“Helen và cha giật mình, lùi lại nép sát vào nhau. Trong một thoáng, cha nghĩ Turgut và Selim hẳn phải trong hàng ngũ của một thế lực tăm tối nào đó, và cha cố cưỡng lại mong muốn chộp lấy cái cặp và kéo tay Helen chạy thoát khỏi căn hộ đó. Ngoại trừ nhờ vào những phương cách huyền bí, làm sao hai người đàn ông này, những người mà cha đã từng xem là bạn, có thể phụng sự một vị Quốc vương đã chết từ lâu? Thực ra, tất cả các vị Quốc vương Hồi giáo đều đã chết từ lâu, vì vậy bất cứ vị nào mà Turgut đề cập đến đều không thể là người cõi trần này nữa. Và liệu ông ta có lừa dối chúng ta về nhiều chuyện khác?
“Cơn hoang mang của cha bị cắt ngang bởi giọng nói của Helen. Cô ngả người về phía trước, mặt tái nhợt, mắt mở to, nhưng câu hỏi của cô lại điềm tĩnh và vô cùng thiết thực trong tình huống đó - thiết thực đến mức phải mất một lúc cha mới hiểu được ý nghĩa câu hỏi đó. ‘Thưa giáo sư Bora,’ cô từ tốn hỏi, ‘ông bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?’
“Ông ta mỉm cười với Helen. ‘À, quý cô thân mến, nếu cô muốn hỏi có phải tôi năm trăm tuổi không, thì câu trả lời - may mắn thay - là không. Tôi phụng sự Đấng Cứu thế Vĩ đại và Quang vinh, Quốc vương Mehmed II, nhưng chưa bao giờ có niềm vinh dự vô song là được gặp mặt ngài.’
“ ‘Vậy thì ông đang cố nói với chúng tôi thứ quái quỷ gì thế?’ cha gần như quát lên.
“Turgut lại mỉm cười và Selim gật đầu với cha, vẻ mặt vẫn thân thiện. ‘Tôi không định nói với các bạn điều này,’ Turgut trả lời. ‘Tuy nhiên, các bạn đã tin cậy chúng tôi trong nhiều chuyện, và cũng vì cô đã nêu một câu hỏi rất sắc sảo, cô bạn ạ, cho nên tôi sẽ giải thích. Tôi ra đời một cách bình thường vào năm 1911 và hy vọng sẽ giã từ cõi đời trên giường mình một cách bình thường vào - ồ, khoảng ¬năm 1985.’ Ông cười khùng khục. ‘Tuy nhiên, những người trong gia đình tôi bao giờ cũng sống dai, rất thọ, vì vậy chắc hẳn tôi sẽ còn phải khổ sở lay lắt ngồi trên chiếc trường kỷ này vào lúc đã quá già, không còn ai trọng vọng mình nữa’. Ông quàng tay quanh vai bà Bora. ‘Anh Aksoy cũng ở cái tuổi mà các bạn đang nhìn thấy. Chẳng có gì quái lạ ở chúng tôi cả. Điều mà tôi sẽ tiết lộ với các bạn tới đây là bí mật thầm kín nhất không thể chia sẻ với bất kỳ ai, đó cũng là điều các bạn phải giữ kín dù xảy ra bất cứ chuyện gì, chúng tôi là thành viên vệ binh Trăng Lưỡi Liềm của Quốc vương.’
“ ‘Tôi nghĩ mình chưa từng được nghe nói về tổ chức này,’ Helen cau mày đáp lại.
“ ‘Chưa, giáo sư ạ, cô chưa nghe nói đâu.’ Turgut liếc nhìn Selim, anh vẫn ngồi kiên nhẫn lắng nghe, rõ ràng là đang cố bắt kịp những câu trao đổi giữa chúng ta, đôi mắt xanh biếc của anh tĩnh lặng như mặt hồ. ‘Chúng tôi tin rằng không ai từng nghe nói đến chúng tôi, ngoại trừ các thành viên. Chúng tôi được thành lập như một đội bí mật gồm những thành phần ưu tú nhất của vệ binh hoàng gia.’
“Cha bất chợt nhớ lại những gương mặt trai trẻ lạnh như tiền, mắt sáng quắc trên những bức tranh tại Cung điện Topkapi Saray, đội ngũ vững chắc của bọn họ tụ tập sát bên ngai vàng Quốc vương, gần đến độ có thể bổ nhào đến tấn công một kẻ nào đó bị tình nghi là thích khách - hoặc tấn công bất kỳ ai bất ngờ bị Quốc vương thất sủng.
