Vị Thần Cuối Cùng

Chương 4: Chương 4: Chúng tôi đốt vải liệm bằng sắt




Đêm đó tôi mơ thấy Rachel Elizabeth Dare ném phi tiêu vào mặt tôi.

Cô ấy đang đứng trong phòng mình... Được rồi, lùi lại. Tôi phải giải thích rằng Rachel không có một căn phòng. Cô ấy có nguyên cả tầng cao nhất trong dinh thự của gia đình cô ấy, một dinh thự vừa mới được nâng cấp ở Brooklyn. “Phòng” của cô ấy là một căn gác xép to lớn được trang trí bằng dàn đèn chiếu sáng công nghiệp và các cửa sổ bằng kính từ sàn lên đến trần. Nó to gấp đôi căn hộ của mẹ tôi. Tiếng của một bản nhạc alt rock nào đó đang phát ra từ đế cắm Bose được phủ sơn của cô. Đến chừng mực tôi có thể kể, nguyên tắc duy nhất của Rachel về âm nhạc là trong Ipod của cô ấy, không thể có hai bản nhạc nghe na ná giống nhau, và tất cả chúng phải thật lạ tai.

Rachel mặc kimono, tóc tai rối bù như vừa ngủ dậy. Giường cô ấy là một đống hỗn độn. Gần đó có mấy khung tranh phủ vải kín mít. Quần áo bẩn và giấy gói thanh thức ăn năng lượng vương vãi khắp sàn, nhưng khi bạn có một căn phòng lớn như thế, đống rác đó trông chẳng tệ chút nào. Ở phía bên ngoài các cánh cửa sổ, bạn có thể nhìn thấy toàn bộ khu Manhattan khi về đêm.

Bức ảnh cô ấy đang tấn công là một bức vẽ tôi đang đứng trên tên khổng lồ Antaeus. Rachel đã vẽ nó cách đây hai tháng. Mặt tôi trong tranh thật hung dữ – cả đang lo lắng – vì thế thật khó để nói liệu tôi là một chàng trai tốt hay xấu, nhưng Rachel đã nói tôi trông hệt như thế sau trận đánh.

“Các á thần,” Rachel lẩm bẩm khi phóng một cái phi tiêu khác vào bức tranh sơn dầu. “Và các cuộc tìm kiếm ngu ngốc của họ.”

Phần lớn các phi tiêu bị bật ra, nhưng một vài cái thì dính vào. Một cái treo lơ lửng dưới cằm tôi giống hệt chòm râu dê.

Ai đó đấm thình thịch vào cửa phòng cô ấy.

“Rachel!” một người đàn ông hét lớn. “Con đang làm gì thế hả? Tắt ngay cái thứ...”

Rachel vớ cái remote và tắt nhạc. “Mời vào!”

Cha cô ấy bước vào, nhăn nhó, mắt nhấp nháy vì ánh đèn chói gắt. Tóc ông có màu gỉ sắt hơi sẫm màu hơn tóc Rachel. Mái tóc ấy giờ dính bết một bên đầu như thể ông ấy vừa thua trong trận chiến với cái gối. Trên miệng túi áo pyjama lụa xanh da trời có thêu cặp chữ lồng “WD”. Không đùa chứ, ai lại đi thêu chữ lồng lên bộ pyjama cơ chứ?

“Có chuyện gì thế này?” ông ấy hỏi. “Giờ chỉ mới ba giờ sáng thôi đấy.”

“Con không ngủ được,” Rachel nói.

Trên bức tranh, cái phi tiêu rời khỏi mặt tôi, rơi xuống đất. Rachel giấu toàn bộ nắm phi tiêu sau lưng, nhưng ông Dare đã kịp nhìn thấy.

“Vậy... cha hiểu là anh bạn con sẽ không đi cùng đến St. Thomas phải không?” Đó là những gì ông Dare gọi tôi. Không bao giờ gọi là Percy. Chỉ là anh bạn con. Hoặc anh bạn trẻ khi ông ấy nói chuyện với tôi, nhưng cũng hiếm khi ông ấy làm thế.

Rachel cau mày. “Con không biết.”

“Chúng ta sẽ rời đi vào sáng mai,” cha cô ấy nói. “Nếu cậu ta vẫn còn lưỡng lự thì...”

“Cậu ấy chắc chắn sẽ không đến,” Rachel đau khổ nói. “Cha vui chứ?”

Ông Dare chắp tay sau lưng. Ông ấy nghiêm nghị đi tới đi lui trong phòng. Tôi cho rằng ông ấy cũng đã làm như thế trong phòng họp ban giám đốc công ty phát triển địa ốc của mình và làm cho nhân viên dưới quyền ông sợ mất mật.

