Thịt mông dê này được dùng làm thuốc mỡ, quả thực vừa vào miệng đã tan, còn có vị ngòn ngọt. Lý Vị đút liên tiếp ba bốn miếng, thấy nàng cứ mãi lắc đầu mới dừng tay.
Sau hội tiễn hỏa, Lý Vị đi một chuyến đến phòng rèn.
Cửa vào phòng rèn hầm hập khí nóng, hơi nước lượn lờ, tiếng gõ xủng xẻng ồn ào và gấp gáp. Hang núi rộng rãi mà sâu, không khí ngột ngạt. Lý Vị quét mắt nhìn sơ qua, ước chừng có hơn bốn, năm chục người, người nào người nấy để ngực trần, mặc quần đùi, thân ướt đẫm mồ hôi, vung cái búa sắt to đùng đóng khí cụ sắt.
Hộc Tát Bùi La thấy có người tới, ban đầu ngăn Lý Vị ở ngoài phòng rèn: “Chỗ riêng trong tộc, xin quý hữu hãy dừng bước.”
“Mong được nói chuyện với Mai Lục một lúc.”
Hai người trao đổi ngoài phòng rèn, Hộc Tát Bùi La biết Lý Vị muốn đi vào thăm dò tình hình của phòng rèn, vì sợ gây ra phiền phức gì nên có ý từ chối. Lý Vị trầm ngâm chốc lát, chỉ hỏi: “Dám hỏi Mai Lục, số lượng binh khí rèn mỗi tháng hiện giờ có so được với sáu, bảy năm trước không?”
Hộc Tát Bùi La ậm à ậm ờ, thật lâu sau mới nói: “Chỉ có hơn chứ không kém.”
Đây là sự chuẩn bị của người Đột Quyết trước trận đại chiến trong tương lai.
Lý Vị rời quân doanh mấy năm, việc có chiến đấu hay không kỳ thực không liên quan tới hắn lắm. Nhưng nếu các con đường ở Tây Vực bị chiến hỏa chặn đứng, thương lữ không có đường để đi, các quận Hà Tây kiếm sống nhờ vào đường kinh doanh buôn bán lâm cảnh bị quấy rầy cướp bóc, dân chúng lầm than, thì hắn cũng chẳng thoát thân nổi.
Mấy ngày sau, có một nhánh gồm hai, ba chục người Đột Quyết đến lấy binh khí.
Binh tướng đi đầu kiểm kê số lượng một lượt, đóng cuốn sổ nhỏ trên tay rồi sai người chuyển hết lên xe.
Xuân Thiên đứng cách đó ít xa nhìn toán quân Đột Quyết, lại thấy Lý Vị dùng bút than viết mấy con chữ sau đó đưa cho binh tướng kia xem. Binh tướng kia đưa mắt nhìn Lý Vị vài lần, nét mặt bình thản, gật đầu bước đi.
Nàng hỏi Lý Vị: “Chúng ta phải đi theo họ tìm vương gia Hạ Đốt sao?”
Hắn ngẫm nghĩ: “Không cần, ta chỉ chuyển lời cho hắn, đầu nguồn sông Duệ Hí ngay gần núi này, chúng ta đi dọc đầu nguồn xuống phía dưới là được.”
Ngày hai người đi, nhà nhà mang rượu sữa ngựa ra biếu, tiễn biệt hai người. Xuân Thiên bấm ngón tay tính, tới nay nàng đã ở đây gần một tháng.
Bộ Hộc Tát như chốn thế ngoại đào nguyên, thời gian một tháng thấm thoát trôi làm người ta giật mình, lúc đi nàng cũng muôn vàn quyến luyến.
Xuân Thiên được tộc nhân nhiệt tình rót cho bao nhiêu là rượu sữa ngựa, hai gò má nàng ửng đỏ, cặp mắt trong veo, cùng Lý Vị tiếp tục bước vào hành trình trong tiếng chào tạm biệt.
Tiết trời ở ải Bắc man mát, gió lạnh nổi lên, hơi rượu quyện với khí nóng xộc lên mặt.
Nàng và Lý Vị cưỡi chung một con ngựa, sau khi ra khỏi vùng thảo nguyên yên bình, Lý Vị ngoảnh đầu nhìn bộ Hộc Tát đã khuất sâu thăm thẳm trong thảm xanh vô ngần, lại nhìn Xuân Thiên ngồi trước mình, thấy đôi mắt thiếu nữ mông lung, mặt mũi nóng bừng, đã say đến độ mềm nhũn cả người.
