Lúc Hoắc Thời Anh nói câu cuối cùng lộ ra một thoáng tùy tiện, Ô Thái Lợi ở dưới chân thành cứ gãi đầu gãi tai suốt cảm thấy có chỗ nào đó không đúng, người vừa mới tới đứng ngay bên cạnh ông ta quay đầu sang hỏi: “Thế nào?”.
Ô Thái Lợi lại gãi gãi đầu, cạo cạo cao răng cuối cùng không nghĩ ra được nguyên do, đành bảo: “Ta cứ có cảm giác không ổn lắm, hình như dễ dàng quá, Hoắc Thời Anh không giống người biết đầu hàng.”
Ông ta vừa nói xong thì bên phía doang trại Lô Long đột nhiên truyền đến một tiếng còi chói tai, tiếng còi ấy là âm thanh trao đổi tin tức của các nhân sĩ Trung Nguyên trên giang hồ, Ô Thái Lợi là tướng lĩnh cấp cao của tộc người Khương quanh năm thay đổi chỗ ở trên thảo nguyên, nên không biết đó là gì, tuy trong lòng có nghi ngờ những không biết nên phản ứng sao cho phải, ông ta và Cống Đông đưa mắt nhìn nhau chẳng nghĩ ra được ý kiến gì hay.
Ở bên này Hoắc Thời Anh ở trên đầu tường thành, Vệ Phóng và sáu vị hộ vệ buộc khăn đỏ đứng ở phía sau lưng nàng đã châm lửa vào mũi tên, đồng loạt bắn về phía chân tường chỗ tòa tháp, dù trải qua trận mưa lớn đêm qua, mái hiên tuy có ướt nhưng chân tường vẫn khô ráo, những thùng dầu gặp lửa lập tức bốc khói đen cuồn cuộn chỗ chân tường.
Sau tiếng còi không lâu bốn bề doanh trại Lô Long chìm trong làn khói đen mù mịt, sắc mặt Ô Thái Lợi bên ngoài thành tái mét, hét toáng lên: “Không hay rồi, Hoắc Thời Anh muốn chạy trốn. Mau thổi kèn, tiếp tục tấn công! Nhanh lên!”.
Tiếng kèn xung phong “u u” vang lên, càng có thêm nhiều những chiếc thang xếp gác lên tường thành, người Khương tạo thành một nhóm trèo lên tòa tháp, sau đó lại đồng loạt bị khói hun cho phải thối lui, nhìn thấy đâu đâu trên tường thành cũng toàn là khói đen dày đặc, Ô Thái Lợi ở dưới chân thành tức đến nỗi giậm chân ân cần hỏi thăm tám đời tổ tông của Hoắc Thời Anh, Cống Đông ném cho ông ta một ánh mắt đầy khinh bỉ, rồi thúc ngựa bỏ đi.
Hoắc Thời Anh xuống khỏi tòa tháp, lớp khói đen cuồn cuộn phía sau đã bắt đầu lan ra khắp nơi, Hoắc Thời Anh dặn dò Vệ Phóng dẫn theo một trăm binh sĩ châm lửa rút lui trước, rồi quay người đi tới chỗ sáu vị hộ vệ của cha nàng đang đứng đợi, sư phụ của nàng tay cầm dây cương con Phi Long đứng ở chính giữa.
Hoắc Thời Anh đi đến đón lấy dây cương, chuẩn bị lên ngựa. Vừa mới bước được một bước, thì thân hình vững chãi như một tòa tháp sắt của sư phụ vẫn im lìm không chịu di chuyển: “Làm gì vậy?” Hoắc Thời Anh ngẩng đầu hỏi ông ta.
Trên khuôn mặt vuông vức của người đàn ông, là điệu bộ cuống quýt thoắt trắng thoắt đỏ như thể táo bón, Hoắc Thời Anh bất lực nói với ông ta: “Doanh trại Lô Long dù thế nào cũng phải cháy suốt một hai canh giờ, giờ đã sắp qua giờ Tỵ rồi, cho đến sau buổi trưa thì người Khương tuyệt đối không đâm thủng được doanh trại Lô Long đâu, cha con không chém được đầu của con đâu, người đừng lo.”