“Con vẫn mơ thấy những cơn ác mộng đó sao?” ông ấy hỏi. “Con có đau đầu không?”

Rachel ném đống phi tiêu xuống sàn. “Con không nên kể cho cnghe điều đó.”

“Ta là cha con,” ông ấy nói. “Ta dĩ nhiên phải lo lắng về con mà.”

“Lo lắng cho thanh danh gia đình thì có,” Rachel lẩm bẩm.

Cha cô ấy im lặng – có thể vì ông đã nhiều lần nghe lời than phiền ấy trước đây, hoặc có lẽ là do nó quá đúng đi.

“Chúng ta có thể gọi cho bác sĩ Arkwright,” ông gợi ý. “Ông ấy đã giúp con vượt qua được cái chết của con hamster.”

“Hồi đó con mới lên sáu,” cô ấy nói. “Và không, cha, con không cần một bác sĩ tâm lý. Con chỉ...”

Cô ấy lắc đầu tuyệt vọng.

Cha Rachel ngừng lại trước các ô cửa sổ. Ông nhìn ra toàn cảnh thành phố New York như thể ông là người sở hữu nó – nhưng sự thật không phải thế. Ông ấy chỉ sở hữu một phần của thành phố mà thôi.

“Đi chơi xa sẽ tốt cho con,” ông quyết định. “Con có một vài ảnh hưởng không tốt.”

“Con sẽ không theo học ở Học viện Nữ sinh Clarion đâu,” Rachel nói. “Với lại, các bạn con không liên quan đến cha.”

Ông Dare mỉm cười, nhưng đó là một nụ cười lạnh lùng. Nó giống như ông muốn nói, Một ngày nào đó con sẽ nhận ra sao mình lại ngốc đến thế.

“Cố ngủ một ít đi,” ông giục. “Chúng ta sẽ có mặt ở đó vào tối mai. Nó sẽ rất vui đấy.”

“Vui,” Rachel lặp lại. “Đúng, rất vui.”

Cha cô ấy ra khỏi phòng. Ông để cánh cửa mở sau lưng mình.

Rachel nhìn trân trân vào bức chân dung của tôi. Rồi cô ấy bước đến giá tranh được phủải kế bên.

“Tớ hy vọng chúng chỉ là những giấc mơ, cô ấy nói.”

Cô ấy mở tấm vải phủ ra. Trên giá là một bức vẽ phác thảo bằng chì than được vẽ vội vàng, nhưng Rachel là một họa sĩ giỏi. Trong tranh đích thị là Luke ngày còn bé. Hắn khoảng chín tuổi, đang cười toe toét và không có vết sẹo trên mặt. Tôi không hình dung được làm thế nào Rachel có thể biết hắn ta trông như thế nào vào lúc đó, nhưng bức chân dung quá thật đến nỗi tôi có cảm giác không phải cô ấy đoán mò. Từ những gì tôi được biết về cuộc đời của Luke (không được nhiều lắm), bức tranh vẽ hắn vào khoảng thời gian ngay trước khi hắn khám phá ra mình là con lai và bỏ trốn khỏi nhà.

Rachel liếc nhìn bức chân dung. Rồi cô ấy mở giá tranh tiếp theo. Bức tranh này thậm chí còn khiến tôi bối rối hơn. Nó vẽ Tòa nhà Empire State với các tia chớp bao quanh nó. Ở phía xa xa, một cơn bão tối đen đang kéo đến, với một bàn tay khổng lồ ló ra bên ngoài các đám mây. Ở dưới chân Tòa nhà Empire State một đám đông tụ tập lại... nhưng nó không phải là một đám đông du khách hay khách bộ hành bình thường. Tôi nhìn thấy các cây giáo, lao và các lá cờ – quân phục của một đội quân.

“Percy,” Rachel thì thầm như thể cô ấy biết tôi đang lắng nghe. “Chuyện gì đang diễn ra thế?”

Giấc mơ dần tan biến đi, và điều cuối cùng tôi còn nhớ là ước gì tôi có thể trả lời câu hỏi của Rachel.

Sáng hôm sau, tôi muốn gọi cho cô ấy, nhưng ở trại không có điện thoại. Thần Dionysus và bác Chiron không cần một điện thoại cố định làm gì. Họ chỉ việc gọi về đỉnh Olympus thông qua thông điệp Iris bất cứ khi nào họ cần điều gì đó. Và khi các á thần sử dụng điện thoại di động, tín hiệu sẽ khích động mọi con quái vật trong vòng một trăm dặm. Việc đó giống như bạn bắn pháo sáng: Tôi ở đây! Làm ơn chỉnh sửa lại khuôn mặt tôi! Ngay cả khi ở bên trong các hàng rào an toàn của trại, đó không phải là kiểu quảng cáo mà chúng tôi muốn thực hiện.

