Tối đến,
Sất Vân Long ngồi trong hang động bên sườn núi, tay cầm thanh que gỗ xiên một con gà, hơ trên lửa. Vừa hơ, hắn vừa không nhịn
được mà rung đùi, co ro người lại bên đống lửa.
Thất Tuyết Liên
Sơn quả nhiên rất lạnh, lạnh hơn nhiều so với hắn tưởng tượng. Cái lạnh
có thể khiến một Kiếm Sư cấp bốn khốn đốn như thế, chắc cũng chỉ có ở
mỗi đỉnh núi này.
Hắn nhìn con gà nướng chỗ hồng hồng chưa chín,
chỗ lại đen nhẻm vì cháy, không nhịn được liên tục thở dài. Hắn từ bé
đến lớn sống trong cảnh vinh hoa phú quý, có bao giờ phải tự tay làm đồ
ăn? Hôm nay là lần đầu tiên hắn tự tay đi bắt gà, lại tự tay vặt lông,
cắt tiết,…
Sất Vân Long nhìn con gà xộc xệch xiên trên que, nhịn
không được xé lấy phần thịt nhìn bắt mắt nhất, nhét hết vào mồm, nhai
nhồm nhoàm.
- Nhạt quá….
Thế nhưng bụng đã bỏ đói hai
ngày, ngoài con gà này ra hắn còn có thể ăn gì khác? Thế là, con gà dẫu
nhạt thếch, chẳng ngon lành gì vẫn nhanh chóng biến mất.
Lúc
chiều hắn có hỏi nhị sư phụ thường ngày mọi người ăn gì, kết quả nhận
được câu hỏi ma pháp sư cần gì ăn uống của sư phụ. Điều này cũng có
nghĩa là, nếu hắn muốn ăn thì tự đi mà làm, chẳng nhẽ bắt người khác nấu cho hắn ăn!? Trên Thất Tuyết Liên Sơn này ngoài hắn đúng là có bốn nữ
nhân, thế nhưng….bốn người này người nào người nấy thân phận cao quí,
không phải Chủ Thần thì cũng là nữ nhi của Chủ Thần, Thánh Chủ rồi Độc
Sư nổi tiếng thiên hạ, hắn sao dám nhờ họ!?
Ngày hôm sau, hắn
nhân thời gian rảnh sau khi tu luyện cùng nhị sư phụ chạy xuống một tiểu trấn nhỏ cách Thất Tuyết Liên Sơn khoảng hơn hai mươi cây số mua một
vài gia vị cần thiết và hai cái chăn. Do lúc trước không đem theo ngân
lượng cùng đi, hắn đành bán miếng ngọc bội đợt trước mẫu thân đưa hắn,
hy vọng sau này lúc hắn mang ngân lượng đến chuộc, ngọc bội vẫn còn ở
đó.
Lão già Diên Minh y như lời hứa giải trừ khế ước với khô
lâu, đem tặng hai khô lâu đó lại cho nhị sư phụ, nhị sư phụ liền hướng
dẫn hắn cách lập khế ước với khô lâu. Thế là, hắn trở thành chủ nhân của hai vong linh khô lâu trong truyền thuyết. Chỉ có một điểm khiến hắn
không vui, đó là hai vong linh khô lâu đã mất hết tu vi, giờ chỉ là hai
bộ xương không hơn không kém. Nhị sư phụ nghe hắn nói thế thì cười, nói
sở dĩ mỗi lần khô lâu đổi chủ đều mất đi tu vi là vì nếu khô lâu vẫn giữ nguyên sức mạnh từ chủ nhân trước, chủ nhân mới sẽ rất khó điều khiển,
khai thác được hết sức mạnh khô lâu, phần vì sức mạnh của khô lâu quá
lớn, phần vì sức mạnh đó vốn không phải do người đó “ban” cho khô lâu.
Thế nên, khô lâu mất đi tu vi cũng chẳng phải điều gì bất lợi.
Hắn
vẫn phải dùng bản thân làm vật dẫn, giúp khô lâu hấp thụ linh khí. Nhưng không giống như đợt trước, nhị sư phụ hàng ngày đều dạy hắn công pháp,
võ kĩ, để hắn học đến khi nhuần nhuyễn mới chịu chuyển sang công pháp,
võ kĩ khác. Người còn kể cho hắn nghe không ít các cuộc chiến kinh thiên động địa giữa các cao thủ tiền thời được sử sách ghi lại, đương nhiên
phần lớn đều có liên quan đến vong linh ma pháp sư.
Khi hắn hỏi
nhị sư phụ rằng tại sao khi hồi bé khi hắn khảo nghiệm ma pháp lại bị
cho mà phế linh căn, phế thể chất, nhị sư phụ nói Thần Hư chi thể là một dạng cơ thể đặc biệt mà chủ thể không thể ngưng kết được thần hải, do
đó không tích lũy được ma pháp, nên được gọi là “phế linh căn”, còn về
phần thể chất, người sở hữu Thần Hư chi thể khi bé cực kì yếu đuối, dần
dà qua thời gian mới trở nên khỏe mạnh, thể chất tốt hơn người thường.