Nàng loáng thoáng nghe thấy tiếng Lý Vị gọi mình, mắt nàng lờ đờ mê ly, hồn nhiên vươn hai cánh tay về phía Lý Vị.
Lý Vị thả lỏng dây cương, bọc nàng lại trong thảm nỉ, đặt ở trước người.
Ở bộ Hộc Tát hơn một tháng, mặt nàng đã có tí thịt, nhưng trông vẫn gầy yếu lắm. Nàng cuộn tấm thân nhỏ nhắn lại thành một cục, hương rượu nhàn nhạt tỏa, nép vào trong lòng hắn, khuôn mặt nóng ran áp lên lồng ngực hắn. Lý Vị siết chặt tấm thảm nỉ, lẳng lặng bước đi trong hồi gió.
“Lý Vị.”
Từ trong thảm nỉ, nàng ngửa đầu lên, khuôn cằm nhỏ đặt gọn trong lòng hắn, trên hàng mi cong dài vương vài sợi bông trắng, hắn muốn nhẹ nhàng thổi đi, nhưng lại sợ quấy nhiễu đến nàng.
“Lý Vị.” Nàng nằm cuộn trong thảm nỉ, tay ôm vòng lấy eo hắn, mặt vùi trong ngực hắn cọ cọ hệt con mèo con.
Đúng là hết hồn mà, Lý Vị nhìn nàng đăm đăm, khẽ hỏi: “Muốn uống nước sao?”
Nàng bật cười khúc khích: “Lý Vị.”
Lý Vị dịu dàng trả lời: “Ừ.”
“Lý Vị.”
“Ừ.”
“Lý Vị.”
“Ta ở đây.”
“Tôi buồn ngủ.” Nàng chớp chớp mắt, “Chóng mặt quá...”
“Ngủ đi.”
Ngựa thả chậm bước lại, hắn nghĩ, cho dù quỷ thần ở trên, thì bấy giờ có lẽ cũng đã bị gió bụi che mờ mắt, không thấy được lòng tham của hắn.
Nàng ngủ rất say, chỗ này ấm áp dễ chịu, thoải mái vô cùng, thế là nàng quên hết tất cả, quên mất vì sao nàng lại đến, quên mất phải đi về nơi đâu, quên mất tên chính mình. Nàng chỉ muốn ở đây, ngủ một giấc thật bình yên ngọt ngào.
Hắn xốc mũ trùm đầu của nàng lên, hơi cúi đầu, trộm ngắm nhìn dung nhan xinh đẹp của nàng. Tóc nàng hơi rối, hàng mày dịu dàng, làn da sáng bóng, cánh môi như hoa.
Nụ hôn tựa tuyết đầu mùa khẽ khàng đặt xuống tóc, vầng trán mượt mà của nàng, cuối cùng nhẹ in lên bờ môi.
Đầu nguồn sông Duệ Hí là một dòng suối nhỏ chảy róc rách nằm ẩn trong đồng cỏ xanh ngát, gợn sóng như tuyết, quanh co uốn lượn.
Hai bên bờ sông hoặc có những sắc cỏ lá tươi tắn, bụi hoa rực rỡ, hoặc có rừng cây rậm rạp, khung cảnh rạng ngời, hoặc có lau sậy dập dờn, hoa lau như mây, chảy xuống dọc theo con sông. Nhưng thi thoảng cũng có thể bắt gặp những đàn bò dê và đàn thú lao vun vút, cũng có lều bạt dựng giữa chốn hoang dã. Nói cảnh sắc ven đường chẳng khác nào cõi tiên chốn trần gian cũng không ngoa.
Càng đến gần, thần sắc Xuân Thiên vẫn không có bao niềm vui sướng, mà ngược lại càng thấp thỏm bất an, ưu sầu, thậm chí là sợ hãi.
Nàng vừa do dự vừa rụt rè, cố chấp hỏi đi hỏi lại Lý Vị hết lần này tới gần khác, lòng đầy căng thẳng và hoảng hốt: “Sắp đến rồi sao?”
“Chúng ta đi bao lâu rồi?”
“Đi đường này có đúng không?”
“Còn bao nhiêu ngày nữa?”
“Khoảng nửa tháng.” Lý Vị nhìn vẻ mặt bồn chồn của nàng, từ đầu chí cuối không cách nào an ổn được, “Muốn đi nhanh hơn chút nữa sao?”