Hầu hết các á thần (ngoại trừ Annabeth và số ít trại viên) đều không sở hữu điện thoại di động. Và tôi dứt khoát không thể nói với Annabeth rằng, “Này, cho tớ mượn điện thoại của để tớ có thể gọi cho Rachel!” Còn nữa, để gọi điện, tôi sẽ phải rời khỏi trại và đi bộ vài dặm đến cửa hàng tiện lợi gần nhất. Ngay cả khi bác Chiron có cho phép tôi đi, thì khi tôi đến được đó, Rachel cũng đã lên máy bay đến St. Thomas rồi.

Tôi ngồi thui thủi một mình ở bàn của nhà thần Poseidon và cố nuốt bữa điểm tâm chán ngắt. Tôi vẫn tiếp tục nhìn khe nứt trên sàn nhà đá hoa cương. Đây là nơi cách đây hai năm trước, Nico đã tống cổ một đám chiến binh xương khát máu xuống Địa ngục. Hồi ức ấy chẳng làm tôi thấy ngon miệng hơn.

Ăn sáng xong, Annabeth và tôi đi một vòng kiểm tra các nhà. Thực ra, hôm nay đến lượt Annabeth làm nhiệm vụ kiểm tra. Công việc của tôi sáng nay là sắp xếp các bản báo cáo cho bác Chiron. Nhưng vì cả hai chúng tôi đều ghét việc được giao, thế nên chúng tôi quyết định cùng nhau làm để nó sẽ không quá tồi tệ.

Chúng tôi bắt đầu từ nhà thần Poseidon, trên cơ bản nhà chỉ có mình tôi. Tôi đã dọn giường vào sáng đó (ừm, đại khái thế) và chỉnh lại cặp sừng của con Minotaur treo lệch trên tường. Vì thế, tôi tự cho chính mình điểm 4/5.

Annabeth nhăn mặt. “Cậu quá rộng lượng đấy.” Cô ấy dùng đuôi cây bút chì để lấy lên một cặp quần chạy bộ cũ của tôi.

Tôi giật chúng lại. “Này, tha cho tớ lần này đi. Tớ không có Tyson phụ giúp việc lau dọn trong mùa hè này.”

“3/5,” Annabeth nói. Tôi biết tốt hơn là không nên tranh cãi, vì thế chúng tôi đi tiếp.

Tôi cố đọc lướt qua chồng báo cáo của bác Chiron khi đi. Chúng là các thông điệp đến từ các á thần, các tinh linh tự nhiên, và các thần rừng trên khắp cả nước, viết về hoạt động mới nhất của quái vật. Chúng thật chán, và bộ não mắc chứng hiếu động thái quá của tôi không thích tập trung vào những thứ nhàm chán.

Các trận đánh nhỏ đang xảy ra khắp nơi. Việc tuyển thêm người cho trại là bằng không. Các thần rừng đang gặp rắc rối trong việc tìm kiếm các á thần mới và mang họ đến Đồi Con Lai vì có quá nhiều quái vật đang lang thang khắp nước. Thalia, bạn đầu các Thợ Săn của nữ thần Artemis, cũng bặt vô âm tín trong nhiều tháng qua. Và nếu nữ thần Artemis biết được điều gì đã xảy ra với họ, cô ấy cũng chẳng chịu chia sẻ thông tin.

Chúng tôi ghé nhà nữ thần Aphrodite, dĩ nhiên, họ giành điểm tối đa 5/5. Giường được dọn sạch sẽ gọn ghẽ. Áo quần đặt trong các rương cá nhân được sắp xếp theo màu. Hoa tươi đua sắc trên các bậu cửa sổ. Tôi muốn trừ một điểm vì cả căn nhà nồng nặc mùi nước hoa thiết kế, nhưng Annabeth đã lờ tôi đi.

“Cậu vẫn làm tốt như mọi khi, Silena,” Annabeth khen.

Silena gật đầu lơ đãng. Bức tường sau lưng cô ấy được trang trí đầy ảnh anh Beckendorf. Cô ấy ngồi trên giường với một hộp sôcôla trong lòng cô ấy. Tôi nhớ là cha cô ấy là chủ một cửa hàng sôcôla ở Village. Đó là lý do ông ấy được nữ thần Aphrodite để mắt đến.

“Các cậu muốn một viên không?” Silena mời. “Cha tớ đã gửi cho tớ. Ông nghĩ – ông nghĩ chúng có thể làm cho tớ thấy phấn khởi hơn.”

