Chủ Nhật, 12/10/2003 (Clare 32 tuổi, Henry 40 tuổi)
CLARE: Đây là một bí mật: đôi khi tôi mừng vì Henry đã biến mất. Đôi khi tôi thích được ở một mình. Đôi khi tôi lang thang trong căn nhà lúc nửa đêm và ớn lạnh trong niềm vui vì không phải nói chuyện, không phải đụng chạm, chỉ đi, chỉ ngồi hoặc chỉ tắm. Đôi khi tôi nằm trong phòng khách và nghe Fleetwood Mc, The Bangles, B-52s, The Eagles, những ban nhạc mà Henry không chịu nổi. Đôi khi tôi đi dạo với Alba và không để lại lời nhắn rằng mình đã đi đâu. Đôi khi tôi đi uống cà phê cùng Celia, và chúng tôi sẽ nói về Henry, về Ingrid hoặc về bất kì ai Celia đang hẹn hò trong tuần đó. Đôi khi tôi đi chơi cùng Charisse và Gomez, và chúng tôi không nói chuyện về Henry, chúng tôi chỉ tìm cách tận hưởng sự bầu bạn của nhau. Có lần tôi đi đến Michigan, khi trở về, Henry vẫn đang biến mất và tôi không nói với anh ấy tôi đã đi đâu. Đôi khi tôi tìm người giữ trẻ và đi xem phim hoặc đi xe đạp dọc bãi biển Montrose khi trời đã tối, chẳng có một ánh đèn; nó mang đến cho tôi cảm giác như đang bay.
Đôi khi tôi mừng vì Henry đã biến mất, nhưng lúc nào tôi cũng mừng khi anh ấy trở về.
Những trải nghiệm khó khăn
Thứ Sáu, 7/5/2004 (Henry 40 tuổi, Clare 32 tuổi)
HENRY: Chúng tôi đang tham dự buổi ra mắt triển lãm của Clare tại Trung tâm Văn hóa Chicago. Cô ấy đã làm việc không ngừng nghỉ suốt một năm trời, tạo ra các bức tượng chim khổng lồ từ dây kim loại, bọc chúng trong những mảnh giấy mờ rồi phủ véc-ni lên cho đến khi chúng truyền dẫn ánh sáng. Các bức tượng đang được treo lên trần nhà cao tít và lủng lẳng sát sàn. Một vài trong số chúng được cơ giới hóa: vài con chim biết vỗ cánh, và ở góc phòng, hai con gà trống đang chậm rãi mổ vào nhau. Một con bồ câu cao hai mét rưỡi đang sừng sững đứng canh cửa. Clare mệt mỏi nhưng ngây ngất. Cô ấy mặc một chiếc đầm giản dị bằng lụa, tóc vén cao trên đầu. Mọi người mang hoa đến tặng cô ấy; cô ấy đang ôm một bó hồng trắng trên tay, rất nhiều bó được bọc ni-lon khác đang để cạnh sổ ghi danh. Phòng triển lãm chật kín người. Mọi người đứng tụ tập xung quanh, trầm trồ trước mỗi tác phẩm, ngửa đầu nhìn những con chim đang bay lượn. Ai cũng chúc mừng Clare. Tờ Tribune đã đăng một bài tán dương hết lời cho cuộc triển lãm. Tất cả bạn bè của chúng tôi đang ở đây, gia đình Clare đã đi từ Michigan lên. Lúc này họ đang vây quanh Clare. Philip, Alicia, Mark, Sharon và các con của họ, Nell, Etta. Charisse đang chụp ảnh họ, và tất cả cười với cô ấy. Khi Charisse đưa cho tôi xem ảnh vài tuần sau đó, tôi đã sửng sốt trước những quầng thâm quanh mắt Clare và vẻ gầy gò của cô ấy.
Tôi đang bế Alba trên tay. Chúng tôi đang đứng gần tường, tách ra khỏi đám đông. Alba chẳng thể nhìn được gì, vì ai cũng rất cao nên tôi đặt con bé lên vai, và nó cứ không ngừng nhún nhảy.
Gia đình Clare đã giải tán và cô ấy đang đứng cùng Leah Jacobs, người môi giới của Clare, giới thiệu với một đôi vợ chồng già ăn mặc sang trọng. Alba nói, “Mẹ bế.”
“Mẹ đang bận, Alba”, tôi đáp. Tôi cảm thấy buôn nôn. Tôi khom người đặt Alba xuống sàn. Con bé giơ hai tay lên. “Không. Mẹ bế cơ.” Tôi ngồi xuống sàn và kẹp đầu giữa hai đầu gối. Tồi cần phải tìm một nơi không ai có thể nhìn thấy. Alba đang kéo tai tôi. “Đừng, Alba”, tôi nói. Tôi ngẩng đầu lên. Bố tôi đang len lỏi giữa đám đông để lại gần chúng tôi. “Đi đi, Alba”, tôi bảo con bé. Tôi đưa tay đẩy nhẹ nó, “Lại với ông nội đi.” Con bé bắt đầu khóc thút thít. “Con không muốn ông nội. Con muốn mẹ cơ!” Tôi bò về phía bố. Tôi đụng phải chân ai đó. Tôi nghe tiếng Alba hét lên “Mẹ ơi!” trong lúc biến mất.
