CHƯƠNG 11 – TUYẾT ĐỌNG MÃN YÊN SƠN.
Trọn một đêm Chu Kỳ ngồi trước bàn chăm chăm nhìn bản danh sách cho tới khi phía đông dần hửng sáng.
Sau khi máy móc thiêu thủy bản danh sách, Chu Kỳ bơ phờ quay về bên tháp, tới đây y mới nhắm đôi mắt đã cay xè của mình lại. Y biết, những người vẫn sống trong bản danh sách đó, có lẽ vì may mắn mà vẫn có thể sống sót, trong khi số còn lại đều đã trở thành tế phẩm cho vòng tranh đấu vương quyền khốc liệt và tàn nhẫn này.
Nhất tướng công thành vạn cốt khô[1].
Có lẽ, trong đó, cũng có cả Chu Kỳ y.
*
“Văn chương không tồi,” – Hiên Viên Phù thản nhiên lật công văn Chu Kỳ vừa đưa lên, “Bản Vương thật sự rất tò mò vì sao kết quả thi cử của ngươi lại thường thường đến thế.”
Chu Kỳ uể oải đáp: “Vương gia quá khen rồi, từ nhỏ học vấn của hạ quan đã không tốt, trúng cử được đều là nhờ vào phúc lộc tổ tiên phù hộ thôi.”
Hiên Viên Phù liếc nhìn y: “Đêm qua không ngủ ngon hở?”
Tầm mắt Chu Kỳ dao động trên tấm tháp trải lông, đầu gật gật: “Cả đêm không ngủ.”
Hiên Viên Phù khẽ bật cười, nhích mông sang một bên, “Ngồi đi, không có người ngoài thì bớt mấy cái nghi thức xáo rỗng ấy đi.”
Co người ngồi lên tháp, Chu Kỳ cười rằng: “Trần đời có chủ soái biết cảm thông cho thuộc hạ như Vương gia thật là hiếm thấy.”
Có vẻ như Hiên Viên Phù cũng ngồi chán rồi, gã ngả người nằm đườn ra, cả thân hình to lớn gần như chìa cả ra ngoài lớp thảm.
“Ngươi có đánh giá thế nào về sự tình trong kinh thành?”
Mí mắt Chu Kỳ nặng trĩu, hỏi lại: “Sự tình trong kinh thành?”
“Đừng giả bộ. Ngươi đã gặp qua mấy đứa cháu của Bản Vương trong kinh thành chưa?”
Mặc dù mới tới Lũng Tây được nửa năm, nhưng dường như mỗi khi nhớ về Lạc Kinh, Chu Kỳ lại có cảm giác ký ức mười năm ấy thật mơ hồ, mơ hồ đến đáng sợ.
“Hạ quan không nhớ rõ lắm, nhưng có lẽ đều gặp qua cả rồi.”
Hiên Viên Phù khẽ cười: “Hai canh giờ nữa, Bản Vương có khách tới chơi, Phượng Nghi, có muốn đi gặp không?”
Chu Kỳ nhíu mày, “Nếu liên can cơ mật thì có mặt hạ quan chỉ khiến người ta nghi ngờ thôi.”
Chống cánh tay trái nhỏm dậy, Hiên Viên Phù nghiêm túc nhìn y: “Nếu vắng mặt ngươi, người nghi ngờ là Bản Vương mới phải.”
*
Hiên Viên Phù ngồi chính giữa chủ trướng, bên trái là Lô Ngang, bên phải có Chu Kỳ.
Người tới là một nam tử trung niên, tuổi chừng ba mươi, dáng người bệ vệ.
“Tại hạ Sử Uyên, bái kiến Vương gia.”
Lô Ngang và Chu Kỳ đồng thời liếc nhìn nhau, Hiên Viên Phù cười nói: “Chức quan của ngươi là gì? Có công văn của triều đình không? Trong trí nhớ của Bản Vương thì hình như không có cố nhân nào họ Sử thì phải.”
Sử Uyên khép hai tay vào trong hai ống tay áo, ngoài cười mà trong không cười: “Tại hạ là Truất trí sứ mới nhậm chức được phía trên cử xuống tuần sát Lũng Tây.”
Lô Ngang bình thản hỏi: “Án theo luật lệ, Phiên Vương được hưởng quân đội trong vùng đất mình được phong nhưng không được tham gia vào triều sự. Đồng lý mà nói, Vương phủ và tình hình quân sự trong Lũng Tây, Truất trí sứ đại nhân cũng không có quyền can thiệp đúng không? Vậy không biết Sử đại nhân không quản đường xá xa xôi tới nói biên cương này là có dụng ý gì?”