Nàng gật đầu, bỗng lại lắc đầu: “Không cần đâu, chúng ta cứ đi từ từ cũng được.”
Ngay cả việc an ủi cảm xúc của nàng hắn cũng bó tay: “Xuân Thiên, đừng lo lắng, bình tĩnh lại.”
Tay Xuân Thiên nắm áo choàng, lại buông ra, rồi lại nắm chặt, vần vần vò vò mãi làm quần áo nhăn rúm ró: “Nếu không tìm thấy cha thì phải làm sao, đã nhiều năm trôi qua, ai biết được là ở mảnh đất nào, nếu chỗ kia không có một thứ gì cả... Nếu nước sông dâng cao, lửa rừng bị nhấn chìm... chẳng tìm thấy gì hết... Nếu chúng ta đi sai đường.... nếu chiến trường năm xưa vốn dĩ không ở đó...”
Tay nàng lạnh buốt, run bần bật.
Những vong hồn kia, rốt cuộc đã vùi xương dưới bãi cỏ xanh nào?
Không đợi Lý Vị đáp, nàng đã tiếp tục dòng suy nghĩ, tự khích lệ bản thân: “Chắc là vẫn còn thôi, chắc chắn sẽ không có sai sót, nếu chúng ta đi, cho dù không thấy thi cốt, thì cũng có mảnh hoàng thổ từng tắm máu nóng để tưởng nhớ về.”
Nàng ngẩn ngơ ngồi xuống, vô thức nhổ ngọn cỏ dưới đất, một lúc lâu sau Lý Vị thấy nàng bụm mặt, bờ vai nhấp nhô, không khỏi buông tiếng thở dài, nhẹ vỗ về tấm lưng gầy của nàng.
Nàng xoay vai tránh khỏi bàn tay hắn.
Cô gái nhỏ bướng bỉnh mà quật cường.
Lý Vị dịu giọng trấn an nàng: “Nhất định sẽ tìm được. Năm đó đô úy Tiểu Xuân rời Cam Lộ Xuyên đến phía Tây tám trăm dặm, đi vào thung lũng Lục Đà tới sông Duệ Hí, gặp bộ tộc Sa Bát La Tăng. Toán quân vỡ trận ở đằng Đông sông, chiến sự biên giới gay go, các quan ải liên tiếp giao chiến với Đột Quyết, không ai thu dọn chiến trường, vùng lân cận cũng không có người ở, lâu lâu chỉ có dân chăn nuôi ngang qua. Chúng ta đi, có lẽ sẽ còn nhặt được vũ khí cung tên hồi ấy.”
Nếu thi cốt không bị dã thú tha đi ăn mất, dẫu có gió táp mưa sa, tuyết rơi khuất lấp, thì khả năng vẫn tìm được rất nhiều xương trắng.
Nàng lặng lẽ nức nở một hồi, lau nước mắt ngồi thẳng người dậy, hỏi hắn: “Luật điển có nói: sĩ binh tòng quân bỏ mạng, nhặt lại di hài tử trận, đưa về huyện nhà, các quan sẽ quyên tặng tiền, nuôi nấng đứa con mồ côi, miễn phu phen lao dịch. Tại sao quân đội không nhặt di cốt, các tướng lĩnh há lại bất chấp, coi thường luật pháp?”
“Luật điển là luật điển, thực tế thì không dễ làm như vậy. Chiến tranh nổ ra dồn dập, trận chiến nào cũng vô số thương vong, luôn ở tình trạng nhiều chẳng đếm xuể. Khi quét sạch chiến trường, quân đội sẽ nhặt di hài của tướng sĩ có phẩm cấp để chôn cất, tiễn quan tài về trước. Tới phần binh lính bình thường, nếu trong quân có bạn thân đồng hương, có thể thu tro cốt rồi nhờ người mang về quê an táng. Còn lại là những người vô danh, vì phòng ngừa dịch bệnh nên đã chôn hoặc thiêu luôn ngay tại chỗ. Nếu hy sinh ở trận doanh của quân địch, tướng lĩnh nào nhân từ sẽ sai sứ đến doanh trại địch lấy di hài, nhưng đại đa số là đi không trở lại.”
“Về trợ cấp và phần thưởng của triều đình thì bị bóc lột từng lớp một, thực tế số tiền đến được nhà của những người chết ấy ít ỏi chẳng có bao nhiêu, không đủ cho cô nhi quả phụ sống qua ngày. Thậm chí có vài tướng lĩnh sợ cấp dưới chết nhiều quá làm ảnh hưởng công trạng, nên thường che giấu nhân số thương vong, làm giả trên giấy tờ.”
