Tiếng hét làm cho Bob và Peter giật mình.
Hai cậu đang đứng trước một cánh cửa lớn. Ánh trăng khiến lâu đài cũ đổ nát với tường phủ đầy dây tường xuân đầy vẻ hư ảo.
Bob, đeo máy ghi âm xách tay và đang mô tả cảnh bằng cách nói vào micrô, vừa mới ngưng báo cáo của mình để nhận xét :
- Peter ơi, cậu biết không, nhiều người nghĩ rằng lâu đài này có ma. Rất tiếc bọn mình không nghĩ đến, lúc cần tìm một ngôi nhà có ma cho bác Alfed Hitchcock.
Bob nói về thời kỳ Ba Thám Tử Trẻ làm quen với nhà đạo diễn lỗi lạc khi làm sáng tỏ “Vụ bí ẩn lâu đài kinh hoàng”.
- Phải - Peter thừa nhận - Có lẽ bác Hitchcock sẽ thích chỗ này để quay phim. Nhưng cậu biết không, mình và bác ấy không có cùng sở thích. Mình đề nghị chuồn khỏi đây thật nhanh vì...
- Iiiiiiiiiiiiaaaaa...
Tiếng the thé, giống thú hơn giống người. Bob và Peter ớn lạnh xương sống.
- Cậu nghe không? - Petre hỏi nhỏ - Chuồn đi, mình đã nói rồi!
- Khoan đã - Bob phản đối, mặc dù cũng rất muốn chạy - Nếu có Hannibal ở đây, cậu ấy sẽ cố gắng ghi âm tiếng hét này
Hannibal là sếp của nhóm.
- Không có Babal ở đây mà, ta hãy lợi dụng chạy! - Peter la lên.
Nhưng Bob đã xoay micro về hướng ngôi nhà đổ nát.
- Aaaaaaiiiiiiiiii! - Giọng nói khủng khiếp lặp lại.
- Thâu đủ rồi. Đi! - Peter nài.
Lần này, Bob không pảhn đối nữa. Hai thám tử chạy nhanh như tên bắn.
Một tuần trước đây, bác sĩ đã cho phép Bob tháo máy chỉnh hình ở chân mà cậu phải đeo một thời gian dài sau một tai nạn làm gãy chân. Bây giờ Bob cảm thấy nhẹ nhàngđến nỗi có thể chạy nhanh hơn Peter. Mà chỉ cần chạy xuống hết lối đi để đến chỗ để xe đạp. Nhưng Bob và Peter không đi được xa lắm. Hai cậu lần lượt bị những bàn tay khỏe mạnh chụp lấy và bắt đứng yên lại.
- Kìa! Cháu xém làm chú ngã! - Người đàn ông mập nét mặt vui vẻ nói. Ông thuộc tốp người đang đi lên lâu đài.
- Tiếng ồn đó là gì?- Người đàn ông cầm tay Bob để tránh cho cậu không va vào mình trong bóng tối hỏi.
- Tụi cháu vừa mới nghe ma la. - Peter giải thích.
- Tầm bậy! Chắc là có ai bị tai nạn. - Người đàn ông nói.
Nhóm người mới đến gồm năm sáu ông, xúm nhau nói chuyện cùng một lúc và không để ý gì đến Bob và Petre. Tất cả đều ăn mặc sang trọng và có vẻ như ở gần lâu đài Green cũ kỹ, nơi tất cả đang đứng.
- Nên vào nhà. - Một người đàn ông có giọng trầm và bộ ria rậm rạp nói - Chúng ta muốn xem lâu đài trước khi nó bị đập phá: thì đã đến lúc vào. Phải xem bên trong có ai bị thương không?
- Nên gọi công an - Người đàn ông mặc áo vet carô thể thao đề nghị - Nghề của công an là lo những chuyện như thế này.
- Và để kẻ bị thương chết àh? - Người đàn ông giọng trầm phẫn nộ.
- Phải - Một người đàn ông đeo cặp kính dày nói - Ta phải vào xem.
- Vậy thì các anh vào đi, tôi đi kêu công an. - Người mặc áo vét carô nói.
Ông đang bước đi, thì một người thấp, dắt một con chó nhỏ xen vào :
- Lỡ là con chim hay con mèo bị nhốt trong đó, thì anh sẽ bị quê khi kêu công an.
- Nhưng... mà...
- Nghe đây! - Người đàn ông cao nhất trong nhóm nói - Chúng ta có tất cả nửa chục người, chúng ta đều có đèn pin. Ta hãy vào tham quan ngôi nhà trước, rồi chỉ gọi công an đến nếu thấy cần thiết. Hai cháu kia về nhà đi, không cần đến các cháu nữa đâu.