Nghe giọng điệu hăm he của hắn, Sử Uyên cũng không lấy làm hoảng sợ.
“Vương gia, dù là cả thiên hạ hay chỉ Vương thổ, hạ quan cũng phụng mệnh triều đình đi tuần tra rà soát, ngang qua đây thấy binh mã thường xuyên được điều động liền muốn tra xét một phần cho tròn bổn phận cũng không có gì đánh trách chứ ạ?”
Chu Kỳ không nín nổi cười nhạt: “Quan văn can thiệp vào quân vụ, đây là lần dầu tiên hạ quan được trông thấy đấy, Sử đại nhân làm hạ quan được mở mang tầm mắt rồi.”
Ánh mắt như rắn rết của Sử Uyên đảo sang Chu Kỳ: “Không dối gạt Vương gia, lần này hạ quan đến là có việc cơ mật muốn thương lượng với Vương gia, ở đây nhiều tai mắt, chẳng hay Vương gia có thể cho hạ quan mượn một không gian để nói chuyện hay không?”
Hiên Viên Phù nhướn mày nhìn hắn: “Ở đây đều là tâm phúc của Bản Vương, cứ nói đừng ngại.”
Sử Uyên kiên quyết: “Sự tình liên can rất lớn, hạ quan muốn nói với mình Vương gia.”
Hiên Viên Phù mất kiên nhẫn, lạnh lùng nói: “Hoặc nói ở đây, hoặc không cần nói nữa.”
Cuộc chia tay không mấy vui vẻ.
Sau khi tiễn chân Sử Uyên, Lô Ngang có phần sốt ruột nhìn Hiên Viên Phù: “Vương gia! Ngài cũng biết Sử Uyên là con trai của Sử các lão, đắc tội hắn không mang lại ưu đãi nào cho chúng ta cả.”
Hiên Viên Phù nhởn nhơ hỏi ngược lại: “Thế đắc tội ta thì chúng có ưu đãi sao?”
Chu Kỳ vẫn không nói gì, lẳng lặng ngồi một bên pha trà.
“Vương gia, dùng trà không?”
Hiên Viên Phù nhìn y: “Vậy đây hơn Lương Châu ở cam tuyền hay ở tân trà?”
Chu Kỳ thong thả rót trà từ chén cả ra ba chén con, đặt trên đĩa, nhíu mày nhìn gã: “Vương gia không thích?”
Hiên Viên Phù chọn chén cách xa gã nhất, nốc sạch một ngụm: “Không tồi.”
Chu Kỳ liếc xéo: “Ngưu tước mẫu đơn.” – đoạn y dùng hai tay nâng bôi trà, nắp chén ngang với hàng mày, đầu khẽ cúi.
“Hạ quan kính Vương gia.”
Hiên Viên Phù nhìn y từ tốn thưởng trà, tâm trạng nôn nóng vừa bị Sử Uyên khơi dậy cũng bình ổn hơn phân nửa, khóe miệng khẽ nhếch, học theo dáng vẻ y uống trà.
Lô Ngang đứng một bên thấy hai người đối diện thảnh thơi ngồi phẩm trà thì gấp đến độ giậm chân: “Đến lúc này rồi Vương gia còn học đòi phong nhã? Vương gia biết Sử Uyên hắn…”
Hiên Viên Phù lập tức cắt ngang sự thao thao bất tuyệt của Lô Ngang: “Bản Vương nào có học đòi phong nhã.” – thẩy Lô Ngang tức giận thở hùng hục thì nhướng mày cười, “Bản Vương phong nhã thật đó chứ.”
Lô Ngang hất rèm, xoay người xộc ra ngoài.
Chu Kỳ nhìn Hiên Viên Phù: “Vương gia không tín nhiệm Lô đại nhân?”
Hiên Viên Phù cúi đầu, xoay xoay chung trà trong tay: “Có lẽ …” – gã trầm ngâm một lúc, “Ngươi cho rằng Bản Vương tín nhiệm ngươi ư?”
Chu Kỳ thành thật lắc đầu: “Bất quá, tính ra Vương gia cũng không ghét hạ quan.”
Hiên Viên Phù bật cười sảng: “Đám tri thức đều tự cho là đúng thế sao?”
Trầm mặc một lúc lâu, Chu Kỳ từ tốn nói: “Ít nhất hạ quan cũng hy vọng thế.”