Kia miền Thanh Hải quân có thấy, xương trắng chất chồng không người thu. Quỷ mới oán than quỷ cũ khóc, trời đổ mưa dầm tiếng hu hu*.
(*Trích bốn câu thơ bài thơ Binh xa hành - Đỗ Phủ)
“Nếu không đánh giặc thì tốt biết bao.” Nàng lẩm bẩm, “Sẽ không có nhiều người cửa nát nhà tan như thế, không có cảnh ruột rà chia ly, dân chúng an cư lạc nghiệp, các nước hỗ trợ cho nhau, vậy tốt bao nhiêu.”
“Không đánh giặc, cha sẽ không phải chết.” Nàng khẽ giọng nói, “Tất cả đều sẽ khác.”
Nàng chưa bao giờ hết hối hận, nếu tiết Hoa Triêu năm đó nàng không tham ăn, nếu mẹ không gặp Vi Thiếu Tông, nếu cha không chết trận, tất cả đều sẽ khác.
Ngoài nỗi căm hận bản thân, nàng cũng căm hận Vi Thiếu Tông và Diệp Lương đã hợp mưu hại chết cha nàng, căm hận người Đột Quyết vây giết cha nàng. Nhưng đáng hận nhất, có lẽ là cuộc chiến dường như mãi mãi không có hồi kết này.
“Chỉ cần đất nước ở đây, chiến tranh sẽ vĩnh viễn không ngừng.” Lý Vị nói, “Nội chiến, họa ngoại xâm, kẻ ngồi trên vì quyền lợi và tài phú, người ở dưới vì ấm no và mạng sống, tất cả đều phải dùng nắm đấm và máu nóng để tranh giành. Cho dù những năm gần đây mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, thì triều đình vẫn liên tục giao chiến, hằng năm chiến đấu mấy trăm trận lớn lớn nhỏ nhỏ với Bách Việt, Vân Điền, Thổ Phiên, Hồi Hột, Đột Quyết, Tân La, có khi nào từng ngơi nghỉ.”
“Năm nào triều đình cũng trưng binh, quân doanh gian khổ tới vậy, thương vong nhiều tới vậy, vì sao mọi người còn muốn nhập ngũ?”
“Với bình dân thứ môn mà nói, muốn được công danh lợi lộc, có lẽ cần phải có cả văn lẫn võ. Hoặc là lao khổ học tập, đi con đường thi cử làm quan, hoặc là tòng quân giết địch, lấy máu nóng vẽ nên tiền đồ.” Lý Vị thong dong nói, “Nuôi dưỡng một học sinh phải tốn cả gia sản và tâm sức, còn tòng quân có thể miễn thuế, cũng được ấm no, chỉ cần có lòng dũng cảm, không sợ chết là được.”
Nàng hỏi hắn: “Lý Vị, ngài cũng vì người nhà nên mới vào quân Mặc Ly sao?”
Ánh lửa rọi lên khuôn mặt hắn, tăng thêm nét nhu hòa: “Coi là vậy. Hồi ta mười bảy mười tám tuổi, cũng có đôi chút liều lĩnh. Khi đó thích cưỡi ngựa cầm kiếm, thích chơi bời lêu lổng, cũng thích kết giao bạn tốt, lúc ấy đã chán ngán cuộc sống ở thương đội, vốn muốn lang thang khắp nơi một phen, sau đó về nhà lập gia đình. Vân nương lớn hơn ta ba tuổi, sớm đến tuổi dựng vợ gả chồng. Cha chỉ có một đứa con gái, muốn gửi gắm cho ta chăm sóc. Sức khỏe nàng ấy yếu, ta không rời Hà Tây được, nhân duyên trùng hợp sao ta tới quân Mặc Ly, bèn suy nghĩ tìm đường lấy công danh phú quý, còn tốt hơn là làm phàm phu tục tử.”
“Chỉ là cuối cùng ngài vẫn ra khỏi quân Mặc Ly...”
“Đúng vậy.” Hắn thở dài, ngẩng đầu nhìn trời, màn đêm trĩu nặng, sao trăng thao thức, “Ra trận giết địch nhiều năm, cũng sẽ cảm thấy mỏi mệt, công danh lợi lộc chẳng qua là công dã tràng, toàn bộ lợi ích đều vào tay kẻ khác cả.”