“Chúng có ngon không?” tôi hỏi.

Cô ấy lắc đầu. “Chúng có vị như bìa các tông.”

Tôi không có bất cứ điều gì chống lại bìa các tông, vì thế tôi đã ăn thử một viên. Annabeth không ăn. Chúng tôi hứa sẽ gặp lại Silena sau và tiếp tục công việc.

Khi chúng tôi băng qua khu vực chung, một cuộc xung đột giữa nhà thần Ares và nhà thần Apollo đang diễn ra. Một vài trại viên thuộc nhà thần Apollo được trang bị bom lửa bay phía trên nhà thần Ares trong một cỗ xe ngựa được kéo bởi hai con pegasus. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy chiếc xe ngựa đó trước đây, nhưng nó trông rất khá. Chẳng mấy chốc, mái nhà của nhà thần Ares bốc cháy, và các nữ thủy thần ở hồ xuồng chạy vội lên bờ để phun nước dập lửa.

Đến phiên các trại viên nhà thần Ares trả đũa bằng cách xỉ vả bằng bùa chú và mũi tên của tất cả con của thần Apollo biến thành cao su. Phía nhà thần Apollo tiếp tục bắn tên về phía nhà thần Ares nhưng các mũi liên tiếp bật ra ngoài

Hai cung thủ chạy đi, đuổi theo sau là một đứa trẻ nhà thần Ares đang giận dữ la hét nhưng đầy chất thơ: “Nguyền rủa ta ư? Ta sẽ khiến mày trả giá vì điều này!/ Ta không muốn gieo vần cả ngày!”

Annabeth thở dài. “Không phải lại thế chứ. Lần trước nhà thần Apollo nguyền rủa một nhà, phải mất một tuần các cặp câu theo vần mới biến mất.”

Tôi rùng mình. Thần Apollo là thần thơ ca và bắn cung, và tôi đã từng trực tiếp nghe ông ấy ngâm thơ. Tôi thà bị tên bắn còn hơn.

“Thế rốt cuộc họ đánh nhau vì chuyện gì?” tôi hỏi.

Annabeth lờ tôi đi khi cô ấy viết vội vàng lên cuộn giấy kiểm tra của mình, cho cả hai nhà 1/5 điểm.

Tôi nhận ra mình đang ngây người ngắm cô ấy. Điều đó thật ngu ngốc vì tôi đã nhìn cô ấy đến cả tỉ lần. Hè này cô ấy cao xấp xỉ tôi, điều đó khiến tôi thật nhẹ nhõm. Thế nhưng, cô ấy dường như chín chắn hơn. Việc này hồ như thật đáng sợ. Ý tôi là, đúng vậy, cô ấy luôn rất dễ thương, nhưng hiện cô ấy đang bắt đầu dần trở nên thật sự xinh đẹp.

Mãi sau, Annabeth mới nói, “Tại cỗ xe ngựa bay đó.”

“Gì cơ?”

“Cậu vừa hỏi vì cái gì mà họ đánh nhau.”

“Ồ. Ồ, đúng vậy.”

“Họ có được nó trong một cuộc tấn công vào Philadelphia vào tuần trước. Một số á thần của Luke có mặt ở đó cùng với chiếc xe ngựa bay đó. Nhà thần Apollo đã có được nó trong trận đánh, nhưng nhà thần Ares lại là người chỉ huy cuộc tiến công đó. Vì thế, kể từ đó họ đã đánh nhau để xem ai mới là người có được chiếc xe đó.”

Chúng tôi cúi đầu xuống khi xe ngựa của Michael Yew thả bom lửa xuốngại viên của nhà thần Ares. Một trại viên nhà thần Ares cố đâm và nguyền rủa cậu ta bằng cặp câu theo vần. Cậu ta rất sáng tạo trong việc gieo vần cho những từ nguyền rủa đó.

“Chúng ta đang chiến đấu vì cuộc sống của chúng ta,” tôi bất mãn nói, “và họ thì đang cãi nhau suốt chỉ vì một chiếc xe ngựa ngu ngốc nào đó.”

“Họ sẽ chấm dứt ngay ấy mà,” Annabeth nói. “Clarisse sẽ trở lại bình thường thôi.”

Tôi không chắc lắm. Điều đó không giống với Clarisse tôi biết.

Tôi xem lướt thêm một vài báo cáo và chúng tôi kiểm tra thêm vài nhà nữa. Nhà nữ thần Demeter được 4 điểm. Nhà thần Hephaestus được 3 điểm và chắc chắn là nên cho điểm thấp hơn, nhưng với việc anh Beckendorf vừa mất, chúng tôi muốn thoải mái với nhà họ. Nhà thần Hermes được 2 điểm, điều này không có gì đáng ngạc nhiên. Tất cả các trại viên không biết cha mẹ thần thánh của mình là ai đều được “nhét” vào nhà thần Hermes, và do các vị thần là chúa hay quên, thế nên, nhà thần Hermes bao giờ cũng đông nghịt.

