát, cha nhìn xuống danh sách các tài liệu mà Turgut đã dịch cho chúng ta, rồi liếc nhìn vào bản dịch tiếng Thổ mà ông ta đang dựa vào để dịch lại cho chúng ta. Cha không dám nhìn vào mắt ông ta. Chính xác thì ta nên nói ra bao nhiêu điều trong số những gì ta đã biết với ông ấy? Nếu kể hết ra đây những gì cha biết về các trải nghiệm của thầy Rossi, liệu ông ta có nghi ngờ tính nghiêm túc và sự minh mẫn của chúng ta? Và cũng chính vì cha đã nhìn xuống bản danh sách trong lúc do dự ấy mà cha đột nhiên phát hiện một cái gì đó kỳ lạ. Bàn tay cha lập tức với tới trang tài liệu gốc viết bằng tiếng Hy Lạp, thư mục của Giáo đoàn Rồng. Rốt cuộc, không phải tất cả đều được viết bằng chữ Hy Lạp. Cha có thể đọc rõ ràng một cái tên ở cuối danh sách: Bartolomeo Rossi. Theo sau đó là một câu bằng chữ Latin.
“ ‘Lạy Chúa!” Cha nhận ra quá muộn màng là tiếng kêu của mình đã kinh động tới những nhà nghiên cứu đang im lặng trong phòng. Ông Erozan, vẫn đang nói chuyện với người đàn ông đội mũ và có râu dài, quay lại nhìn chúng ta, vẻ thắc mắc.
“Ngay lập tức Turgut tỏ ra cảnh giác, Helen lập tức nhích đến gần hơn. ‘Chuyện gì vậy?’ Turgut với tay về phía trang tài liệu. Cha vẫn còn đang nhìn trừng trừng; ông ta dễ dàng dõi theo ánh mắt của cha. Rồi ông ta nhảy dựng lên, bật ra một tiếng kêu thảng thốt mà có lẽ phản ánh đúng tâm trạng rối bời của cha, âm vang tiếng kêu này rõ ràng đến độ cha đã cảm thấy một niềm an ủi kỳ lạ giữa vô vàn những chuyện kỳ lạ khác: ‘Thượng đế ơi! Giáo sư Rossi!’
Cả ba người chúng ta đưa mắt nhìn nhau, và trong chốc lát tất cả đều lặng thinh. Cuối cùng cha thử lên tiếng. ‘Ông,’ cha trầm giọng với Turgut, ‘ông biết cái tên này?’
“Turgut nhìn từ cha sang Helen. ‘Các bạn biết ông ta ư?’ cuối cùng ông thốt lên.”
Barley nở nụ cười tử tế. “Chắc em phải mệt lắm thì mới ngủ say thế. Anh thì chỉ nghĩ đến cái mớ hỗn độn mà em đang lâm vào thôi cũng đủ thấy mệt rồi. Người ta sẽ nói gì nếu em kể hết những chuyện này ra nhỉ - ý anh là với bất kỳ người nào khác ấy? Chẳng hạn như quý bà ở đằng kia.” Anh hất đầu chỉ vào người bạn đồng hành đang gà gật của chúng tôi, bà đã không xuống tàu ở Brussels và rõ ràng có ý định ngủ cho đến tận Paris. “Hoặc với một tay cảnh sát. Người ta sẽ chẳng nghĩ gì khác ngoài việc cho là em bị điên.” Anh thở dài. “Mà em dự định đi về miền Nam nước Pháp một mình thật đấy à? Thay vì đoán mò, anh muốn em cho anh biết địa điểm chính xác để có thể đánh điện về cho bà Clay và thông báo em đang lâm vào cảnh rắc rối nhất có thể.”
Đến lượt tôi mỉm cười. Chúng tôi đã dùng cớ này vài lần rồi.
“Em bướng bỉnh khiếp lên được,” Barley càu nhàu. “Anh chưa bao giờ nghĩ một cô bé lại có thể gây nhiều rắc rối đến vậy - cụ thể là rắc rối mà anh sẽ gặp với thầy James nếu bỏ lại em bơ vơ giữa lòng nước Pháp này, em biết đấy.” Câu nói này suýt nữa làm tôi xúc động ứa nước mắt, nhưng những lời kế tiếp của anh lại làm cho nước mắt tôi ráo hoảnh, còn trước khi kịp hình thành. “Ít ra chúng ta cũng còn thời gian để ăn trưa trước khi đón chuyến tàu kế tiếp. Ga Bắc(1) có món bánh mì sandwich tuyệt ngon, và bọn mình có thể xài hết những đồng franc còn lại của anh.” Hai tiếng “bọn mình” làm tôi cảm thấy ấm lòng.
Chú thích:
1. Nguyên văn tiếng Pháp: Gare du Nord.