Cánh môi người đàn ông run rẩy kích động, cuối cùng thốt lên: “Ta nói không phải chứ con, con, con nói xem, con tốt xấu gì cũng là Quận chúa của vương phủ, sao có thể nói ra những lời lẽ như vậy được hả? Tên, tên Ô Thái Lợi kia là, là cái thá gì chứ.”
Hoắc Thời Anh vô cùng hối hận, vừa nãy nàng ở trên đầu tường thành cò cưa với Ô Thái Lợi, thế quái nào lại quên mất vị sư phụ trung thành mù quáng chết tiệt này chứ, vị sự phụ này của nàng nghe nói là hào kiệt một phương xuất thân từ gia đình hiển hách trong chốn võ lâm thời xa xưa, khi còn trẻ khoái ý phiêu bạt giang hồ, cuộc sống tự do tự tại, nhưng tính tình lại hơi ngốc, bị cha nàng cho rơi vào bẫy, rồi cứu ông một mạng, từ đó về sau ra sức phục vụ cho cha nàng, theo lý mà nói, kiểu người có tính cách như ông thì phần có ơn phải trả có thù phải báo nên chiếm tỉ lệ trội hơn phần trung nghĩa chu toàn mới đúng, nhưng ông lại hết lần này đến lần khác hết mực trung thành cúc cung tận tụy với cha nàng, hơn thế còn đặc biệt trung thành đến mức mù quáng, Hoắc Thời Anh sinh ra muộn vài năm, không rõ hồi còn trẻ cha nàng đã gây họa cho người ta thê thảm đến mức nào, vả lại nói thực lòng nàng cũng không muốn biết mấy cái chuyện xưa năm cũ ấy, nàng luôn cảm thấy ngày nào mà mình biết thì ngày đó sẽ cảm thấy rất mất mặt, vì xưa nay nàng chưa bao giờ có lòng tin vào nhân phẩm của cha mình, chỉ là hiện giờ việc hệ trọng hơn cả cháy nhà chính là, lửa cháy tới đít rồi mà sao ông già này vẫn còn tâm trí đứng đây lằng nhằng bắt bẻ nàng?
Đối phó với kiểu người này thường Hoắc Thời Anh không hơi đâu sống chết đối chọi tới cùng, vì những người như vậy đều có quan điểm riêng, ông ấy cũng không thể hiểu được suy nghĩ của nàng, nếu thật sự tranh luận với ông ấy, nói không chừng chưa chắc đã nói lại được, nàng tóm luôn Tiểu Lục đang ngoan ngoãn đứng ở bên cạnh lại, đẩy vào lòng vị sư phụ: “Người dẫn thằng bé theo nhé, nó còn nhỏ, người phải chăm sóc nó cẩn thận đấy.”
Hoắc Thời Anh gạt sư phụ ra, xoay người lên ngựa, bực bội nghĩ, Quận chúa vương phủ gì chứ, nơi Quận chúa vương phủ ở là lầu son gác tía, quần áo lụa là gấm vóc, đi trên đường phải có ba người hầu dìu đỡ, ra khỏi cửa phải có tám cỗ xe ngựa đi theo, nàng là Quận chúa sao? Nàng chỉ là một Đô úy quèn tòng ngũ phẩm chốn biên quan mà thôi, quận chúa cái khỉ gì.
Trên lưng ngựa, Hoắc Thời Anh hét to về phía Tần gia đang định chạy theo Vệ Phóng: “Tần Xuyên, ông đừng chạy linh tinh nữa, mau tìm một con ngựa rồi đi cùng ta.”
Tần gia đau khổ quay người lại đáp: “Ôi Đô úy ơi, làm gì còn con ngựa nào, doanh kị binh cưỡi đi hết cả rồi, chuồng ngựa chỉ còn lại lông ngựa thôi.”
Hoắc Thời Anh cầm roi chỉ về phía mấy vị hộ vệ buộc khăn đỏ phía sau: “Ông thử đi thương lượng với mấy vị quan gia đó đi, xem xem bọn họ ai đồng ý dẫn ông theo cùng.”