Cuối cùng, chúng tôi đến nhà nữ thần Athena. Như mọi khi, nhà này luôn ngăn nắp, sạch sẽ. Sách xếp ngay hàng thẳng lối trên các kệ. Các bộ áo giáp đã được đánh bóng. Các bản đồ chiến tranh và các bản thiết kế nhà được trang trí trên các bức tường. Chỉ có giường của Annabeth là lộn xộn nhất. Nó phủ đầy giấy và chiếc laptop màu bạc của cô ấy vẫn đang hoạt động.

“Vlacas,” Annabeth lầm bầm, về cơ bản cô ấy đang tự gọi chính mình là đồ ngốc bằng tiếng Hy Lạp.

Người phó của cô, Malcolm, cố nhịn cười. “Ừ, ừm... bọn em đã dọn dẹp mọi thứ khác. Chỉ sợ không biết có an toàn không khi di chuyển các ghi chép của chị.”

Đó chắc chắn là điều thông minh nhất. Ai cũng biết Annabeth có dao găm bằng đồng mà chỉ dành cho quái vật và người làm rối tung đồ của cô ấy.

Malcolm nhìn tôi cười toe toét. “Bọn em sẽ đợi bên ngoài trong khi hai người thực kiểm tra.” Các trại viên nhà nữ thần Athena lục tục nối đuôi nhau đi ra trong lúc Annabeth vội vàng thu dọn giường.

Tôi cảm thấy bứt rứt khó chịu và làm ra vẻ xem xét tỉ mỉ thêm một vài báo cáo nữa. Nói một cách chính xác, việc này chống lại điều luật của trại vì chỉ có hai trại viên... nói thế nào nhỉ, ừm, ở một mình trong cùng một nhà, dù bạn có đang thực hiện việc kiểm tra định kỳ đi chăng nữa.

Điều luật đó xuất hiện khi Silena và anh Beckendorf bắt đầu hẹn hò với nhau. Và tôi biết một vài người trong số các bạn có thể đang nghĩ: Chẳng phải tất cả các á thần đều có họ hàng với nhau ở bên thần thánh, và điều đó chẳng phải sẽ khiến việc hẹn hò trở nên chối tỉ sao? Nhưng vấn đề là, bên thần thánh của gia đình bạn không được tính về mặt di truyền học, vì các các thần không có ADN. Một á thần sẽ không bao giờ nghĩ về việc hẹn hò ai đó có cùng bên cha mẹ thần thánh. Như hai người cùng nhà nữ thần Athena chẳng hạn? Không đời nào. Thế còn con gái của nữ thần Aphrodite và con trai của thần Hephaestus thì sao? Họ không có họ hàng với nhau. Vì thế chuyện đó không thành vấn đề.

Dù sao thì vì một lý do kỳ lạ nào đó tôi lại nghĩ về điều đó khi nhìn Annabeth dọn giường. Cô ấy đóng chiếc laptop mà nhà phát minh Daedalus đã tặng cho cô ấy như một món quà vào mùa hè năm ngoái lại.

Tôi hắng giọng. “Vậy... cậu có được thông tin gì hay ho từ nó không?”

“Quá nhiều ấy chứ,” cô ấy nói. “Daedalus có quá nhiều ý tưởng mà tớ phải mất đến năm mươi năm để tìm hiểu tất cả.”

“Ừ,” tôi lầm bầm. “Điều đó sẽ khá là vui vẻ nhỉ.”

Cô ấy sắp xếp lại đống giấy tờ – phần lớn là các bản vẽ về các công trình xây dựng và một đống các ghi chú được viết tay. Tôi biết cô ấy muốn trở thành một kiến trúc sư một ngày nào đó, nhưng tôi đã từng có được bài học để đời để không hỏi cô ấy đang làm gì. Vì cô ấy sẽ bắt đầu nói về các góc và các khớp nối chịu tải cho đến khi hai mắt tôi dại di.

“Cậu biết không...” Cô ấy ốt tóc ra sau tai, giống như cô ấy hay làm khi bối rối. “Tất cả mọi chuyện liên quan đến anh Beckendorf và Silena. Nó khiến cho cậu phải suy nghĩ. Về... điều gì là quan trọng. Về việc mất đi người quan trọng của mình.”