“Turgut gật đầu, có vẻ như đọc được ý nghĩ của cha. ‘Tôi biết các bạn đã nghe nói đến đoàn vệ binh của Quốc vương. Chà, các bạn ạ, năm 1477, Quốc vương Mehmed Vĩ đại và Quang vinh đã cho gọi hai mươi sĩ quan tin cậy nhất và tinh nhuệ nhất trong lực lượng để bí mật ban cho họ biểu tượng vệ binh Trăng Lưỡi Liềm mới. Họ được trao một nhiệm vụ phải hoàn thành - nếu cần thiết thì sẵn sàng trả giá bằng mạng sống. Nhiệm vụ đó là ngăn chặn không cho Giáo đoàn Rồng gây thêm bất kỳ nỗi thống khổ nào cho đế quốc vĩ đại của chúng tôi và tìm giết các thành viên của Giáo đoàn này ở bất kỳ nơi chốn nào có thể.’
“Cả Helen và cha đều há hốc miệng kinh ngạc, nhưng lần này cha nhận ra vấn đề trước cô ấy. ‘Vệ binh Trăng Lưỡi Liềm được thành lập năm 1477 - năm các tu sĩ kia đến Istanbul!’ cha vừa nói vừa suy nghĩ để mong tìm được lời giải. ‘Nhưng Giáo đoàn Rồng do Hoàng đế Sigismund thành lập trước đó rất lâu - vào năm 1400, đúng không?’
“ ‘Chính xác là năm 1408, anh bạn ạ. Dĩ nhiên. Trước năm 1477, các vị Quốc vương đã gặp khá nhiều khó khăn với Giáo đoàn Rồng và những cuộc chiến do họ gây ra với đế quốc. Nhưng đến năm 1477, Đấng Cứu thế Quang vinh nhận định rằng trong tương lai có thể còn có những cuộc đột kích tệ hại hơn của Giáo đoàn Rồng.’
“ ‘Ý ông là sao?’ Bàn tay Helen vẫn bất động trong tay cha, lạnh buốt.
“ ‘Thậm chí hiến chương của chúng tôi cũng không trực tiếp nêu ra vấn đề này,’ Turgut thừa nhận, ‘nhưng tôi chắc chắn việc Quốc vương thành lập vệ binh Trăng Lưỡi Liềm chỉ vài tháng sau cái chết của Vlad Ţepeş không phải là một sự trùng hợp.’ Ông ta chắp hai tay lại, tựa như đang cầu nguyện - mặc dù cha chợt nhớ là tổ tiên ông ta phải quỳ úp mặt xuống đất để cầu nguyện. ‘Hiến chương đó nêu rõ là Đức Hoàng thượng đã thành lập vệ binh Trăng Lưỡi Liềm để truy kích Giáo đoàn Rồng, kẻ thù đáng gờm nhất của đế quốc vĩ đại, ở mọi lúc mọi nơi, trên đất liền, trên mặt biển, và thậm chí sau cái chết.’
“Turgut chồm tới trước, ánh mắt rực sáng, mái tóc như bờm sư tử bạc trắng xù lên hoang dại. ‘Tôi cho rằng Đức Quốc vương Vĩ đại đã cảm nhận, hoặc thậm chí biết được mối nguy hiểm mà Vlad Dracula có thể gây ra cho Đế quốc sau cái chết của hắn - của Dracula.’ Ông vuốt ngược mái tóc. ‘Như chúng ta biết, thời gian đó Quốc vương cũng cho sưu tầm các tài liệu về Giáo đoàn Rồng - trung tâm lưu trữ không phải là một cái gì bí mật, nhưng nó được các thành viên chúng tôi bí mật sử dụng, và hiện nay vẫn vậy. Còn bây giờ, lá thư kỳ lạ anh Selim phát hiện và bài ca dân gian của cô đây - những thứ này đã chứng tỏ một cách rõ ràng hơn rằng Đức Hoàng thượng Quang vinh đã có lý khi lo lắng như vậy.’
“Đầu óc cha vẫn sôi sục với những băn khoăn. ‘Nhưng làm thế nào mà ông - và anh Aksoy - gia nhập đội vệ binh này?’