Tần gia nhăn mặt cười khổ sở nói: “Không được đâu, ta sẽ chạy theo bọn họ, năm mươi dặm chỉ trong một canh giờ thôi mà.”
Hoắc Thời Anh lườm ông ta một cái, thúc chân vào bụng ngựa phi đi, vứt lại cho ông ta một câu: “Nhanh lên, ông dám thử chạy ta xem?”.
Tần gia vác bộ mặt ủ rũ lê người đến giữa mấy vị hộ vệ, có một người đàn ông trong số đó giơ tay ra nhấc ông ta lên ngựa, vắt nằm ngang trước yên, trong nháy mắt mấy con ngựa lao vụt đi như một cơn gió, để lại đằng sau doanh trại Lô Long chìm trong biển lửa bốc lên tận trời xanh.
Triều đình Đại Yến năm Cảnh Đức thứ ba, ngày mùng tám tháng Tám âm lịch, đại quân của người Khương đánh chiếm phòng tuyến đầu tiên của doanh trại Lô Long ở phía Tây Bắc biên quan, cuộc chiến chống lại sự xâm lược của dị tộc đã thiêu cháy hết một nửa Trung Nguyên cho đến tận ngày nay vẫn được hậu thế gọi là “Quốc nạn Cảnh Đức” đã chính thức được kéo màn.
Cửa khẩu Gia Định nguy nga sừng sững tọa lạc cách đó hơn năm mươi dặm, trên đầu tường thành không có binh lính canh giữ, cửa thành đóng chặt, xung quanh không thấy một bóng người, giống như một tòa thành trống, đối lập với bầu trời ngùn ngụt ánh lửa bên phía doanh trại Lô Long, thì bầu không khí ở đây mang theo mùi vị của dân cư đông đúc thoang thoảng trong những cơn gió lướt qua.
Bầu trời sau cơn mưa xanh biếc như được gột rửa, ánh mặt trời chói chang rực rỡ, đã sắp đến buổi trưa, trên con đường dẫn đến cửa khẩu Gia Định vốn dĩ không một bóng người đột nhiên khói bụi bốc lên cuồn cuộn, một nhóm đàn ông mồ hôi vã ra như tắm chạy tới, từ đằng xa đã nghe thấy tiếng bọn họ hò hét: “Mau mở cửa cho ông, bọn ông là lính giữ thành của doanh trại Lô Long!”.
Trên đầu tường thành, vị quan trấn giữ cửa khẩu Gia Định vuốt chòm râu dài cười mắng: “Cái đám binh càn quấy chết tiệt này.” Nói đoạn xoay người dặn dò hộ vệ đứng bên cạnh: “Mở cửa thành đi, để bọn họ vào.”
Người nào người nấy đều mất hết vũ khí, trên người không mặc quân phục, đám binh càn quấy chạy thẳng một mạch tới đây đầu cổ mặt mũi toàn là bụi đất trông giống dân tị nạn hơn, xông qua cửa thành rồi liền tìm ngay một quán ăn để nghỉ ngơi. Người phía sau càng lúc càng nhiều, cuối cùng đến cả cổng thành cũng không chen vào được, những người đến đầu tiên di chuyển ra phía sau, cuối cùng trên con phố lớn không một bóng người ngay trước cửa thành chen chúc toàn là dân tị nạn, những người này lộn xộn nghiêng đông ngả tây, nhưng không một ai chạy lung tung, cũng không một ai đặt chân vào khu dân cư trống không cả.
Hoắc Thời Anh dẫn theo sáu vị hộ vệ thân tín của cha nàng là những người cuối cùng xông qua cửa thành, trên đường đi nàng xua đám binh lính mất trật tự đi như đang xua vịt.
Vị quan trấn giữ cửa khẩu Gia Định đứng trước cửa thành nghênh đón Hoắc Thời Anh, Hoắc Thời Anh ghìm cương nhảy xuống từ trên mình ngựa, cung tay hành lễ với ông: “Vương đại nhân, tình hình thế nào rồi?”.