Tôi gật lia lịa. Bộ não của tôi bắt đầu thu thập các chi tiết nhỏ nhặt và mơ hồ. Như sự thật là cô ấy vẫn đang còn đeo đôi bông tai hình con cú bằng bạc, một món quà của cha cô ấy. Ông là giáo sư lịch sử quân đội vô cùng thông minh hiện đang sống ở San Francisco.

“Ừm, đúng thế,” tôi lắp bắp. “Như thể... mọi việc với gia đình cậu vẫn ổn cả chứ?”

Được rồi, đó là câu hỏi thật ngốc nghếch, nhưng này, tôi đang hoảng sợ mà.

Dù thất vọng, Annabeth vẫn gật đầu.

“Cha tớ tính đưa tớ đi Hy Lạp vào hè này,” cô ấy nói đầy nuối tiếc. “Tớ luôn muốn được quan sát...”

“Đền Parthenon,” tôi chợt nhớ.

Cô ấy cố mỉm cười. “Đúng vậy.”

“Không sao đâu. Chúng ta sẽ có các mùa hè khác mà, đúng không?”

Vừa dứt lời, tôi nhận đó là một câu bình luận ngu ngốc. Tôi đang phải đối mặt với ‘những ngày cuối cùng’. Chỉ trong vòng một tuần, đỉnh Olympus sẽ bị tiêu diệt. Nếu Thời của Các Vị Thần thực sự kết thúc, thế giới như chúng ta đã biết sẽ bị tan biến trong sự hỗn loạn. Các á thần sẽ bị săn đuổi đến tuyệt chủng. Sẽ chẳng có thêm mùa hè nào dành cho chúng tôi cả..

Annabeth liếc nhìn bản kiểm tra trên tay mình. “3/5,” cô lầm bầm, “chỉ vì người đứng đầu cẩu thả. Đi thôi. Hãy hoàn tất báo cáo của cậu và quay về gặp bác Chiron.”

Trên đường đến Nhà Lớn, chúng tôi đọc báo cáo cuối cùng. Đó là chữ viết tay trên một lá phong đến từ một thần rừng ở Canada. Nếu điều này xảy ra, tờ giấy này khiến tôi cảm thấy tệ hơn nữa.

“Gửi Grover,” tôi đọc lớn. “Các khu rừng ở bên ngoài Toronto bị tấn công bởi một con lửng độc ác khổng lồ. Cố làm như cậu đã gợi ý và triệu hồi sức mạnh của thần Pan. Không hiệu quả. Rất nhiều cây của các nữ thủy thần bị phá hủy. Rút lui về Ottawa. Xin đưa ra lời khuyên. Cậu đang ở đâu? – Gleeson Hedge, người bảo vệ.”

Annabeth nhăn mặt. “Cậu không nghe được bất cứ tin gì từ cậu ấy sao? Thậm chí với sợi dây linh cảm của hai người sao?”

Tôi buồn bã lắc đầu.

Kể từ mùa hè năm ngoái khi thần Pan qua đời, bạn của chúng tôi – Grover đã ra đi ngày một xa hơn. Hội đồng Trưởng lão Cloven đã đối xử với cậu ấy như một người bị ruồng bỏ. Nhưng Grover vẫn tiếp tục đi khắp Bờ Đông, cố lan truyền lời nhắn của thần Pan và thuyết phục các tinh linh tự nhiên bảo vệ các phần nhỏ của thiên nhiên hoang dã trong chính lãnh thổ của họ. Cậu ấy chỉ quay về trại đôi lần để thăm bạn gái Juniper rồi lại ra đi.

Lần gần đây nhất tôi nghe được cậu ấy đang ở Central Park, tập hợp các nữ thần cây, nhưng không ai nhìn thấy hay nghe thấy gì từ cậu ấy trong hai tháng nay. Chúng tôi đã cố gởi các thông điệp Iris. Chúng không thể nào thông được. Tôi có một sợi dây linh cảm với Grover, vì thế tôi hy vọng mình sẽ biết nếu có bất cứ điều gì xấu xảy đến với cậu ấy. Grover đã từng nói với tôi trước đây rằng nếu cậu ấy chết, sợi dây linh cảm có thể cũng sẽ giết chết tôi. Nhưng tôi không chắc liệu điều đó là đúng hay sai.

Tôi tự hỏi không biết liệu cậu ấy có còn ở Mahattan không nhỉ. Rồi tôi chợt nhớ ra về bức phác họa của Rachel – các đám mây đen đang tiến đến bao phủ bầu trời thành phố, một đội quân tụ tập quanh Tòa nhà Empire State.