Hiên Viên Phù đặt chung trà xuống: “Đi, chúng ta ra ngoài tản bộ.”
Có lẽ vì không bận hành quân mà hai người khá ung dung tự tại, qua một canh giờ thì lên tới đỉnh núi Yên Chi.
Hiên Viên Phù dùng roi ngựa chỉ về phía trước: “Phượng Nghi, ngươi nhìn xem. Đó là Kỳ Liên sơn.”
Nhãn lực Chu Kỳ không xa bằng gã, trợn mắt ngóng nghía đến khi hốc mắt cay xè vẫn không tìm thấy Kỳ Liên sơn là đâu, giận dỗi: “Chẳng lẽ Kỳ Liên sơn biết nịnh nọt, không muốn cho một tiểu lại cỏn con như ta trông thấy?”
Hiên Viên Phù dong ngựa tới bên y, chỉ từ phía sau: “Kia, nơi đó.”
Chu Kỳ cố gắng nhìn, rốt cuộc giữa vân hải trùng điệp cũng thấy một đường chỉ nhợt nhạt mảnh mai.
“Sao ngươi biết đó là Kỳ Liên sơn?” – được phép không cần câu nệ khi có hai người, ngữ khí Chu Kỳ cũng trở lên tùy tiện hơn.
Mặt trời đỏ au nhô lên giữa mây mù trùng trùng, Hiên Viên Phù nheo mắt, ánh mắt gã vẫn chăm chăm nhìn về đỉnh Kỳ Liên sơn: “Trước kia Kỳ Liên sơn là Thánh sơn của Hung Nô, theo tiếng Hung Nô thì ‘Kỳ Liên’ đọc là ‘Cách Lí’, tức ý trời, Kỳ Liên sơn là Thiên sơn của Hung Nô.”
Sườn mặt gã bị ánh nắng nhuộm một lớp vàng mỏng, đáy mắt tràn đầy vẻ cuồng nhiệt.
“Đột Quyết,” gã cười lạnh, “Đột Quyết gọi Kỳ Liên sơn là Đằng Cách Nhĩ, cũng có nghĩa là Thiên sơn. Ta đoán, bọn Tây Nhung[2]này căn bản cũng phân chẳng rõ là Thiên Sơn, Côn Luân hay Kỳ Liên.”
Chu Kỳ không nhịn được xen vào: “Nhưng dẫu sao chúng vẫn có thể khiến quân đội Thiên Khải ta thất bại thảm hại.”
Hiên Viên Phù ngoảnh lại, có cơn phẫn nộ băng lạnh bắn ra từ mắt gã, sắc như tiễn: “Họa nguyên hữu đúng là một trò nực cười. Ngươi biết không, Bản Vương nghiên cứu từng chiến dịch, từng tòa thành trì. Dựa theo chiến lý, Hoàng thúc không có bất cứ lý do gì để thất bại cả.” – gã hít sâu một hơi, tầm mắt gã dừng nơi mắt Chu Kỳ, “Hai mươi vạn nhân mã mai cốt hoàng sa không phải vì đao thương của bọn ngoại tộc mãnh sĩ.”
Chu Kỳ lạc giọng hỏi: “Mà là?”
Hiên Viên Phù xót xa cười: “Có một đạo lý mà khi họ hiểu ra được thì đã quá muộn. Tướng lãnh nguyên hữu cũng thế mà phụ vương ta cũng vậy. Trên đời này, vô tình nhất tàn độc nhất không phải đao kiếm côn bổng, cũng không vì câu kích giáo dài, mà là thủ đoạn quyền mưu chốn quan trường của đám quan to quyền quý.”
____________
1. Nhất tướng công thành vạn cốt khô: Là một câu thơ trong bài thơ “Kỳ Hợi Tuế” của Tào Tùng(đời Đường). Câu thơ có nghĩa là khi một vị tướng đã tấn công vào thành thì sẽ dẫn đến cả vạn bộ cốt khô. Câu thơ mang ý phê phán sự tàn khốc của chiến tranh.
2. Tây Nhung: là tên gọi dân tộc thiểu số ở phía tây Trung Quốc cổ đại. Theo quan điểm của chủ nghĩa coi Trung Quốc là trung tâm của thế giới, thì Tây Nhung, Đông Di, Bắc Địch, và Nam Man hợp lại thành Tứ Di, tên gọi Tây Nhung mang ý nghĩa khinh miệt, miệt thị.