Vị quan trấn họ Vương, tuổi đã ngoài sáu mươi, thân hình có hơi phương phi, trong lúc đi lại chân phải có hơi tập tễnh, ông nhận một vái của Hoắc Thời Anh rồi trả lễ đáp: “Mười ngày trước đại quân đã lên đường rồi, mấy ngày qua các thương hộ và dân chúng của cửa khẩu Gia Định cũng đã dần dần rời đi kha khá, hiện giờ trong thành ngoài trừ mười mấy lão binh già tự nguyện ở lại đây cùng ta, thì về cơ bản là không còn ai.”
Hoắc Thời Anh nhìn những căn nhà trống không trên phố, trong lòng đã hiểu rõ, nàng lại hỏi: “Lúc Đại tướng quân đi có để lại lời nhắn gì cho ta không?”.
Vị quan già trấn giữ thành nhìn đám người dài dằng dặc dọc cả một con phố, khó xử nói với Hoắc Thời Anh: “Lúc đi Đại tướng quân để lại cho Đô úy hai trăm binh mã, nhờ lão phu chuyển lời tới Đô úy rằng, đi thẳng về hướng Nam, đuổi theo đại quân. Nhưng thật không ngờ Đô úy có thể cầm cự được ở doanh trại Lô Long suốt ba ngày lại còn có thể dẫn được nhiều người quay về đến vậy.” Vị quan già giữ thành nhìn mảng đầu người đen kịt kín cả con phố, khuôn mặt tràn đầy lo âu.
Hoắc Thời Anh hơi giơ tay lên ngăn lại đáp: “Vương đại nhân không cần phải lo lắng, ta tự có sắp xếp.”
Hoắc Thời Anh gọi Vệ Phóng, Lô Tề và Phùng Tranh tới gần dặn dò một lượt, sau đó chia hai nghìn người dẫn theo từ doanh trại Lô Long đang ở trước cửa thành thành bốn đội, Lô Tề, Vệ Phóng, Phùng Tranh mỗi người chỉ huy một đội, mỗi đội có sáu trăm người, binh lính tự mang theo lương khô của mình, từ giờ bắt đầu hành quân cấp tốc, Hoắc Thời Anh dẫn theo hai trăm người, cưỡi ngựa bọc hậu. Cửa khẩu Gia Định thẳng đến Cam Ninh có đến hơn một trăm dặm đường núi đi men theo vách đá, đây là con đường bắt buộc phải đi qua nếu muốn đến phủ Lương Châu, chỉ cần ra khỏi con đường này tầm một trăm dặm thì chính là vùng đất Cam Ninh bằng phẳng rộng rãi, đến lúc ấy ba đội quân tản ra trà trộn vào với bách tính chạy nạn xung quanh thì coi như giữ được một nửa tính mạng.
Hai nghìn lính nghe theo một loạt mệnh lệnh, động tác mau lẹ chia thành các đội nhỏ, có một người ở bên cạnh Hoắc Thời Anh định lướt qua người nàng như thể không có việc gì xảy ra ý chừng muốn xuất phát trước cùng với đội ngũ.
Hoắc Thời Anh thấy thế mới vội vàng thò tay khoác lên vai ông ta, kéo quay lại: “Đi đâu vậy?”.
Tần gia quay người lại với vẻ mặt bất chấp: “Ta muốn đi cùng bọn họ.”Hoắc Thời Anh nhìn thẳng vào đáy mắt ông ta nói: “Không được, ông phải đi theo ta, ông không ở đây trong lòng ta thấy thấp thỏm không yên.”
Khuôn mặt Tần gia lộ ra vẻ cầu xin: “Gia đình ta ở trấn Dư Loan của La Lhành, cách Lương Châu có hai mươi dặm thôi.”
Hoắc Thời Anh lạnh lùng nhìn ông ta: “Vậy thì sao?”.
Tần gia ngoái đầu nhìn đội ngũ đang chuẩn bị xuất phát, thì thầm van xin: “Ta là con trai độc nhất trong nhà, mười mấy năm trước em gái đã đi lấy chồng rồi, trong nhà giờ chỉ còn lại mỗi mẹ già thôi.”