Người đàn ông bước dài về lâu đài, dọc theo lối đi có lót đan. Sau khi phân vân, tất cả bắt chước. Người đàn ông có con chó nhỏ ẵm cục cưng trong tay. Người đàn ông mặc áo vet carô bước theo, không phấn khởi.
- Đi về. - Peter nói với Bob - Ông ta nói đúng: họ không cần mình.
- Có thể, - Bob trả lời - nhưng nếu bọn mình về nhà mà không biết ai đã la như thế, thì Hannibal sẽ la lên, còn khủng khiếp hơn nữa. Dù sao, bọn mình là thám tử, đúng không? Mà nếu dông người, thì không có gì phải sợ hết.
Bob chạy theo nhóm người: Peter không còn cách nào khác đành miễn cưỡng bước theo.
Trước cửa vào, nhóm người lớn đứng lại, vẫn còn phân vân. Cuối cùng người cao nhất thử mở. Cánh cửa nặng nề mở ra dễ dàng, để lộ một hành lang rộng thênh thang và tối om.
- Đèn! - Người đàn ông ra lệnh.
Ông bật đèn lên và bước vào cầu thang. Những người còn lại bắt chước. Bob và Peter lặng lẽ lén theo sau.
Các chùm đèn sáng chéo nhau, làm hiện lên những bức tượng phủ vải lụa có hoa văn kiểu Phương Đông.
Một thang lầu rộng dẫn lên lầu một, vẽ một đường cong uy nghi.
- Cách đây năm mươi năm, ông Mathias Green đã bị té từ trên đó xuống - Một người đàn ông vừa nói vừa chiếu sáng phía trên cao thang lầu. Và từ đó, ngôi nhà đóng cửa luôn. Hôi mùi, mốc quá!
- Theo một số người nói, nhà này có ma - Một người khác nói - Nếu có tôi cũng không thấy ngạc nhiên. Chỉ hy vọng chúng ta không gặp.
- Thay vì tán dóc, ta hãy đi xem tầng trệt đi. - Người đàn ông cao quyết định, mặc nhiên trở thành trưởng nhóm.
Một dãy những phòng rộng lớn đưa ra tiền sảnh. Không có chỗ nào có bàn ghế cả. Sàn nhà biến mất dưới một lớp bụi dày. Một bên lâu đài dẫn ra khoảng không: công nhân đập phá đã bắt đầu làm việc từ phía đó.
Tất cả đi thử phần nhà bên kia. Sau khi bước qua một loạt phòng trống không, nơi mỗi tiếng động gây nên tiếng vọng, cuối cùng nhóm người vào một phòng khách rộng mênh mông, có một cái lò sưởi vĩ đại. Cả nhóm tụ lại đứng trước lò sưởi, với một cảm giác khó chịu và lo sợ.
- Việc ta làm chẳng có ích gì - Một người nói - phải gọi công an.
- Suỵt! - Một người khác kêu.
Tất cả đứng sững tại chỗ.
- Tôi vừa mới nghe tiếng động, - Người đàn ông nói tiếp - có thể là một con thú? Ta hãy tắt đèn và chờ xem có tiếng gì động đậy không?
Tất cả đèn pin đều đã tắt. Phòng khách chìm vào bóng tối. Chút ánh trăng rơi xuống sàn nhà qua cửa sổ lớn kính mờ đục.
- Nhìn kìa! - Một người hổn hển nói.
Mọi người quay sang cánh cửa vừa mới bước vào lúc nãy: một bóng người lờ mờ màu xanh lá cây đang đứng ở đó, chập chờn như một khối sương mờ.
- Con ma! - Một giọng nói khẽ - Đó là giọng ông Mathias Green...
- Bật đèn lên! - Trưởng nhóm ra lệnh - Hãy chiếu đèn vào chỗ đó!
Ông chưa nói xong, thì cái bóng xanh xanh lướt nhẹ dọc theo tường, rồi biến mất qua cánh cửa. Ba chùm đèn đột ngột bắn ra chỉ chiếu sáng khung cửa trống không.
- Ước gì mình đang ở cách nơi này 10 km - Peter nói khẽ vào tai Bob.
- Chắc là ánh sáng phản chiếu của đèn pha ô tô - Một người lớn nói - Ta hãy vào tiền sảnh xem có gì không.
- Trong tiền sảnh không có gì hết. Một người đề nghị tắt đèn nữa. Sau đó tất cả im lặng chờ đợi. Chỉ nghe tiếng con chó thỉnh thoảng kêu rên.
Lần này, chính Peter phát hiện con ma. Cũng xanh xanh và lờ mờ như lúc đầu, nó đứng trên bậc thềm, chỗ lưng chừng cầu thang.
- Nó kìa! - Peter la lên.
Mọi người quay lại ngay. Cái bóng lướt từng bậc thềm, rồi biến mất vào bóng tối lầu một.
