Cái đầu lâu nhìn chằm chằm vào mặt Justus Jonas từ hai hốc trống trơn. Nụ cười trên những khúc xương trắng nhởn như đang chế giễu người ngắm nó.
Justus thò tay về phía chiếc đầu lâu. Vừa được cậu nâng lên, quai hàm của nó ngay lập tức trễ xuống, biến nụ cười mỉm thành một cái cười ma quái ngoác toang. Justus thổi cho bụi bay ra khỏi cái đầu lâu và nhăn trán nhìn vào gương mặt chết chóc. “Tồn tại hay không tồn tại, đó là vấn đề”.
- Ôi trời, Justus, cứ thế nầy thì không bao giờ bọn mình xong việc! – Peter thở phì ra lời than phiền từ phía sau. Thám tử phó trong nhóm Bộ Ba Đang loay hoay kiểm tra chiếc máy chữ đã cũ. Cả ba chàng thiếu niên đã quyết định bỏ thời gian để dọn dẹp thật cẩn thận Bộ tham mưu của họ. Cái gọi là Bộ Tham Mưu đó thật ra chỉ là một toa xe cắm trại cũ kỹ đang đày đến muốn tắt thở vì những đồ linh tinh đáng bỏ đi. Đại bản doanh thám tử nầy đứng trong khuôn viên của cửa hàng bán đồ cũ của ông chú Titus Jonas. Nữa muốn dọn dẹp cho nơi làm việc quang đãng hơn, bộ ba nữa còn muốn chuyển những món đồ linh tinh được tụ tập theo năm tháng sang cho chú Titus, mong kiếm vài đô la lẻ. Giờ ba cậu chàng đang ngồi trong cái cảnh hổn mang tối tăm đầy bụi bặm, giữa biết bao nhiêu là hòm và hộp Carton để mà xăm xoi đống “của báu” của họ. Càng lục lọi nhiều bao nhiêu, họ càng tiến chậm bấy nhiêu. Cứ mỗi một món đồ được lôi ra, là cả ba chụm đầu ngắm nghía rồi cãi sùi bọt mép xem đây là đồ ve chai hay một món kỹ niệm vô giá. Thám tử trưởng không bỏ một cơ hội nào để đưa ra những lời nhận xét trong một thứ văn rối rắm sặc mùi triết lý.
Điều nầy khiến Peter phát điên.
- Nếu cứ tìm thấy cái món đồ con con nào mà cậu cũng dành ra cả nửa tiếng để phân tích dẫn văn của Goethe thì đến năm sau bọn mình cũng chưa dọn dẹp xong.
Justus không rời ánh mắt khỏi cái đầu lâu, cất cao giọng kịch trường giảng giải tiếp:
- Dù cao quí chịu đựng những mũi tên và hòn đạn của số phận bạo liệt hay vùng dậy chấm dứt nỗi khổ đau bằng kháng cự”. Mà nầy, Peter, đây không phải là văn của Goethe, mà là của Shakespeare. Hay nói một cách chính xác thì đây là lời của hoàng tử Hamlet.
Bob Andrews xoay đầu lại. Cho tới nay cậu vẫn bỏ qua trò cãi cọ của hai anh bạn vì mải chăm chú vào chuyện chùi sạch mấy chiếc khung tranh cũ kỹ.
- Sokrates.
- Cái gì thế? – Peter hỏi.
- Geothe, Shakespeare, Hamlet hay là Sokrates?
- Mình không muốn nói đến câu trích dẫn, Peter, mà cái đầu kia! Đó là đầu Sokrates, cái đầu lâu biết nói mà ảo thuật gia Gulliver đã tặng cho bọn mình!
Trời đất, mình quên khuấy đi mất. Justus, cái nầy không thể bán được đâu, cái nầy ta phải giữ lại trong Bộ tham mưu.
- Mình đồng ý vô điều kiện, Bob, Sokrates sau nầy sẽ được đưa vào viện bảo tàng Bộ Bob Andrews.