“Annabeth.” Tôi kéo cô ấy ngừng lại ở sân bóng đấm. Tôi biết mình đang chuốc lấy rắc rối, nhưng tôi không biết phải tin ai. Với lại tôi luôn cần lời khuyên từ Annabeth. “Nghe này, tớ có giấc mơ về, ừm, Rachel...”

Tôi kể cho cô ấy nghe từ đầu chí cuối, thậm chí cả về bức tranh kỳ lạ lúc Luke hồi bé.

Trong một lúc, cô ấy không nói bất cứ điều gì. Sau đó cô ấy cuộn bảng điểm kiểm tra trong tay mình quá chặt đến nỗi xé rách nó ra. “Cậu muốn tớ nói gì?”

“Tớ không chắc. Cậu là nhà chiến lược giỏi nhất mà tớ biết. Nếu cậu là Kronos và lên kế hoạch cho cuộc chiến này, cậu sẽ làm gì tiếp theo?”

“Tớ sẽ sử dụng Typhon làm mồi nhử. Rồi tớ sẽ đánh thẳng lên đỉnh Olympus, trong khi các thần đều đang ở phía tây.”

“Đúng y như trong tranh của Rachel.”

“Percy,” giọng cô ấy đanh lại, “Rachel chỉ là một con người.”

“Nhưng nếu giấc mơ của cô ấy đúng thì sao? Hai gã Titan khác đó – chúng đã nói là đỉnh Olympus sẽ bị tiêu diệt chỉ là vấn đề thời gian mà thôi. Chúng đã nói chúng có thêm nhiều thách thức khác. Và bức tranh về Luke khi còn bé có liên quan gì...”

“Chúng ta chỉ phải sẵn sàng cho mọi chuyện.”

“Như thế nào?” tôi nói. “Hãy nhìn trại của chúng ta xem. Chúng ta thậm chí không thể ngừng việc đấu đá lẫn nhau. Và tớ phải để cho linh hồn ngu ngốc của tớ bị thu nhận nữa chứ.”

Cô ấy ném cuộn giấy xuống. “Tớ biết là không nên cho cậu biết lời tiên tri.” Giọng cô ấy đầy giận dữ và tổn thương. “Vì tất cả những điều đó đã làm cậu sợ hãi. Cậu bỏ rơi mọi thứ khi cậu sợ hãi.”

Tôi nhìn chằm chằm vào cô ấy, hoàn toàn choáng váng. “Tớ ư? Bỏ rơi mọi thứ sao?”

Cô ấy nhìn thẳng vào mặt tôi. “Đúng thế, chính là cậu. Cậu là đồ hèn, Percy Jackson!”

Chúng tôi gườm gườm nhìn nhau. Đôi mắt cô ấy đỏ, và tôi đột nhiên nhận ra rằng khi cô ấy gọi tôi là đồ hè cô ấy không phải nói đến lời tiên tri.

“Nếu cậu không thích các khả năng của trại chúng ta,” cô ấy nói, “cậu có thể dự kỳ nghỉ cùng với Rachel.”

“Annabeth...”

“Nếu cậu không thích tình bạn của chúng ta.”

“Như thế không công bằng!”

Cô ấy đẩy tôi ra và vùng vằng đi về phía các ruộng dâu. Ngang qua chỗ quả bóng, cô ấy đánh mạnh vào nó và làm nó quay đầy giận dữ quanh cột chống.

Tôi muốn nói là ngày của tôi trở nên tốt hơn kể từ lúc đó. Dĩ nhiên, không hề.

Chiều hôm đó, chúng tôi tụ họp lại quanh lửa trại để nói lời vĩnh biệt và đốt vải liệm an táng của anh Beckendorf. Thậm chí nhà thần Ares và nhà thần Apollo đều kêu gọi tạm thời đình chiến để tham dự.

Tấm vải liệm của anh Beckendorf được làm từ các mắt xích kim loại như áo giáp mắt xích. Tôi cũng không hiểu làm thế nào nó lại có thể bị đốt cháy, nhưng có thể Ba Nữ thần Mệnh đã giúp đỡ. Tấm kim loại tan chảy trong lửa và biến thành một làn khói vàng bay lên trời. Màu sắc lửa trại thường phản ánh tâm trạng của các trại viên, và hôm nay nó có màu đen.

Tôi hy vọng linh hồn anh Beckendorf sẽ đến Elysium. Có lẽ anh ấy thậm chí sẽ chọn để tái sinh và cố gắng đến được Elysium trong ba cuộc đời khác nhau. Vì như thế anh ấy có thể đến được Quần Đảo Chân Phúc, là nơi được xem như đại bản doanh của những người tối thượng ở Địa Ngục. Nếu bất cứ ai xứng đáng với điều đó, thì đó chính là anh Beckendorf.

