“Hơn một ngàn năm trước, vua Đường Ý Tông muốn xâm chiếm nước Nam, nhưng nhận thấy vùng đất này thời nào cũng có nhân tài nổi lên, nên muốn trấn yểm linh khí của nước Nam.
Năm 864, Đường Ý Tông phong Cao Biền làm Tiết độ sứ Giao Châu. Là một nhà phong thủy đại tài, Cao Biền nhận được sứ mệnh phải trấn yểm được linh khí hòng suy yếu nước Nam.
Cao Biền đi khắp nơi xem xét địa thế. Khi cho xây thành Đại La bên sông Tô Lịch, biết đất ở làng Cổ Pháp có khí tượng Đế vương, Cao Biền đã cắt đứt long mạch nơi đây bằng cách đào đứt con sông Điềm và mười chín điểm ở ao Phù Chẩn.
Nhưng nước Nam tuy nhỏ mà người tài ba lại nhiều, thiền sư Định Không thuộc thế hệ thứ tám thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi (diệt hỷ), ở chùa Thiện Chúng đã đoán được sẽ có người phương Bắc âm mưu quấy phá nước Nam nên sớm có sự chuẩn bị từ trước.
Ngay từ năm 808, trước khi Cao Biền nhận lệnh trấn yểm nước Nam rất nhiều năm, thiền sư Định Không đã dặn dò sư Thông Thiện -người kế nghiệp mình -khéo giữ pháp, đợi đến khi gặp người họ Đinh thì truyền.
Mấy năm sau, sư Thông Thiện gặp một đệ tử rất thông minh là Đinh La Quý, đoán biết đây là người kế tục mình nên ông đã truyền thụ hết các sở học cho đệ tử.
Thiền sư La Quý có tư chất thông tuệ, tinh thông thuật pháp, có thể nhìn xuyên sông núi, hiểu thấu phong thủy, bởi vậy ngài thường xuyên đi khắp nơi, phá giải trấn yểm của Cao Biền, điển hình là việc kết nối lại những chỗ bị Cao Biền cắt đứt long mạch ở sông Điềm. Năm 936, biết mình sắp mất, Đinh La Quý gọi đệ tử chân truyền của mình là Thiền Ông đến dặn:
- Trước khi mất, ta có trồng tại chùa Châu Minh một cây bông gạo. Đây không phải là cây bông gạo bình thường, mà là vật để trấn an và nối liền những chỗ đứt trong long mạch, mục đích để đời sau sẽ có một vị hoàng đế ra đời và vị này sẽ ph* dựng chính pháp của chư Phật. Sau khi ta tịch, con khéo đắp một ngọn tháp bằng đất, dùng phép, yểm giấu trong đó, chớ cho người thấy.
Đúng như lời đoán trước khi mất của thiền sư La Quý, Thái Tổ của nhà Lý -Lý Công Uẩn -là người làng Cổ Pháp. Thiền Ông thiền sư kế thừa y bát của La Quý thiền sư tiếp tục bắt ma trừ yêu, đến cuối đời truyền y bát cho một người đệ tử tục gia là Đoàn Thừa Pháp cũng chính là tổ tiên của nhà họ Đoàn chúng ta.
Đoàn Thừa Pháp kế thừa mật pháp của sư phụ, ngoài việc tìm truyền nhân bên ngoài, đã lưu lại một bản mật pháp truyền cho hậu nhân của mình. Không biết có phải vì tổ tiên nảy sinh tư tâm nên bị trừng phạt hay không, mà Đoàn Thừa Pháp lập gia đình chỉ sinh được duy nhất một người con trai, sau đó vợ của người mang thai thêm vài lần nhưng lần nào thai nhi cũng chết yểu trong bụng mẹ. Các đời hậu nhân trực hệ của nhà họ Đoàn từ đó đều là độc đinh, bất kể là lấy bao nhiêu vợ nhưng chỉ cần đã sinh ra một đứa trẻ, thì tất cả những lần mang thai sau đều sẽ chết yểu. Trải qua mấy đời, con cháu trực hệ của nhà họ Đoàn cũng nhận ra sự thật này cho nên sau khi sinh được con nối dõi thì không tiếp tục mang thai nữa, tránh việc quá nhiều thai nhi chết yểu, sẽ gây ra sát nghiệp cho con cháu về sau.”
- Cứ như vậy truyền xuống, đến thế hệ của ta đã đời thứ mười bảy. Cháu đã hiểu vì sao nhà họ Đoàn chúng ta đời nào cũng độc đinh rồi chứ? – Kể lại cả một câu chuyện dài khiến ông cụ quá sức, bèn ngừng lại mấy hơi rồi nhìn Đốc.
- Ông nội, ông vẫn chưa trả lời câu hỏi của cháu, cha chết rồi, mẹ cháu cũng chết rồi, ông thực sự muốn cháu bước vào con đường không có đường lui này hay sao?
- Đốc, khi cháu sinh ra trong gia đình này, thì số phận của cháu đã được định sẵn không có đường lui rồi. Cho dù là ông không dạy cháu mật pháp trừ ma, bắt quỷ, không nhắc gì đến những quỷ dị trên đời này, thậm chí là đưa cháu đến thành phố sống cuộc đời của người bình thường đi chăng nữa, thì cũng không cách nào thoát được tạo hóa an bài, bởi đó là số phận của nhà họ Đoàn chúng ta.
Rồi, ông lão xúc động, nắm lấy tay Đốc, gằn giọng.