Thanh âm của Hoắc Thời Anh buốt giá như trời đông: “Ông tính đào ngũ hả? Ông có tên trong danh sách quân đội, trong hộ tịch ở dưới quê của ông sẽ ghi chép lại trong sổ sách, cứ đợi đến khi thiên hạ thái bình đi đã, ông tưởng mình có thể trốn đông trốn tây cả đời được chắc?”
Tần gia dường như sắp quỳ lạy Hoắc Thời Anh đến nơi: “Ta chỉ có một mẹ già thôi, ta làm lính đã mười tám năm nay rồi, chưa hiếu kính được bà ngày nào, ta không đào ngũ đâu, thật đấy, sắp xếp cho mẹ xong, ta sẽ tìm đội ngũ của đại tướng quân mà.”
Ánh nhìn của hai người nhìn xoáy vào trong đáy mắt đối phương, cuối cùng cánh môi mỏng của Hoắc Thời Anh khẽ động đậy, lạnh lùng phung ra hai chữ: “Không được.”
Tần gia ngẩng đầu nhìn trời, tuyệt vọng nhắm chặt mắt lại, lệ rơi khỏi khóe mắt nói: “Hoắc Thời Anh, lão tử nợ gì cô chứ? Ta là cha cô à? Sao cô lại bám ta như vậy?”.
Ngữ khí của Hoắc Thời Anh vẫn lạnh lùng như trước: “Mười hai tuổi, lần đầu tiên ta ra khỏi cửa khẩu tuần tra gặp phải người Khương, toàn đội hai trăm người gần như chết sạch, không chết thì cũng bỏ chạy hết, nửa đêm ông quay lại lôi ta ra từ đống xác người chết. Mười sáu tuổi, chúng ra rời khỏi cửa khẩu đi trinh sát, lúc quay về ta rơi vào hang sói, ngã gãy chân, mấy con sói vây quanh định ăn thịt ta, vốn dĩ ông có thể bỏ chạy, nhưng lại chạy ngược lại xông vào giữa, giết chết con sói đầu đàn, bản thân suýt chút nữa là mất mạng, ngựa cũng bị sói cắn chết, ông cõng ta đi suốt bảy ngày chỉ còn chút hơi tàn tha ta trở về doanh trại Lô Long. Mười bảy tuổi, chúng ta bị bao vây ở Mã Pha cách doanh trại Lô Long hơn bảy mươi dặm, ta bị chém trọng thương, viện binh chậm chạp mãi không thấy đến, chúng ta không nước không lương, bị vây khốn suốt mười bảy ngày, đến cuối cùng ta lên cơn sốt cao hôn mê, cứ mỗi khi khát nước khó chịu là lại có nước ấm đưa tới tận miệng, ông nói với ta đó là máu ngựa, ta giả vờ như không biết, nhưng trong lòng hiểu rất rõ thịt ngựa ăn hết rồi lấy đâu ra máu, đó là máu của ông, ta dựa vào máu của ông cầm hơi. Những chuyện này cha ta chưa từng làm cho ta.”
Khuôn mặt Tần gia vặn vẹo nghe xong, quát lên: “Nếu cô đã nhớ lão tử từng cứu cô nhiều lần như vậy, thì tại sao còn không tha cho ta một lần?”.
Hoắc Thời Anh vỗ vỗ vai ông ta, lạnh lùng nói: “Coi như lần này ta vì tình riêng đi, trận chiến phía sau không biết sẽ khó khăn gian khổ đến mức nào, tha cho ông đi ta sợ ông sẽ chết trong chiến loạn, không giữ ông lại bên người thì trong lòng ta bất an, ta bất an thì sẽ không đánh trận được, ông cũng đừng nghĩ đến chuyện chạy trốn làm gì, ta sẽ bảo bọn Vệ Phóng cử người đi, nhất định sẽ sắp xếp ổn thỏa cho mẹ ông.” Nói xong nàng quay người lại quát: “Lý Thành Thanh, người canh chừng ông ta cho con, nếu ông ta bỏ trốn con sẽ hỏi tội người.” Sau đó nàng không chút mảy may thương tình vứt ông ta về phía sư phụ của mình, rồi không để ý gì đến ông ta nữa.