- Thám tử trưởng bắt dầu cười khúc khích.
- Các cậu còn nhớ cô Mathilda hồi đó suýt chút nữa thì lên cơn đau tìm khi nghe Sokrates chào “Buhhh!”?
Bob cười.
- Sao lại không nhớ, buồn cười đến nôn bụng!
- Trời ạ! Vừa nhắc đến cô Mathilda, – Peter nói và lo lắng nhìn qua khuôn cửa sổ, – thì bà cô của cậu đã sải bước về phía nầy rồi đấy. Các bạn đồng nghiệp ơi, tôi có linh cảm không tốt chút nào.
Chỉ vài tích tắc sau, có tiếng gõ rất mạnh vang lên bên cửa.
- Mời vào! – Justus nói.
Cô Mathilda Jonas bước váo Bộ tham mưu của ba thám tử và giận dữ nhìn lần lượt Bob, Peter, Justus, rồi đến Sokrates.
- Buhhh – Justus kêu lên và buông cho hàm dưới của cái đầu lâu mở ngoác ra.
Cô Mathilda thốt lên một tiếng kêu ngắn rồi giật lui về một bước.
- Justus
Jonas! Cháu nghĩ thế nào mà lại đi doạ nạt bà cô tội nghiệp của cháu như thế hả! Lại đúng vào lúc các cậu có những chuyện quan trọng và gấp gáp hơn nhiều! Mấy ông cháu tôi làm sao thế hả, tại sao chưa bắt tay vào việc?
- Việc gì kia ạ? – Justus ngạc nhiên hỏi và đặt Sokrates lên bàn.
- Còn việc gì nữa! Phải quét sơn lại cho khu nhà văn phòng!
- Hôm nay sao cô?
- Phải, dĩ nhiên là hôm nay. Thế suốt cả tuần qua cô nói chuyện gì vậy hả?
- Cô nói là chủ nhật. Cháu cứ tưởng cô nói chủ nhật sau.
- Không tưởng với tượng gì hết, Justus Jonas, ý cô nói là chủ nhật nầy. Đi nào, cô đang cần các cháu giúp đỡ đây. Nếu cuối tuần nầy mà ta không làm cho xong thì lại kéo dài cả vài tháng nữa cho coi.
- Nhất quyết phải thế sao cô? – Peter rên lên.
- Đúng thế, – Mathilda Jonas nói bằng vẻ quả quyết.
- Chắc chắn phải như vậy.
Mái của ngôi nhà văn phòng dày cộm một lớp bụi và rác. Lá khô và bụi của rất nhiều năm trời đã trộn với nước mưa và được mặt trời nung nóng, biến thành một lớp vảy nâu xám, cứng trơ trơ dưới sức chùi của chiếc bàn chải bằng sắt.
Peter loay hoay cọ chỗ nầy một chút, chỗ kia một xíu, nhưng kết quả bao gìơ cũng giồng nhau: Lớp bụi dứt khoát không chịu bong ra. Không có một lớp mặt sạch sẽ, đâu có ai dàm nghĩ đến chuyện quét sơn mới.
Bực dọc, cậu quì xuống, đưa tay che mắt cho đỡ chói nắng rồi nhìn sang phía Bộ tham mưu. Bộ tham mưu của các cậu cũng bẩn thỉu y hệt như ngôi nhà mà Peter đang cưỡi bên trên. Mặc dầu vậy, chắc cả đời cậu và hai cậu bạn không bao giờ nghĩ đến chuyện khoác cho nó một lần sơn mới. Tại sao cô Mathilda cứ khăng khăng muồn làm đẹp ngôi nhà văn phòng nầy thế nhỉ?
- Phía trên sắp xong chưa đấy! – Justus nói từ phía dưới lên.
- Mình chẳng nghe thấy tiếng cậu cọ chùi gì nữa cả!
- Ta có thể đổi chỗ cho nhau, Justus! Lớp bụi trên nầy hoàn toàn không nghĩ đến chuyện bung ra. Mình dám cuộc là đã có người dán chặt nó vào đây. Trên mái nhà nầy là toàn bộ khí thải của Los Angeles suốt hai năm qua được dán dính với nhau!