“ ‘Tư cách thành viên được người cha truyền cho người con trai cả. Mỗi người con trai được - tiếng Anh gọi là gì nhỉ? - kết nạp vào năm mười chín tuổi. Người cha sẽ mang bí mật đó xuống mồ nếu ông ta chỉ có những đứa con trai không xứng đáng, hoặc không có con trai.’ Cuối cùng thì Turgut cũng nhấc cốc cà phê bỏ quên lên uống, và bà Bora lại bước đến rót đầy cốc cho chồng. ‘Vệ binh Trăng Lưỡi Liềm được giữ bí mật đến độ các vệ binh hoàng gia khác cũng không biết vài đồng đội của họ thuộc về một nhóm như vậy. Người Chinh phục vĩ đại của chúng tôi qua đời năm 1481, nhưng đội vệ binh Trăng Lưỡi Liềm của ngài vẫn tiếp tục tồn tại. Đôi khi dưới thời các vị Quốc vương yếu kém hơn, lực lượng vệ binh hoàng gia trỗi dậy thành một thế lực lớn mạnh, nhưng chúng tôi vẫn giữ được bí mật của mình. Rốt cuộc, khi đế chế tan rã, không còn tồn tại ngay cả ở Istanbul, không ai biết về chúng tôi và chúng tôi vẫn tồn tại. Hiến chương của chúng tôi được cha anh Aksoy gìn giữ an toàn trong suốt cuộc Thế chiến I, và được anh Selim bảo quản trong cuộc chiến vừa qua. Hiện tại, anh ấy vẫn đang gìn giữ nó ở một chỗ bí mật theo như truyền thống của chúng tôi.’ Turgut ngừng lại để lấy hơi rồi nhấp một ngụm cà phê.
“ ‘Tôi cứ nghĩ,’ Helen cắt ngang, giọng thoáng vẻ nghi ngờ, ‘ông nói cha mình là người Ý chứ. Sao ông ta lại ở trong vệ binh Trăng Lưỡi Liềm được?’
“ ‘Đúng thế.’ Turgut gục gặc đầu trên cốc cà phê. ‘Thực ra, ông ngoại tôi là một thành viên rất tích cực của đội vệ binh và không thể chịu nổi việc đội sẽ tiêu vong khi mình chết đi, nhưng ông chỉ có một người con gái. Khi ông nhận thấy đế chế sẽ vĩnh viễn không thể khôi phục trong đời mình...’
“ ‘Mẹ ông ư!’ Helen thốt lên.
“ ‘Đúng vậy.’ Turgut cười bâng khuâng. ‘Cô không phải là người duy nhất ở đây có thể khẳng định mình có một bà mẹ đáng nể đâu. Có lẽ tôi đã kể với các bạn rồi, mẹ tôi là một trong những phụ nữ được giáo dục tốt nhất đất nước này vào thời của bà - thực vậy, một trong số rất ít người được giáo dục đầy đủ và xuất sắc - và ông ngoại đã truyền lại cho mẹ tôi tất cả kiến thức và tham vọng của ông cũng như chuẩn bị cho bà phục vụ trong đội vệ binh mà không tiếc bất cứ điều gì. Bà đã tỏ ra quan tâm tới kỹ thuật từ khi nó vẫn còn là một ngành khoa học mới mẻ ở chốn này, vậy nên sau lễ kết nạp mẹ tôi vào đội vệ binh, ông đã cho phép bà đến Rome học tập - ông ngoại tôi có bạn bè ở đó. Bà rất xuất sắc về môn toán cao cấp và có thể đọc bốn thứ tiếng, trong đó có tiếng Hy Lạp và Ả-rập.’ Turgut nói gì đó bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ với bà vợ và Selim, cả hai gật đầu tỏ vẻ đồng ý. ‘Bà có thể cưỡi ngựa không thua bất kỳ kỵ binh nào của các Quốc vương, và bắn súng cũng chẳng kém ai nữa, mặc dù rất ít người biết về điều này.’ Đến đây ông nháy mắt với Helen, và cha nhớ ra khẩu súng nhỏ của cô - cô cất nó ở đâu nhỉ? ‘Từ ông ngoại tôi, bà cũng biết được rất nhiều điều về truyền thuyết ma cà rồng và cách bảo vệ người sống khỏi những mưu ma chước quỷ của hắn. Hình bà ở kia, các bạn muốn xem chứ.’