Hoắc Thời Anh xử lý Tần gia xong, quay lại thì bọn Vệ Phòng, Lô Tề đã chỉnh đốn đội hình đội ngũ ổn thỏa.
Hoắc Thời Anh dặn dò chuyện của Tần gia với Vệ Phóng và Lô Tề xong thì không dư thời gian phí lời với bọn họ nữa, nàng dẫn bọn họ theo suốt hai năm nên biết bọn họ có bản lĩnh trời sinh sống sót thoát khỏi kiếp nạn, nàng gọi Phùng Tranh tới gần, sau đó đẩy Tiểu Lục đến bên cạnh hắn nói: “Đây là nô tài trong nhà của Hoắc gia ta, đứa trẻ này từ khi sinh ra đã được bồi dưỡng để giành cho ta, nó còn nhỏ, con đường sau này còn dài, xin nhờ Phùng Thủ ngự giúp ta dẫn nó sống sót ra khỏi đây.”
Phùng Tranh nhìn Hoắc Thời Anh bằng ánh mắt lạnh lẽo dùng nhiều thành quen, sau đó nói: “Trách nhiệm cô nói ta hiểu, ta sẽ không bao giờ bỏ mặc sự sống chết của sáu trăm người để tìm chết đâu, cô không cần phải đặc biệt giao đứa trẻ này cho ta.”
Hoắc Thời Anh cười cười cung tay đáp: “Xin nhờ Phùng Thủ ngự.”
Tiểu Lục rất ngoan ngoãn đến đứng bên cạnh Phùng Tranh, không nói năng gì, nó hiểu, hiện giờ nếu nó còn đi theo Hoắc Thời Anh thì sẽ trở thành vật cản của nàng. Phùng Tranh nói với Hoắc Thời Anh: “Đô úy còn gì cần dặn dò nữa không? Nếu không thì bọn ta đi đây.”
“Đợi một lát.” Hoắc Thời Anh quay người lại chìa tay về phía sáu người đàn ông buộc khăn đỏ, không chút khách khí nói: “Có tiền không? Có thì lấy hết ra đây.”
Mấy người đàn ông do sư phụ của Hoắc Thời Anh là Lý Thành Thanh dẫn đầu, thành thực móc hết tiền trong người ra, Hoắc Thời Anh thu gom lại được mười mấy lượng bạc vụn, và hai tờ ngân phiếu năm mươi lượng, nàng nhét cả vào tay Tiểu Lục: “Cầm lấy, các ngươi không biết lúc nào mới có thể đuổi kịp binh mã của Đại tướng quân, một khi người Khương tiến vào cửa khẩu rồi sẽ loạn lạc lắm, trên đường cầm theo tiền có thể đổi được một ít thức ăn.”
Tay chân Tiểu Lục trở nên run rẩy luống cuống, khuôn mặt nhỏ nhắn đỏ bừng, trong mắt ầng ậc nước mắt đẩy tay Hoắc Thời Anh nghẹn ngào nói: “Đô, Đô úy, Tiểu Lục, có, có tiền rồi, người giữ lại cho mình đi.”
Tiểu Lục làm sao đẩy lại được Hoắc Thời Anh, nàng lật cổ tay nhét hết số bạc vụn và ngân phiếu vào lòng nó, vỗ vỗ bả vai rồi khoát khoát tay nói: “Đi đi.”
Phùng Tranh xoay người đi về phía đội ngũ của mình, Lô Tề, Vệ Phóng ai nấy đều hành một lễ với nàng rồi đồng thanh nói: “Đô úy bảo trọng.” sau đó cũng không dây dưa lằng nhằng rời đi.
Tiểu Lục đi một lúc lại quay lại nhìn, nước mắt cuối cùng cũng không kìm được rơi xuống, Hoắc Thời Anh quay người lại hô to: “Lên ngựa!” Hai trăm binh sĩ lập tức lên ngựa, động tác chỉnh tề dứt khoát.
Hai trăm kị binh đưa mắt nhìn theo lớp bụi đất cuồn cuộn dâng lên theo bước chân của hơn một ngàn binh mã, đi qua con phố dài, xuyên qua toàn bộ cửa khẩu Gia Định cuối cùng biến mất khỏi tầm nhìn.