Lý Vị thấy nàng nghĩ ngợi miên man, bèn đốt lửa to hơn, dừng cuộc tán gẫu: “Nghỉ sớm một chút, sáng mai phải lên đường.”
Hai người đi giữa đồng vắng hai ngày trời, hôm đó bỗng dưng bắt gặp một đoàn ước chừng có hai, ba chục người, là quân Đột Quyết mặc giáp cầm trường đao, đi ngược dòng sông tới chỗ hai người.
Từ xa xa Xuân Thiên trông thấy nhóm người kia, sực nhớ đến tình cảnh ở trạm Lãnh Tuyền ngày trước, lòng dạ bỗng hoảng loạn. Vẻ mặt Lý Vị lại hết sức bình tĩnh, ghìm cương ngựa, im lặng chờ đám người tiến gần.
Người đàn ông dẫn đầu trông tuổi độ ba mươi với tướng mạo đặc trưng của người Đột Quyết, mắt ưng, mặt tròn, vóc dáng lực lưỡng, thần sắc nghiêm nghị chắp tay chào Lý Vị theo lễ nghi người Hán, nói một câu tiếng Hán cực kỳ lưu loát: “Gặp lại cố nhân, Lý quân có còn nhớ tại hạ?”
Lý Vị gật đầu, ngồi trên ngựa đáp lễ, “Đã lâu không gặp, Điệt La.”
Người đàn ông kia xuống ngựa: “Tát Côn biết anh vào biên giới Đột QUyết, cố ý phái tôi đến mời lang quân đến vương trướng.”
Lý Vị chỉ nói: “Chúng ta có việc cần làm, không nán lại đây lâu được, nếu có duyên, về sau sẽ cùng ôn chuyện.”
“Vương trướng cách nơi đây ít xa, Tát Côn nói, sẽ không để lỡ chuyện lang quân phải làm. Tát Côn đã sai người chuẩn bị rượu và món ngon, đang chờ lang quân.”
“Nếu ta không đi thì sao?” Lý Vị nhìn thẳng vào Điệt La.
Điệt La cười nói: “Tát Côn cũng bảo, nếu Điệt La đến mời, lang quân nhất định sẽ đi. Lang quân nể tình cảm ngày xưa, đi cùng tại hạ một chuyến.”
Hắn nhìn lướt qua đám tùy tùng sau lưng anh ta, toàn là thân binh cường tráng, đang nhìn hai người bằng ánh mắt như hổ rình mồi.
Lý Vị cụp mắt nhìn Xuân Thiên, Xuân Thiên cũng nhìn hắn, Lý Vị giải thích với nàng: “Thân vương Hạ Đốt mời chúng ta tới vương trướng uống rượu, nếu từ chối, chúng ta cũng không đi tiếp được.”
Lý Vị từng nhắc đến thân vương Hạ Đốt lúc ở bộ Hộc Tát, có điều chỉ nói là hồi còn trẻ có gặp một người Đột Quyết đang mắc nạn, Lý Vị đã cứu mạng người này, sau đó kết thân thành bạn bè. Khi ấy hắn chưa biết thân phận của Hạ Đốt, về sau mới phát hiện hắn ta là thứ tử của vua Đột Quyết, sau nữa Lý Vị vào quân Mặc Ly, Hạ Đốt trở lại Đột Quyết.
Xuân Thiên nhỏ giọng hỏi Lý Vị: “Có nguy hiểm không ạ?”
Lý Vị lắc đầu: “Tuy hắn là người Đột Quyết nhưng rất hiểu lễ nghi của người Hán, học thức uyên bác, không hẳn là người xấu. Ở bộ Hộc Tát ta đã gửi thư cho hắn, nhờ hắn mở rộng đường di ven sông Duệ Hí cho chúng ta chút ít.”
Xuân Thiên gật gù.
Hai người theo Điệt La đến vương trướng, trời chiều mây thưa, trước mắt là thảo nguyên bằng phẳng mênh mông vô bờ, mấy ngàn lều nỉ trắng tinh, hàng vạn đốm lửa màu vỏ quýt. Mặt trời lặn xuống phía Tây ngọn núi, nửa mảnh trăng sáng trong dần nhô lên ở đằng Đông. Tập trung nhìn kỹ, hóa ra là một nhánh quân Đột Quyết với số lượng người khổng lồ đóng quân giữa rừng cỏ.