“Ông đứng dậy và mang lại tấm hình trên một cái bàn chạm khắc trong góc rồi nhẹ nhàng đặt nó vào tay Helen. Đó là một tấm hình ấn tượng, với độ rõ ràng tinh vi tuyệt vời theo kiểu các bức ảnh chân dung từ đầu thế kỷ. Người thiếu phụ, hẳn đã phải ngồi làm mẫu rất lâu trong một tiệm ảnh ở Istanbul để chụp tấm hình đó, trông vẫn kiên nhẫn và điềm tĩnh, nhưng người thợ ảnh, bên dưới tấm vải trùm lớn màu đen của mình, đã thu được vào ống kính sự thích thú ánh lên trong mắt bà. Nước da nâu đỏ trông không chê vào đâu được trên nền trang phục màu đen. Gương mặt bà giống gương mặt Turgut, nhưng mũi và cằm của bà thanh tú hơn so với nét nặng nề của ông, khuôn mặt đó nở ra như một đóa hoa tươi thắm trên cuống hoa là cần cổ cao thanh mảnh - gương mặt của một nàng công chúa Ottoman. Mắt bà chạm mắt cha với ánh nhìn hóm hỉnh ấy, và bất chợt cha cảm thấy tiếc nuối vì những năm tháng đã chia cắt giữa chúng ta.
“Turgut lại cầm chiếc khung hình nhỏ bé trong tay, vẻ trìu mến. ‘Ông ngoại tôi đã có một chọn lựa khôn ngoan khi phá vỡ truyền thống, biến mẹ tôi thành một thành viên đội vệ binh. Chính bà là người đã tìm thấy một số tài liệu của trung tâm lưu trữ chúng tôi nằm rải rác trong các thư viện khác và mang chúng về lại với bộ sưu tập. Khi tôi lên năm, bà đã hạ một con sói tại căn nhà nghỉ hè ở miền quê của chúng tôi, và khi tôi lên mười một, bà dạy tôi cưỡi ngựa và bắn súng. Cha tôi rất yêu mẹ, dù bà làm ông phát hoảng vì sự can đảm của bà - ông luôn nói ông đã bỏ thành Rome theo bà về Thổ Nhĩ Kỳ chỉ để thuần hóa bà. Giống như các bà vợ tin cẩn nhất của thành viên đội vệ binh, cha tôi biết tư cách thành viên của mẹ và không ngơi lo lắng cho sự an toàn của bà. Cha tôi kìa...’ Ông trỏ một bức chân dung sơn dầu treo cạnh cửa sổ mà trước đó cha đã để ý. Người đàn ông đang nhìn ra từ bức tranh trông rắn chắc, phong lưu, ưa nhìn, mặc quần áo tối màu, tóc và mắt đen nhánh, vẻ mặt nhân hậu; Turgut cho biết cha ông là một sử gia chuyên về thời Phục hưng của Ý, nhưng cha có thể dễ dàng hình dung người đàn ông trong bức chân dung chơi bi với đứa con trai nhỏ trong khi bà vợ thì hướng thằng bé vào một nền giáo dục khắc nghiệt hơn.
“Helen cựa quậy, kín đáo duỗi thẳng chân bên cạnh cha. ‘Ông nói ông ngoại ông là một thành viên tích cực của vệ binh Trăng Lưỡi Liềm. Điều đó nghĩa là sao? Và các hoạt động của đội vệ binh là gì?’
“Turgut lắc đầu vẻ hối tiếc. ‘Xin lỗi, chuyện đó thì tôi không thể tiết lộ chi tiết với hai bạn được. Có một vài vấn đề cần giữ kín. Chúng tôi kể cho các bạn nhiều thế này vì các bạn đã hỏi - và gần như đã đoán ra - và bởi chúng tôi muốn các bạn tin tưởng hoàn toàn vào sự trợ giúp của chúng tôi. Đội vệ binh cũng có lợi nếu các bạn đi Bungari, và đi càng sớm càng tốt. Ngày nay, đội chỉ còn lại vài người, rất ít ỏi.’ Ông thở dài. ‘Than ôi, tôi lại chẳng có con trai - hoặc con gái - để truyền lại niềm kỳ vọng của mình, dù anh Aksoy cũng đang nuôi dạy một người cháu theo truyền thống của chúng tôi. Nhưng các bạn có thể tin tưởng rằng tất cả sức mạnh quyết tâm của đế chế Ottoman sẽ đồng hành cùng các bạn, không cách này thì cách khác.’