Annabeth rời đi mà chẳng nói với tôi lời nào. Phần lớn các trại viên khác rời đi cho các hoạt động ban chiều của họ. Tôi chỉ đứng đó, nhìn chằm chằm vào đống lửa đã lụi tàn. Silena đứng gần đó khóc khi Clarisse và bạn trai của cô ta – Chris Rodriguez cố tìm cách an ủi.

Cuối cùng tôi cũng có can đảm bước đến. “Này Silena, tớ thật sự lấy làm tiếc.”

Cô ấy sụt sịt. Clarisse trừng mắt với tôi, nhưng cô ấy luôn trừng mắt với mọi người. Chris hầu như tránh không nhìn tôi. Cậu ta từng là một trong số những tên lính của Luke cho đến khi Clarisse cứu cậu ta từ Mê Cung vào mùa hè năm ngoái, và tôi đoán cậu ta vẫn cảm thấy có lỗi về điều đó.

Tôi hắng giọng. “Silena, cậu biết đấy, anh Beckendorf đã mang theo ảnh cậu. Anh ấy đã nhìn nó ngay trước khi bọn tớ bước vào cuộc chiến. Cậu có ý nghĩa rất lớn với anh ấy. Cậu đã làm cho năm vừa qua là khoảng thời gian tuyệt vời nhất của anh ấy.”

Silena khóc thổn thức.

“Làm tốt đấy, Percy,” Clarisse làu bàu.

“Không, không sao đâu,” Sillena nói. “Cảm ơn... cảm ơn cậu, Percy. Tớ phải đi.”

“Cậu muốn tớ đi cùng không?” Clarisse hỏi.

Silena lắc đầu chạy vụt đi.

“Cô ấy mạnh mẽ hơn vẻ bề ngoài,” Clarisse nói khẽ, gần như tự nói với chính mình. “Cô ấy sẽ vượt qua thôi.”

“Cậu có thể giúp,” tôi gợi chuyện. “Cậu có thể vinh danh anh Beckendorf bằng cách chiến đấu với bọn tớ.”

Clarisse định rút dao, nhưng nó không có ở đó nữa. Cô ta đã trót quăng nó lên bàn bóng bàn ở Nhà Lớn rồi.

“Đó không phải chuyện của tôi,” cô ta gầm lên. “Nhà tôi không có được sự kính trọng, tôi sẽ không chiến đấu.”

Tôi nhận ra cô ta không nói theo vần. Có thể cô ta không ở lúc cả nhà cô ta bị nguyền rủa, hoặc có thể cô ta có cách để phá vỡ bùa chú. Với một cái rùng mình, tôi tự hỏi liệu Clarisse có thể là gián điệp của Kronos ở trại không. Đó có phải là lýiến cô ta ngăn nhà mình không tham gia trận chiến? Nhưng cũng nhiều như việc tôi không thích Clarisse, việc gián điệp cho các thần Titan dường như không phải là tác phong của cô ta.

“Được thôi,” tôi nói với cô ta. “Tớ không muốn nói điều này ra, nhưng cậu chịu ơn tớ một lần. Cậu sẽ chết dần chết mòn trong hang của Cyclops ở Biển Quái Vật nếu tớ không có mặt ở đó.”

Cô ta nghiến răng. “Bất cứ điều gì khác, Percy. Không phải điều này. Nhà thần Ares đã không được tôn trọng quá nhiều lần. Và đừng nghĩ là tôi không biết mọi người nói gì về tôi sau lưng tôi nhé.”

Tôi muốn nói, Ừm, đúng thế đấy. Nhưng tôi đã im miệng lại.

“Thế... chẳng lẽ cậu để mặc Kronos tiêu diệt bọn tớ sao?”

“Nếu cậu thực sự cần tôi giúp, hãy bảo nhà thần Apollo đưa cỗ xe đó cho chúng tôi.”

“Cậu đúng là đồ trẻ con to xác.”

Cô ta tấn công tôi nhưng Chris đã xen vào giữa. “Thôi nào, các cậu,” cậu ta nói. “Clarisse này, cậu biết không, có lẽ Percy nói cũng có phần đúng đấy.”

Cô ta quạt lại cậu ta. “Không phải cả cậu nữa chứ!”

Cô ta bỏ đi với Chris lẵng nhẵng đi theo. “Này, đợi tớ! Tớ chỉ muốn nói... Clarisse, đợi tớ với!”

Tôi nhìn những tàn lửa cuối cùng từ tấm vải liệm của anh Beckendorf cuồn cuộn bay vào bầu trời chiều. Rồi tôi quay lưng đi về phía trường đấu kiếm. Tôi cần thư giãn, và tôi muốn gặp lại người bạn cũ.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.