- Thế câụ tưởng dưới nầy khá hơn hả? – Bob chen vào.
- Nầy các cháu, nếu không dốc sức vào làm mà chỉ mải than thân trách phận thì không bao giờ xong việc đâu!
Phải xoay lại. Cô Mathilda Jonas vừa ló ra từ phía sau lưng họ. Trên gương mặt cô là một nụ cười khoái trá, hai tay cô bưng một chiếc khay lớn có để ba chiếc cốc khổng lồ đựng nước cam vắt và một chiếc bình cũng đầy tới cổ. Cô không muốn mấy chàng thợ thủ công của cô bị chết khát.
- Thế còn bánh anh đào thì sao ạ? – Justus hỏi, lòng đầy hy vọng, mặc dầu cậu chàng mới dùng bữa điểm tâm cách đây có hai giờ.
- Bánh sẽ xuất hiện chừng nào các cháu xong việc – làm phần thưởng.
- Các bạn đồng nghiệp, ta tăng tốc lên một chút! – Justus chúng miếng bùi nhùi bằng sắt vụn vào nước và dốc sức kỳ cọ.
Cả Bob và Peter cũng làm tiếp. Đúng là than vãn cũng chả được tích sự gì – họ càng xong sớm bao nhiêu thì càng nhanh có thời gian cho những việc khác bấy nhiêu. Cả ba chàng thiêu niên dốc sức cọ rồi chùi, chùi rồi cọ. Mặt trời đã lên cao hơn nữa trên nền trời xanh ngắt không gợn một chút mây. Trán Peter lấm tấm mồ hôi. Tất cả số nước cam đã được uống đến giọt cuối cùng và Thám tử phó giờ chỉ còn mơ đến mỗi một thứ là kết thúc công việc nầy và đi ra bãi biển, lao mình vào những con sóng Thái Bình Dương mát lạnh. Bob, ngược lại, không mong mỏi gì hơn là được ngồi bên một suất kem khổng lồ dưới một cây dù cũng khổng lồ bên con đường ven bãi cát và an nhàn nhắm những người đi dạo. Justus thì chìm đắm trong suy nghĩ được kết thúc nhát cọ cuối cùng, rồi thả người vào bóng râm, một mình xủ lý cả chiếc bánh kem anh dào.
Ngày như dài vô cùng tận. Cái nóng quá sứa chịu đựng. Nhưng rồi cuối cùng, váo lúc chiều tối, ngôi nhà bằng gỗ xinh xinh đã rực rỡ một màu trắng loá.
Peter lùi ra xa và ngắm nghía thành quả lao động, sau đó cậu mới nhìn xuống bản thân mình. Cái áo thun vốn màu trắng giờ chỉ còn là một mảnh ghẻ đẫm mồ hôi ngả màu nâu trộn xám. Cậu nhìn sang phía Bob rồi phía Justus. Bob trông cũng chẳng khác gì cậu, nhưng Justus mới là kẻ có ngoại hình bị xuống cấp trầm trọng nhất. Mặt cậu chàng đỏ gay đỏ gắt, đẫm mồ hôi, áo thun nhỏ giọt tong tong và cậu hầu như không thể đứng thẳng được nữa. Cô Mathilda Jonas bước về phía ba chàng trai và vui vẻ vỗ tay kêu lên.
- Tuyệt quá! Ngôi nhà bây giờ trông mới đẹp làm sao! Cô xin cam đoan với các cháu rằng chắc chắn doanh thu trong mấy thánh tới sẽ tăng. Các cậu rất xứng đáng được trọng thưởng đây!
Vào hàng hiên nầy với cô, mọi chuyện được chuẩn bị xong rồi!
Justus xoay nhìn bà cô với hai con mắt từ miếng lem nhem mồ hôi và ghét bẩn.
- Cô Mathilda!
- Sao cơ?