Hoắc Thời Anh ở trên lưng ngựa nói với Vương đại nhân giữ thành: “Sau khi bọn ta đi rồi Vương đại nhân có dự tính gì không?”.
Trên khuôn mặt già nua nhuốm đầy vẻ phong sương nở nụ cười hiền hậu: “Đô úy yên tâm, tuy lão phu đã già nhưng nhất định sẽ kiên trì giữ thành cho đến người cuối cùng, chắc chắn sẽ kéo dài thời gian cho Đô úy đến giờ phút cuối cùng.”
Hoắc Thời Anh cau mày nói: “Vương đại nhân, thế của người Khương rất mạnh, ông mở cổng thành đi, tạm thời nhẫn nhịn một thời gian, đợi bọn ta quay trở lại.”
Vị quan già giữ thành lại chỉ cười mà không nói, cung tay hành một lễ với Hoắc Thời Anh, sau đó lui về sau đứng sang một bên.
Hoắc Thời Anh biết có khuyên nữa cũng vô dụng, liền cưỡi ngựa phi nước đại rời đi, lẫn trong tiếng vó ngựa ầm ầm vang lên giọng nói sang sảng đầy phấn chấn: “Mong rằng năm sau khi Quận chúa về bái tổ, sẽ chuyển lời của lão đến tướng quân, chức trách đời sau của lão Vương ta vẫn sẽ là dắt ngựa cho lão nhân gia người.”
Lúc Hoắc Thời Anh quay đầu lại, thân hình già nua lại một lần cúi thật sâu xuống dưới đất, mãi cho tới khi nàng không nhìn thấy gì nữa cũng vẫn chưa đứng thẳng dậy, bậc quan của Vương đại nhân to hơn nàng, cái cúi người này của ông là giành cho tổ phụ nàng, nàng là thay mặt cho Hoắc gia nhận cái lễ này của ông, công việc thời còn trẻ của Vương đại nhân là dắt ngựa cho tổ phụ, mười bảy tuổi tòng quân, trấn thủ cửa khẩu hơn bốn mươi năm, đến cuối cùng lại vùi xương chốn quan ải.
Ngày mùng tám tháng Tám cửa khẩu Gia Định bị phá, Vương đại nhân giữ thành dẫn theo năm mươi vị tàn binh tử chiến đến giây phút cuối cùng, sau đó lấy thân tuẫn quốc.
Hoắc Thời Anh dẫn theo hai trăm kị binh bọc hậu, bị đám người Khương đã phá được cửa khẩu Gia Định đuổi kịp chặn đường, nàng có một cuộc phục kích quy mô nhỏ với đám người Khương trên những con đường núi, dưới tình thế địch đông ta ít liền dẫn theo tàn binh chạy vào trong núi hoang, đánh du kích giữa chốn núi non trùng điệp với người Khương suốt nửa tháng trời, mãi cho đến khi đạn hết lương cạn, hai trăm binh sĩ đi theo nàng gần như bị tiêu diệt hoàn toàn. Đến cuối cùng trong một trận đánh, nàng dẫn theo sáu vị hộ vệ và Tần Xuyên nhảy xuống sông Hoành.
Sông Hoành là một nhánh rất nhỏ của sông Vị nằm vắt ngang qua toàn bộ Trung Nguyên, bọn họ bơi xuống phía Nam bị trôi quá hai trăm dặm, đợi đến khi lên được trên bờ thì đã qua phủ Lương Châu rồi, mấy người không một xu dính túi, trà trộn cùng với đám dân tị nạn vật lộn mãi mới đến được bờ sông Vị, đợi đến khi bọn họ ở bên bờ này sông Vị Giang Bắc vung đao mạnh mẽ chém giết quân đội của người Khương, rồi lao được sang bờ bên kia thì đã cách lúc bọn họ rời khỏi doanh trại Lô Long được tròn hai tháng.
Hiện giờ đại quân của người Khương đã thẳng tiến quét sạch già nửa Trung Nguyên, chia nhau đóng quân hai bên bờ sông Vị với đại quân Trung Nguyên.