- Theo nó - Người đàn ông nhận trách nhiệm chỉ huy la lên - chắc là có ai đang chơi ta!
Mọi người hỗn loạn rượt theo con ma. Khi đến phần trên cầu thang lầu, không còn gì nữa hết.
- Cháu có sáng kiến - Bob nói, sau khi lý luận y như Hannibal nếu có cậu ở đó - trên sàn nhà có nhiều bụi đến nỗi chắc chắn kẻ đùa nghịch, nếu đúng là như thế chắc chắn phải có dấu vết.
- Đúng! - Người đàn ông có con chó nhỏ nói - Ta hãy chiếu sáng sàn nhà, nơi ta chưa giẫm lên.
Các chùm sáng được chĩa ngay xuống đất: có rất nhiều bụi nhưng vẫn còn y nguyên.
- Vậy thì nó đi ngả nào? - Một người hỏi.
Không có ai trả lời.
- Ta hãy tắt đèn và chờ thử. - Một giọng khác đề nghị.
Tuy nhiên, vì không ai chịu thừa nhận mình đầu thấy sợ, mọi người vẫn đứng lại tại chỗ. Có tám chin người kể cả Bob và Peter.
Tụ tập trong bóng tối trên thang lầu, nhóm săn ma chờ đợi.
Đột nhiên có người thì thầm :
- Bên trái, trên tầng ta đang đứng...
Có ánh sáng xanh khó thấy vừa mới xuất hiện ở một khoảng cách nào đó, bên cạnh một cánh cửa. Dần dần ánh sáng rõ lean. Bây giờ, mọi người có thể nhận ra bóng người mặc áo dài xanh, rộng, như áo một ông quan.
- Đừng làm nó sợ. - Một giọng nói nhỏ khuyên - Để xem nó làm gì...
Không ai động đậy
Con ma dịch chuyển chậm chạp. Nó lướt dọc theo tường, đến hành lang dẫn lên cầu thang. Rồi dường như nó quẹo và biến mất.
- Ta đi theo nó từ từ đi. - Một người đàn ông nói.
- Ta hãy xem trước xem có dấu vết gì không - Bob đề nghị.
Hai chùm sáng lục soát vào bóng tối
- Không có dấu chân! - Người đàn ông giọng trầm nói - Tên thích đùa này nổi trên không.
- Vậy thì hãy rượt theo nó! - Trưởng nhóm quyết định.
Cả nhóm bước qua hành lang đến chỗ con ma biến mất. Tại đó có một hành lang nhỏ đâm ngang, và có hai cánh cửa rộng mở.
Mọi người lại tắt đèn.
Một thời gian trôi qua, rồi cái bóng xanh xuất hiện ở một cánh cửa. Nó đi hết hành lang nhỏ, cuối cùng nó từ từ mờ nhạt đi.
- Hình như nó đi xuyên qua tường. - Bob nói khẽ.
Vẫn không có dấu vết đi lại trên lớp bụi.
Ngay khi nhận được điện thoại, thanh tra Reynolds và công an đến điều tra, nhưng không thấy ai trốn trong lâu đài, và cũng không thấy con thú bị thương nào.
Thanh tra Reynolds là một con người nghiêm túc chưa bao giờ gặp ma trong suốt cuộc đời làm việc. Nên ông không muốn bị chê cười khi báo cáo lên cấp trên về các sự kiện tối hôm đó đúng như đã nghe tường thuật lại.
Nhưng thanh tra Reynolds không có cách nào khác. Không những có tám nhân chứng đáng tin cậy sau khi đã nhìn tận mắt thấy con ma khi nghe tiếng hét không tả được, mà vào đêm hôm đó còn thu thập nhiều thông tin khác :
- Một bảo vệ kho báo là có thấy một bóng mờ mờ xanh xanh gần cửa kho.
- Một phụ nữ gọi đến công an để nói bà bị một tiếng la kỳ quặc đánh thức và nhìn thấy một nhân vật mặc đồ xanh hiện trên sân trước hiên nhà bà;nhân vật đó đã biến mất ngay khi bà bật đèn lên.
- Hai tài xế xe tải khẳng định có một con ma đi quanh xe mình.
Còn tệ hơn nữa!
Lúc gần rạng sáng, hai công an tuần tra để ý thấy có hoạt động đi lại không rõ trong nghĩa địa Rocky. Hai anh gọi về sở công an, và chính thanh tra Reynolds chạy ra tận nơi xem. Ông bước vào nghĩa địa và chính mắt mình thấy một cái bóng xanh xanh đứng cạnh tấm bia mộ. Khi thanh tra Reynolds đến gần, dường như con ma chui xuống dưới đất mất.
Thanh tra bật đèn pin lên và đọc dòng chữ ghi trên tấm bia :