“Cha lại phải cố kìm nén để không rên lên. Cha có thể tranh cãi với Helen, có lẽ vậy, nhưng tranh biện với sức mạnh bí mật của đế chế Ottoman thì quả là ngoài khả năng của cha. Turgut giơ một ngón tay lên. ‘Tôi phải cảnh báo các bạn một điều, cảnh báo rất nghiêm túc đấy. Tôi đã trao vào tay các bạn một bí mật được gìn giữ cẩn thận - và gìn giữ thành công, chúng tôi tin như vậy - trong suốt năm trăm năm. Chúng tôi không có lý do gì để nghĩ rằng tên cựu thù kia biết được bí mật này, mặc dù thời còn sống chắc chắn hắn căm ghét và sợ hãi thành phố của chúng tôi. Trong hiến chương của đội, Đức Quốc vương Vĩ đại đã đề ra luật lệ. Bất kỳ kẻ nào phản bội làm lộ bí mật của đội vệ binh cho kẻ thù sẽ bị trừng phạt bằng cách xử tử hình ngay tức khắc. Theo tôi biết, việc này chưa bao giờ xảy ra. Nhưng vì lợi ích của riêng các bạn cũng như của chúng tôi, tôi yêu cầu các bạn thận trọng.’
“Giọng Turgut không có dấu hiệu của ác ý hoặc đe dọa mà chỉ ẩn chứa vẻ trang nghiêm, cha còn nghe được trong đó lòng trung thành không thể lay chuyển, lòng trung thành đã biến vị Quốc vương của ông ta trở thành Người Chinh phục Thành phố Vĩ đại này, thành phố kiêu hãnh và bất bại trước đây của đế quốc Byzantine. Khi thốt lên ‘Chúng tôi phụng sự Quốc vương,’ ông đã nói hoàn toàn nghiêm túc, mặc dù ông ra đời cả năm trăm năm sau cái chết của Quốc vương Mehmed. Bên ngoài cửa sổ phòng khách, mặt trời đang lặn xuống thấp hơn, một tia nắng hồng rọi khuôn mặt to bè của Turgut khiến ông bỗng như cao quý hẳn lên. Trong một thoáng, cha nghĩ thầy Rossi sẽ có thể bị Turgut mê hoặc đến thế nào, thầy sẽ nhìn ông ta như cả một pho sử sống ra sao, và cha cũng băn khoăn những câu hỏi nào thầy Rossi có thể nêu ra với ông ta - những câu hỏi mà thậm chí chính cha cũng chưa thể hình thành trong đầu.
“Tuy nhiên, chính Helen lại là người nói điều thích hợp. Cô đứng dậy, làm tất cả chúng ta đứng lên theo, rồi cô chìa tay ra với Turgut. ‘Chúng tôi rất vinh dự vì ông đã kể cho chúng tôi bí mật đó,’ cô nói, nhìn thẳng vào mặt ông vẻ tự hào. ‘Chúng tôi sẽ gìn giữ bí mật của các ông cũng như di nguyện của Quốc vương bằng mạng sống của mình.’ Turgut hôn lên tay Helen, rõ ràng đang xúc động, còn Selim Aksoy thì cúi mình trước cô. Có vẻ như cha không cần phải nói thêm điều gì; tạm thời gác qua một bên lòng thù hận truyền thống của dân tộc mình đối với những kẻ áp bức Ottoman, Helen đã nói thay cho cả hai chúng ta.
“Chúng ta có thể đứng như vậy cả ngày, lặng yên nhìn nhau trong ánh chiều tà dần buông nếu điện thoại của Turgut không đột ngột reo. Ông cúi đầu tỏ ý xin lỗi rồi băng ngang qua căn phòng để trả lời điện thoại, còn bà Bora thì bắt đầu dọn dẹp những gì còn lại của bữa ăn vào một khay đồng. Turgut lắng nghe người gọi đến một lúc, trả lời vẻ khá xúc động, rồi đột ngột gác ống nghe. Ông quay sang Selim và liến thoắng câu gì đó bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, anh chàng này nhanh chóng choàng lên người chiếc áo khoác xộc xệch.
“ ‘Có chuyện gì xảy ra sao?’ cha hỏi.
“ ‘Đúng vậy, chao ôi.’ Turgut vỗ mạnh tay lên ngực. ‘Ông thủ thư, ông Erozan. Người tôi để lại để trông chừng ông ta đã ra ngoài một lát, và anh ta vừa điện báo ông bạn chúng ta lại bị tấn công. Ông Erozan hiện đang bất tỉnh, anh ta sẽ đi gọi bác sĩ. Việc này rất nghiêm trọng. Đây là lần tấn công thứ ba, và ngay lúc hoàng hôn.’
“Sửng sốt, cha vớ lấy chiếc áo khoác, Helen vội mang giày vào dù bà Bora đã đặt tay lên cánh tay cô để trấn an. Turgut hôn tạm biệt vợ, và khi chúng ta vội vã ra khỏi nhà, cha quay lại, thấy bà vẫn đứng ở cửa căn hộ, tái mét và hoảng sợ.”