Khi hắn hỏi nhị sư phụ làm cách nào mới tận dụng được hết ưu thế của khô
lâu, người nói hắn phải tăng cường thực chiến, tăng cường linh hồn lực
để có thể kiểm soát được toàn bộ cử chỉ, hành vi của khô lâu. Người còn
nói, khô lâu càng nhiều chưa chắc đã là ưu thế, bởi vì muốn điều khiển
được thành thạo, nhuần nhuyễn một khô lâu là điều không hề dễ dàng, vậy
nên, muốn điều khiển nhiều khô lâu một lúc, tinh thần phải đủ tập trung, đủ linh hoạt, đủ thành thạo…Thế là từ hôm đó, ngày nào nhị sư phụ cũng
đối chiến cùng hắn, đánh đến khi hắn không đứng dậy được nữa mới thôi.
Hắn có đủ các khô lâu gồm các hệ hỏa, thủy, phong, thổ, hắc ám, quang minh, băng, lôi hệ, tinh thần hệ nhưng hắn chỉ tu luyện bốn loại là hỏa,
thủy, quang minh và hắc ám. Còn các khô lâu còn lại, nhị sư phụ bảo hắn
hủy đi. Thế nhưng, mấy bộ khô lâu này là món quà cuối cùng mà Phi Nguyệt tặng hắn, hắn sao có thể vứt đi được? Cuối cùng, hắn chọn lưu lại, cất
trong không gian nhẫn giới làm vật kỉ niệm. Người ta tu luyện một loại
ma pháp đã không dễ dàng, hắn lại tu luyện cả bốn loại, đương nhiên khó
khăn chồng chất khó khăn. Công pháp và võ kĩ thông thường chỉ chuyên
dùng cho một loại ma pháp, cũng tức là nếu tu luyện bốn loại ma pháp,
hắn phải học gấp bốn lần số công pháp, võ kĩ mà ma pháp sư, chiến sĩ
thông thường phải học. Đối với một kẻ lười biếng như hắn, điều này quả
thực là cực hình. Cực hình thì cực hình, nhưng hắn vẫn cố gắng học hết.
Nhị sư phụ cũng không thúc giục hắn, bình tĩnh giảng giải, để hắn luyện
tập đến khi thành thạo mới thôi.
Còn về Độc Công, hắn phải chịu
không ít khốn khổ khi tu luyện môn công pháp này. Độc Công, như tên gọi
của nó, là công pháp tu luyện các loại độc. Nói là công pháp cũng không
hẳn đúng vì Độc Công nói đúng ra là cách dùng độc, hạ độc người khác phụ thuộc vào ma pháp. Thế nào gọi là phụ thuộc vào ma pháp? Chính là khi
chiến đấu, ma pháp sư thông thường dùng ma pháp đánh nhau, mà Độc Công
thì lại nhân cơ hội hạ độc đối thủ trong khi đối chiến, mà trong phần
lớn các cách, độc lại được hạ trong chính công kích ma pháp! Đại sư phụ
nói, ma pháp sư học Độc Công, cấp bậc tu vi có thể không cao, công kích
có thể không mạnh mẽ, nhưng hạ độc thì phải đạt đến cảnh giới “thần
không biết, quỷ không hay”! Đau khổ nhất là, đại sư phụ vì muốn hắn hiểu rõ điều này nên đã đích thân ra tay, mỗi ngày dùng một cách nào đó hạ
độc hắn trong lúc đối chiến. Độc mà người sử dụng tuy không phải là dạng chí độc nhưng cũng khiến hắn chịu không ít khổ cực. Theo lời đại sư
phụ, người làm thế là vì muốn hắn “biết điều mà cố gắng”.
Phân
nhánh hạ độc là như vậy, phân nhánh cải tạo cơ thể cũng không khá hơn là bao. Mỗi lần uống bốn viên thuốc, uống càng nhiều hiệu quả càng cao.
Thời gian đầu hắn còn hào hứng, nhắm mắt nhắm mũi uống cho bằng hết. Đến khi hết sạch bốn lọ, đại sư phụ lại đổi cho hắn bốn lọ khác, mà bốn lọ
này, so với bốn lọ trước thì vị của chúng khủng khiếp hơn cả chục lần!
Chỉ cần hắn nuốt một viên, vị hoặc tanh nồng hoặc chua hoặc hoặc đắng
ngắt nhất định sẽ khiến hắn nôn thốc nôn tháo tất cả những gì trong
bụng, khó chịu không bút nào tả xiết. Thế là, hắn giảm từ một ngày uống
mười lần xuống còn một ngày một lần, rồi lại tăng lên ba lần do bị đại
sư phụ thúc ép.