Lý Vị và Xuân Thiên phóng mắt nhìn về phía trận doanh xa xa, cả hai đều sửng sốt. Tiến vào xem, lều bạt trong quân phân bố gọn gàng quy luật, binh sĩ đi tới đi lui, vũ khí bóng loáng, hành động đều răm rắp, khí thế dữ dội, là một nhánh quân Đột Quyết tinh nhuệ và dũng mãnh.
Vào cửa quân doanh, một nhánh quân sĩ áo giáp đứng nghiêm trang, đứng đầu là một người đàn ông trẻ trạc tuổi Lý Vị, người khoác áp giáp vàng chói lòa, tướng mạo tuấn tú, mũi cao mắt sâu, con ngươi màu nâu nhạt, ánh mắt sắc bén như chim ưng lặng lẽ quan sát Lý Vị.
Điệt La dẫn đầu, tất cung tất kính xuống ngựa quỳ gối hành lễ: “Tát Côn, người đã tới rồi.”
Hạ Đốt gật nhẹ đầu, thấy vẻ mặt bạn cũ hờ hững, không một chút sóng gợn hay tí gió lay, phía trước người lại có một thiếu nữ xinh đẹp ngồi, thoạt trông được bảo vệ rất chặt.
Hai người mặt đối mặt, Hạ Đốt bất động, Lý Vị cũng không nhúc nhích, hồi lâu sau hắn mới xoay người xuống ngựa.
Lý Vị chậm chạp nhét roi ngựa vào bên hông.
Tuy Hạ Đốt vẫn cứ đứng im lìm, nhưng đã quen đứng trong tư thế vênh mặt hất hàm, giọng điệu vừa ngông cuồng vừa ngạo mạn: “Bốn năm năm không gặp, khó có dịp đến chỗ ta một chuyến, không vào đây ngồi sao?”
“Ở bộ Hộc Tát ta đã gửi thư cho anh, có chuyện nên phải đến một chuyến, sẽ không ở lại lâu, ngồi hay không ngồi thì có liên quan gì.”
“Anh không chịu đến, là còn giận ta.” Hạ Đốt nói.
Lý Vị phớt lờ hắn ta, đỡ Xuân Thiên xuống ngựa.
Hai người nhìn nhau chằm chằm cả một lúc, Hạ Đốt nhìn thoáng qua Xuân Thiên được Lý Vị chắn sau lưng, cũng chả thèm giới thiệu cho hắn ta gì cả, sóng mắt Hạ Đốt chớp đồng, rốt cuộc ngữ khí cũng chứa ý cười: “Có phụ nữ rồi đấy à? Không tệ, cục đá thông suốt rồi!”
Lý Vị hơi bực, quát khẽ: “Hạ Đốt, im miệng.”
Hạ Đốt nghe thấy lời ấy, quả nhiên ngậm miệng lại, giương cằm lên cao, nói với Xuân Thiên: “Ta tên Hạ Đốt, thân vương Đột Quyết, hắn là bạn cũ của ta.”
Xuân Thiên đứng bên sớm đã chứng kiến cơn sóng ngầm giữa hai người đàn ông. Nàng thấy nét mặt của Lý Vị với Hạ Đốt hết sức lạnh nhạt, lại vì hắn ta là người Đột Quyết, quan hệ khó xử, đành ngập ngừng gật đầu.
“Người ở xa tới là khách, vào ngồi đi, uống chén trà nóng.” Hạ Đốt dẫn đường cho hai người.
Hắn ta đưa Lý Vị và Xuân Thiên đến một căn lều vàng, vén tấm rèm nỉ lên, đập vào mắt Lý Vị là khung cảnh vàng son lộng lẫy, những cái lọ vàng, hũ vàng, cột gỗ vàng, phía sau lều kê một chiếc giường vàng kim.
Lý Vị nhíu mày, cảm giác mắt nổ cả đom đóm, lui bước không muốn vào: “Hạ Đốt, anh làm thế này liệu có hơi quá rồi không?”
“Vương trướng của ta chính là kiểu đấy.” Hạ Đốt Thi Nhiên bước vào, “Mặc dù trông có hơi thô tục, nhưng ban đêm ta cũng đâu có nghỉ ở đây, tạm chấp nhận được.”
Trên chiếc bàn gỗ mạ vàng đã bày sẵn rượu thịt món ngon, Hạ Đốt mời hai người ngồi xuống, nói với người bên cạnh: “Gọi Đôn Xuyết sang đây.”