- Đây là lần cuối cùng cô thoát khỏi một vụ như thế nầy mà chỉ tốn duy nhất một món bánh anh đào. Cháu kiệt sức thật rồi.
Bà cô nhìn cậu, vẻ hối lỗi.- Ý cháu muốn nói, chỉ món bánh anh đào không thôi thì chưa đủ làm phần thưởng?
Thám tử trưởng câm nín lắc đầu.
- Mà hai bánh anh đào cũng không luôn.
- Thôi được, cô nợ cháu một món. Nếu trong tương lai cháu cần đến sự giúp đỡ của cô thì cháu có thể tin chắc vào cô. Hứa chắc chắn thế.
- Cháu sẽ ghi nhớ chuyện nầy.
Chỉ một lát sau, bộ ba thám tử đã ngồi trong bóng râm của hàng hiên và tham lam nuốt chửng những miến bánh anh đào tuyệt hảo, trong khi những giọt mồ hôi trên cơ thể họ dần khô lại.
- Mình nói cho các cậu hay, còn lâu mình mới tham gia lại một vụ như thế nầy, – Bob vừa rên lên thành tiếng vừa đưa tay nhặt những mãnh vụn cuối cùng trên đĩa.
- Đừng lo, phải hai năm nữa nhà mới quét sơn lại, – Justus nói.
- Mà bấy giờ cô Mathilda đang nợ bọn mình một món. Ai mà biết được chuyện nầy sẽ có ích cho ta thế nào.
Có tiếng chuông reo từ phía xa. Peter dỏng tai lên.
- Có phải máy điện thoại trong Bộ tham mưu không?
- Đúng rối, – Justus. – Cậu nhấc máy đi.
- Không có chuyện đó đâu. Cậu là Thám tử trưởng.
Justus chần chừ và vật lộn với bản thân một thoáng, nhưng cũng như bao lần trước đó, tính tò mò chiến thắng sự lười biếng. Cậu chàng nhấc mình ra khỏi chiếc ghế vườn. nhảy từ hàng hiên xuống và chạy xuyên qua khoảng sân bụi bặm để ngổn ngang đồ củ, hướng về Bộ tham mưu.
Cậu còn về kịp nhấc máy điện thoại.
- Justus Jonas của bộ ba Thám tử đây.
- A, thế là tôi gặp đúng người rồi! – Một giọng phụ nữ đứng tuổi vui vẻ kêu lên.
- Tên tôi là Berrnadette O’Donnell. Tôi muốn nòi chuyện một trong ba các cậu. Justus, cậu là người chỉ huy doanh nghiệp, đúng không?
- Đúng như thế. Tôi có thể giúp gì cho cô ạ?
Thế nầy nhé, tôi người Malibu Beach và đã nghe kể nhiều về các cậu. Người ta nói rằng chuyên ngành chính của các cậu là những hiện tượng siêu nhiên.
Justus ngượng ngùng hắng giọng.
- Nó là chuyên ngành có lẽ hơi quá lời, nhưng cô cũng có phần có lý. Bộ ba chúng tôi quả đã giãi quyết được một vài vụ thoạt đầu đã gây ấn tượng như là chuyện ma ám, quỷ hờn.
- Tuyệt quá! – Bà O’Donnell vui vẻ kêu lên, – Thế thì các cậu đúng là những người tôi đang tìm gặp! Tôi có một vụ cho các cậu!
- Chuyện về ngôi nhà của cô bạn gái Elouise Adams của tôi.
- Ngôi nhà đó làm sao ạ?
Bernaderre O Donnell cười khẽ.
- Ở đó không có ma.
- Sao kia?
- Tôi biết, nghe có vẻ điên rồ, nhưng trong nhà của Elouise không có ma.
Justus bối rối.
- Như thế thì … thế thì rất hay. Đúng không?
- Đúng, – O Donnell đồng tình.
- Như thế không phải chỉ hay không đâu, mà còn là rất tuyệt nữa kia. Vấn đề chỉ là, chúng tôi cần bằng chứng cho chuyện nầy.