Dần dần, hắn cũng quen với nhịp sống hàng ngày ở đây: sáng tu luyện với đại sư phụ, chiều với nhị sư phụ, tối đi săn,
mua đồ ở tiểu trấn, học đầu bếp ở đó cách làm vài món rồi chạy về làm đồ ăn. Càng ngày, số lượng bữa ăn trong một ngày càng tăng lên, từ một lên hai, lên ba rồi lên…sáu, phần vì tay nghề hắn đã hơn trước, đồ ăn ngon
hơn, phần vì tu luyện quá khổ cực. Hắn cảm thấy ăn thêm là điều tất yếu. Ba tháng sau, khi mà hắn cảm thấy tay nghề của bản thân không tồi,
trong một hôm đẹp trời với cơn “bão tuyết” nhè nhẹ băng qua, hắn liền
nấu thêm hai phần nữa mang đến cho đại sư phụ và nhị sư phụ vào buổi
tối. Cả hai người đều ngạc nhiên, hết nhìn hắn lại nhìn đồ ăn, như thể
cố xác định xem đồ ăn có ăn được không, hắn phải nói hết nước hết cái,
hai người mới chịu đụng đũa. Kết quả, đại sư phụ gật đầu một cái, nói
hắn không đến mức vô dụng như bà nghĩ, nhị sư phụ thì khen hắn hai ba
câu. Thế là, từ hôm đó, ngày nào tối đến hắn cũng mang đồ ăn đến cho hai người. Lại nói, đại sư phụ và nhị sư phụ tuy là tỷ muội nhưng lại không ở chung chỗ, một người ở bên sườn ngọn núi thứ ba, một người ở bên sườn ngọn núi thứ tư, thỉnh thoảng nhị sư phụ mới sang ở cùng đại sư phụ
hai, ba hôm.
Hàng ngày hắn đều gặp đại sư phụ và nhị sư phụ,
nhưng phải đến mãi gần bốn tháng sau, hắn mới gặp được thái sư thúc tổ
và cô cô lần hai. Đó là vào một buổi tối khi hắn mang đồ ăn đến cho đại
sư phụ, thấy cả bốn người đều ở đó. Hắn mang hai phần đồ ăn, mà ở đó lại có tận bốn người nên đành lật đật chạy về mang thêm phần đồ ăn còn lại
vốn để cho bản thân sang. Hắn bình thường ăn gấp ba lần người thường,
cho nên số thức ăn mang sang phải đủ cho năm người ăn! Thái sư thúc tổ
thấy thế liền bảo hắn ăn cùng. Sau đó, thái sư thúc tổ nói đồ ăn không
tệ, có thể sánh được với mấy quán ăn ở kinh thành, cô cô nói tạm nuốt
được. Từ đó, hắn liền biết thân biết phận mỗi tối làm bốn phần đồ ăn,
mang đến cho mọi người. Cũng vì thế mà hắn mới phát hiện ra một điều, đó là cô cô gần như không hề rời khỏi thái sư thúc tổ nửa bước. Bất cứ lúc nào hắn thấy thái sư thúc tổ, cô cô cũng ở bên cạnh người, từ sáng sớm, tối muộn hay buổi trưa! Hắn đem điều nghi vấn này hỏi nhị sư phụ, người nói cô cô hắn từ bé đã đi theo sư phụ, lúc bé cả ngày được người bế đi
giải quyết công chuyện, lớn rồi lại theo người chu du khắp nơi, lúc nào
cũng lẽo đẽo đi theo như cái đuôi không rời, so với mẫu tử nhà người ta
còn gắn bó hơn gấp trăm lần!
Bỗng một tối nọ, thái sư thúc tổ
nói muốn dạy hắn một bộ võ kĩ cho chiến sĩ, nếu có thể phối hợp được với hắc ám ma pháp từ khô lâu thì càng tốt, coi như là hồi lễ vì ngày nào
cũng mang đồ ăn sang cho bà. Thái sư thúc tổ sử cho hắn xem bộ võ kĩ một lần, rồi trung bình cứ một tháng lại dạy hắn một chiêu, giảng giải kĩ
từ cử động cơ thể, vị trí cánh tay, góc độ xoay của cổ chân cho đến lực
sử dụng, lượng ma pháp đánh ra. Chiêu thức của bộ võ kĩ này lúc thì đơn
giản, lúc thì phức tạp. Những lúc hắn cảm thấy mình luyện tập khá ổn
rồi, thái sư thúc tổ đều lắc đầu, chỉnh cho hắn đến khi bà cảm thấy được rồi mới thôi, dạy cho hắn chiêu thức khác.
Hắn, Sất Vân Long vô cùng thích cuộc sống ở đây - một cuộc sống đơn giản, không lo nghĩ, không bon chen, không thị phi,…