CLARE: Căn phòng chật kín người. Ai cũng tụ tập quanh tôi, mỉm cười. Tôi mỉm cười đáp lại. Buổi triển lãm có vẻ rất tuyệt, và nó đã kết thúc. Tôi rất vui mừng, và rất mệt. Mặt tôi đau nhức vì phải cười nhiều. Tất cả mọi người tôi quen biết đều đang ở đây. Tôi đang nói chuyện với Celia khi nghe có tiếng huyên náo ở cuối phòng tranh, rồi tôi nghe tiếng Alba hét lên, “Mẹ ơi!” Henry đâu rồi? Tôi tìm cách len lỏi qua đám đông để đến bên Alba. Rồi tôi nhìn thấy con bé: Richard đang bế nó lên. Mọi người rẽ sang hai bên để tôi đi qua, Richard đưa Alba cho tôi. Con bé kẹp chặt hai chân vào hông tôi, vùi đầu lên vai tôi, quàng tay qua cổ tôi, “Bố con đâu rồi?” tôi nhẹ nhàng hỏi con bé, “Biến mất rồi”, Alba đáp.
Cuộc sống tĩnh lặng
Chủ Nhật, 11/7/2004 (Clare 33 tuổi, Henry 41 tuổi)
CLARE: Henry đang ngủ, bầm dập và bê bết máu, trên sàn nhà bếp. Tôi không muốn di chuyển hay đánh thức anh ấy. Tôi ngồi bên anh ấy trên tấm vải sơn lót nhà một lát. Cuối cùng tôi đứng dậy và pha cà phê. Trong lúc những giọt cà phê đang nhỏ xuống bình, Henry rên rỉ và đưa tay lên mắt. Có thể dễ dàng nhận ra anh ấy đã bị người ta đánh. Một bên mắt anh ấy sưng mọng không thể mở ra. Có lẽ máu chảy ra từ mũi. Tôi không nhìn thấy vết thương nào, chỉ có những vết bầm dập tím ngắt to bằng nắm tay khắp người. Anh ấy gầy rộc; tôi có thể thấy hết những đốt sống và xương sườn đang nhô ra. Mông lép kẹp, hai má sâu hóm. Tóc anh ấy đã điểm bạc, dài gần tới vai. Những vết cắt khắp tay chân, và vết côn trùng cắn khắp người. Anh ấy đen sạm, cáu bẩn, móng tay đen xì, bùn đất bám vào những vết hằn trên da. Anh ấy bốc mùi cỏ, mùi máu và muối mặn. Sau một hồi ngồi nhìn, tôi quyết định đánh thức anh ấy dậy. “Henry”, tôi nói rất khẽ, “Dậy đi, anh đã về đến nhà”. Tôi cẩn thận vuốt má và anh ấy mở mắt. Anh ấy vẫn chưa thực sự tỉnh. “Clare”, anh ấy lầm bầm. “Clare.” Nước mắt bắt đầu chảy từng dòng từ con mắt còn lành lặn của anh ấy, người anh ấy rung lên vì thổn thức và tôi kéo anh ấy vào lòng. Tôi đang khóc. Henry cuộn tròn trên đùi tôi, ngay ở giữa sàn nhà, chúng tôi khẽ rung lên cùng nhau trong tiếng khóc, cùng nhau thét ra sự nhẹ nhõm và nỗi thống khổ.
Thứ Năm, 23/12/2004 (Clare 33 tuổi, Henry 41 tuổi)
CLARE: Hôm nay là ngày trước ngày Giáng Sinh. Henry đang ở trung tâm mua sắm Water Tower Place, anh ấy đưa Alba đi xem ông già Noel tại Marshall Field trong khi tôi tranh thủ mua sắm nốt. Giờ tôi đang ngồi trong quán cà phê ở cửa hàng sách Border, uống capuccino bên chiếc bàn gần cửa sổ và nghỉ ngơi với một đống đồ kềnh càng đang tựa vào ghế của tôi. Bên ngoài cửa sổ, ngày đang dần trôi và những chiếc đèn nhấp nháy trắng đang nhá lên hình những cây thông Giáng Sinh. Những người đi mua sắm đang vội vã lướt qua đại lộ Michigan. Tôi có thể nghe thấy tiếng chuông của ông già Noel thuộc Đạo quản Cứu thế[1] bên dưới. Tôi quay vào trong cửa hàng tìm Henry và Alba. Có ai đó đang gọi tên tôi. Kendrick đang tiến về phía tôi cùng vợ của ông ấy, Nancy, Colin và Nadia theo sau.