- Cháu nghĩ bố cháu vì cái gì mà chết, chính là vì bố cháu chối bỏ năng lực siêu nhiên này, muốn sống cuộc đời của một người bình thường, để rồi bị chính nỗi sợ hãi của người bình thường giết chết. Nếu không phải ta bỏ ra cái giá lớn thi triển cấm thuật, ngày đêm chịu đựng âm hỏa giày vò, cháu nghĩ bản thân có thể sống khỏe mạnh đến ngày hôm nay sao? Đã hơn một nghìn năm rồi, chúng ta đang phải trả giá cho sự tham lam của tổ tiên, nhưng chúng ta còn có thể làm thế nào, chết đi à? Cháu dám chết sao? Chúng ta đều không dám, cho nên chỉ có thể chấp nhận.
- Ông nội, cháu xin lỗi! -Đốc trầm mặc một hồi lâu, cuối cùng khó nhọc nói. -Ngày mai cháu sẽ theo hai người kia đi tới Khe Váp.
- Đốc, cháu chỉ cần nhớ, tất cả những gì ta làm đều là vì cháu, vì sự tồn tại của họ Đoàn chúng ta. -Ông lão dường như đã bình tĩnh trở lại, nhìn Đốc, dịu giọng nói.
- Cháu biết rồi! -Đốc gật đầu, nói tiếp. -Ông nội, khu rừng kia thật sự có thần linh trú ngụ à?
- Khu rừng kia thật sự có thần linh hay không, cháu đến chẳng phải sẽ biết hay sao? -Ông nhìn hắn, cười nói. -Chuyến đi lần này nhiều nguy cơ, nhưng cũng là một cơ hội để cháu rèn luyện. Cháu đi đến đó, nhất định phải nhớ kỹ hai điều.
- Ông nội nói đi!
- Thứ nhất, mỗi một khu rừng thiêng ở vùng đất này đều có một câu chuyện xưa của nó; thứ hai, nhớ kỹ lấy, nếu cháu bước chân vào rừng thiêng, tuyệt đối không được quay đầu lại phía sau.
Thôn Khe Váp, Đình Lập.
- Trưởng thôn, đây là thầy Đốc, người được mời tới để giải quyết nguy cơ của thôn chúng ta. -Lã Sìn Dinh chỉ tay về phía Đốc, rồi lại chỉ về phía Lã Nì Khai, giới thiệu. -Còn đây là trưởng thôn của Khe Váp chúng ta, Lã Nì Khai.
- Chào trưởng thôn, ta tên là Đoàn Văn Đốc, đến từ bản Đồng Ngần ở Tràng Định, tới đây theo lời của ông nội. -Đốc mặc một chiếc áo khoác dày màu đen, quấn khăn len trên cổ che cả miệng, sau lưng đeo một ba lô lớn, cúi người chào Lã Nì Khai, nhưng động tác này lại vô tình khiến hắn ho khan mấy tiếng.
Đốc vốn là âm thể hiếm thấy, có thể dễ dàng cảm nhận, thậm chí là giao lưu được với âm hồn tới gần, nhưng âm thể có một nhược điểm, đó là sức đề kháng của nó rất yếu, cho nên mỗi ngày hắn đều phải sưởi nắng mấy tiếng để duy trì thân nhiệt không xuống quá thấp. Sáng sớm hôm nay, Đốc cùng với hai người Lã Sìn Dinh khởi hành từ Đồng Ngần đi tới Khe Váp, cả chặng đường không nghỉ, rốt cuộc buổi chiều cũng tới nơi, nhưng nhiệt độ trong rừng lúc sáng sớm rất lạnh, dù Đốc đã mặc mấy lớp áo, quấn khăn kín người cũng vẫn không tránh được việc nhiệt độ cơ thể của hắn hạ thấp.
- Thay mặt người trong thôn, rất hân hạnh được đón tiếp thầy tới Khe Váp chúng tôi. -Lã Nì Khai nhìn người thiếu niên trẻ tuổi ăn mặc kỳ quặc lại giống như người bị bệnh lâu năm đứng trước mặt mình thì không có chút tin tưởng nào vào khả năng của đối phương, nhưng là người từng trải, nên lão cũng không để lộ thái độ, vẫn nhiệt tình tiếp đón. Thi thoảng, lúc anh chàng thiếu niên trẻ tuổi đang mải ngắm nghía bố cục trong nhà sàn, lão mới dùng ánh mắt nghi hoặc nhìn về phía Lã Sìn Dinh.
Lã Sìn Dinh có lẽ cũng nhận ra được thái độ hoài nghi của trưởng thôn, lão lắc đầu, nhỏ giọng nói.
- Nì Khai, không cần hoài nghi, ông chỉ cần hỗ trợ tối đa những yêu cầu của thầy là được. Bầu không khí của Khe Váp càng lúc càng ngột ngạt, ngay cả ta cũng bắt đầu cảm nhận được hơi thở của thần chết rồi, chúng ta đã không còn nhiều thời gian nữa.
Lã Nì Khai thở dài, còn định nói điều gì đó nhưng đúng lúc này, Đốc quay đầu nhìn về phía hai người, thản nhiên nói.
- Hai người bàn bạc xong chưa, nếu xong rồi ta có điều muốn hỏi trưởng thôn.
- Thầy có điều gì cứ nói, nếu biết, ta tất nhiên sẽ thành thật trả lời.
- Ta muốn hỏi về lịch sử hình thành thôn bản này, cụ thể là khu rừng thiêng xuất hiện từ bao giờ?