[1] Nguyên gốc: Salavation Army: Cứu thế quân, hoặc Đạo quân Cứu thế, là một giáo phái Tin Lành thuộc cộng đồng Kháng Cách, cũng là một tổ chức xã hội với các hoạt động từ thiện.
Chỉ liếc qua tôi đã biết họ vừa trở ra từ FAO Schwarz; họ có vẻ bàng hoàng của những bậc cha mẹ vừa trốn khỏi địa ngục của cửa hàng đồ chơi. Nadia chạy lại bên tôi và ríu rít, “Dì Clare, dì Clare! Alba đâu ạ?” Colin cười bẽn lẽn và xòe tay ra khoe chiếc xe kéo màu vàng bé tí mà cậu bé có. Tôi chúc mừng cậu bé và nói với Nadia rằng Alba đang đi thăm ông già Noel, Nadia bảo tôi cô bé đã gặp ông già Noel từ tuần trước. “Cháu đã cầu xin điều gì?” tôi hỏi. “Một bạn trai ạ”, Nadia nói. Con bé mới ba tuổi. Tôi cười với Kendrick và Nancy. Kendrick nói nhỏ điều gì đó với Nancy, rồi chị ấy bảo, “Đi nào, các con. Chúng ta phải tìm sách cho dì Silvie nữa”, rồi ba người bọn họ đi về phía các quầy hàng trả giá. Kendrick chỉ tay về phía chiếc bàn trống đối diện với tôi, hỏi, “Tôi có thể chứ?”
“Dĩ nhiên rồi.”
Ông ấy ngồi xuống, thở dài. “Tôi ghét Giáng Sinh.”
“Henry cũng vậy.”
“Thật sao? Tôi không biết điều đó.” Kendrick tựa người vào cửa sổ và nhắm mắt lại. Vừa lúc tôi nghĩ ông ấy đang ngủ thì ông ấy mở mắt ra và nói, “Henry có uống thuốc theo đúng chỉ dẫn không vậy?”
“Tôi đoán là có. Ý tôi là, anh ấy cố gắng hết mức có thể. Gần đây anh ấy du hành thời gian khá thường xuyên.”
Kendrick gõ ngón tay lên mặt bàn. “Thường xuyên đến mức nào?”
“Cứ vài ngày một lần.”
Kendrick tỏ ra giận dữ. “Tại sao cậu ấy không nói gì với tôi?”
“Tôi nghĩ có lẽ anh ấy sợ ông sẽ chán nản và bỏ cuộc.”
“Cậu ấy là đối tượng thí nghiệm duy nhất có thể nói chuyện mà chúng tôi có, vậy mà cậu ấy chẳng bao giờ nói với tôi điều gì!”
Tôi cười. “Chào mừng gia nhập vào thế giới của tôi.”
Kendrick nói, “Tôi đang cố tìm cách giải quyết một bí ẩn khoa học ở đây. Tôi cần cậu ấy phải nói với tôi khi phương pháp không hiệu quả. Bằng không chúng tôi sẽ chỉ lãng phí thời gian.”
Tôi gật đầu. Bên ngoài, tuyết đã bắt đầu rơi.
“Clare?”
“Vâng?”
“Sao cô không để tôi nghiên cứu DNA của Alba?”
Tôi đã nói chuyện này hàng trăm lần với Henry. “Vì đầu tiên ông sẽ muốn định vị bộ mã gen của con bé, điều này không sao cả. Nhưng rồi ông và Henry sẽ bắt đầu nài nỉ tôi để cho ông thử nghiệm thuốc trên người con bé, và điều đó thì không thể được. Đó là lí do vì sao.”
“Nhưng con bé vẫn còn nhỏ; con bé có khả năng phản ứng tích cực với thuốc cao hơn.”
“Tôi đã nói không. Khi Alba đủ 18 tuổi, con bé có quyền tự quyết nếu nó muốn. Cho đến giờ, những gì ông đưa cho Henry đều là một cơn ác mộng.” Tôi không thể nhìn vào Kendrick. Tôi nói điều này trong khi nhìn vào đôi tay đang nắm chặt trên bàn.
“Nhưng chúng tôi có thể áp dụng liệu pháp gen cho con bé...”
“Không ít người đã chết vì liệu pháp gen.”
Kendrick im lặng. Cửa hàng đang chìm trong tiếng huyên náo. Rồi tôi nghe có tiếng bi bô của Alba, gọi, “Mẹ ơi!” Tôi ngước lên nhìn. Con bé đang cưỡi trên vai Henry, bám chặt lấy đầu anh ấy. Cả hai bố con đang đội mũ gấu trúc. Henry nhìn thấy Kendrick, và trong khoảnh khắc ngắn ngủi, anh ấy có vẻ e sợ. Tôi tự hỏi hai người đang giấu tôi bí mật gì. Rồi Henry mỉm cười và sải bước về phía chúng tôi, Alba nhấp nhô hớn hở phía trên đầu đám đông. Kendrick đứng dậy để chào Henry, và tôi gạt ý nghĩ đó khỏi đầu.