Vũ Trụ Vô Địch Nửa Nông Dân

Chương 204: Chương 204: Đại hồng thủy




Lộc Động Đình cười càng ngày càng tươi, cảm giác có điều không lành sắp xảy ra của giáo sĩ càng ngày càng cường liệt.

“Anh bạn, anh bạn à.

Anh lại nói theo kiểu vòng tròn nữa rồi.

Chúa tồn tại vì kinh thánh viết như vậy – bởi vì mọi điều kinh thánh nói đều là sự thật! – Bởi vì kinh thánh là phúc âm của chúa!

Không! Không đâu anh bạn ạ, đó là một suy luận vòng tròn vớ vẩn.

Làm sao mà chúa thật sự tồn tại chỉ vì một quyển sách viết rằng anh ta thực sự tồn tại, và chắc chắn một điều rằng kinh thánh không phải lời của chúa, nó được viết bởi rất nhiều người khác nhau trong hàng ngàn năm.”

“Anh đang tránh né bằng chứng của tôi, bằng chứng về trận đại hồng thủy, anh đang cố đánh trống lảng bởi vì anh biết tôi đúng, mọi nền văn minh đều có ghi chép hoặc truyền thuyết về trận đại hồng thủy.

Không thể có sự trùng hợp nào cho việc đó được, không thể có sự trùng hợp xảy ra với tất cả các nền văn minh khác nhau trên nhiều vùng đất khác xa nhau.

Sherlock Holmes đã nói - Khi bạn đã loại bỏ những điều không thể thì điều cuối cùng, dù khó tin đến đâu, cũng chính là sự thật.

Bởi vậy trận đại hồng thủy, dù có khó tin đến đâu, anh cũng phải chấp nhận đó là sự thật.”

“Ôi nhà truyền giáo vĩ đại, tôi không ngờ rằng anh lại có thể có lý luận sắc bén đến như vậy.

Nhưng như tôi đã nói, anh phải trở về trường học, và học hành lại tất cả những gì anh đã quên hoặc đã không học vì cuốn sách kinh thánh ngớ ngẩn đó.

Gần như tất cả mọi nền văn minh của loài người đều được bắt nguồn từ những con sông, và những con sông càng lớn càng tốt.

Những nền văn minh lớn nhất huy hoàng nhất thời cổ đại đều là nằm trên các lưu vực sông lớn, như là Lưỡng Hà, Ai cập, Ấn Độ, Hoàng Hà...

Bởi vì không chỉ là con người mà bất kỳ loài sinh vật nào cũng cần nước, những con sông là nguồn nước lớn nhất quan trọng nhất.

Nguồn nước là quan trọng nhất cho bất kỳ nền văn minh hay cộng đồng người nào.

Những con sông lớn thường được lựa chọn và tập trung đông dân cư nhất bởi vì nguồn nước dồi dào, thuận tiện cho việc phát triển nông nghiệp, tức là trồng trọt và chăn nuôi.

Phù sa bồi đắp làm cho đất càng thêm màu mỡ, thuận lợi cho việc trồng trọt cây lương thực, nguồn nước dồi dào từ những con sông để cung cấp nước uống cho gia súc và con người.

Mà ở lưu vực những con sông thì những trận lũ lụt là chuyện thường thấy, chúng xảy ra hàng năm, có đôi khi một năm có vài lần lũ lụt, trong hàng trăm hàng nghìn năm con người sống trên lưu vực của những con sông, sẽ có một số năm những trận lũ lụt lớn hơn, nhanh hơn, và kéo dài hơn bình thường.

Đó là lúc những ghi chép hoặc truyền thuyết về trận đại hồng thủy bắt đầu nảy sinh, cũng là lý do cho việc hầu như mọi nền văn minh đều có ghi chép hoặc truyền thuyết về cơn đại hồng thủy, không chỉ là một trận đại hồng thùy, có nơi sẽ là nhiều trận đại hồng thủy.

Hơn nữa, câu chuyện về trận đại hồng thủy Nô – a trong kinh thánh chỉ là một sự sao chép trắng trợn của câu chuyện về trận đại hồng thủy của người Assyria, đó là câu chuyện được kể qua Trường ca Gilgamesh.

Trường ca Gilgamesh của người Assyria cũng miêu tả những trận ôn dịch khủng khiếp hoành hành, và một trận Đại hồng thủy xảy ra.

Nhưng Trường ca Gilgamesh khác biệt ở chỗ vị Thần bảo hộ con người là Thần Ea, và kẻ được Thần Ea chỉ dạy là Utu - napishtim.

Sáu ngày sau khi Đại hồng thủy bắt đầu, nước rút dần, và Utu - napishtim đã thả ra cửa một con chim thứ nhất để thử, nhưng nó không bay được xa.

Sau đó, ông thả ra ngoài một con chim nhạn, nhưng cũng không có kết quả gì hơn. Cuối cùng, một con quạ đã bay đi mất khi được thả ra ngoài, báo hiệu cho Utu - napishtim là nước đã rút.

Ông ra ngoài và làm lễ cúng tế Thần linh.

Và hãy xem lại kinh thánh đã viết thế nào?”

Lộc Động Đình cười, cầm lấy điện thoại sau đó tìm kiếm về trận đại hồng thủy Nô – A trong kinh thánh, rồi đưa cho anh chàng giáo sĩ đọc.

Sáng thế 7:

17 Nước lụt đến trên mặt đất bốn mươi ngày, nước dâng cao, nâng chiếc tàu lên khỏi mặt đất.

18 Nước dâng lên rất cao trên đất và chiếc tàu nổi trên mặt nước.

19 Nước dâng cao lên, rất cao trên đất đến nỗi ngập hết tất cả các ngọn núi cao dưới bầu trời.

20 Nước dâng lên cao phủ ngập các núi đến bảy mét.

21 Tất cả các loài sinh vật trên mặt đất đều bị diệt, nào chim trời, dã thú, súc vật, loài bò sát trên đất và mọi người.

22 Tất cả các loài có sinh khí trong mũi và sống trên đất đều bị chết.

23 Mọi loài sinh vật trên mặt đất đều bị quét sạch khỏi mặt đất, từ loài người đến thú vật, từ loài bò sát đến loài chim trời. Chúng đều bị quét sạch khỏi mặt đất, chỉ có Nô – A và những người, những sinh vật ở với ông trong tàu còn sống sót mà thôi.

24 Nước lụt bao phủ mặt đất suốt một trăm năm mươi bảy ngày.

Sáng thế 8:

2 Các nguồn nước của vực sâu, các cửa sổ trên trời đóng lại, và mưa từ trời ngưng đổ trên đất.

3 Nước rút xuống, cứ tiếp tục rút xuống, trong một trăm năm mươi ngày, nước mới hạ xuống.

4 Ngày mười bảy tháng bảy, chiếc tàu tấp trên dãy núi A ra rát.

5 Nước cứ rút cho đến tháng thứ mười; ngày mồng một tháng mười các đỉnh núi mới lộ ra.

6 Sau bốn mươi ngày, Nô - a mở cửa sổ mình đã làm trên tàu, 7 ông thả một con quạ ra, nó bay đi lượn lại cho đến khi nước cạn khô trên mặt đất.

8 Ông cũng thả một con bồ câu để xem nước rút khỏi mặt đất chưa.

9 Nhưng bồ câu không tìm được chỗ nào đáp chân xuống, nên quay về với ông trên tàu, vì nước vẫn còn trên khắp mặt đất. Ông đưa tay đón bồ câu đem vào trong tàu với mình.

10 Ông đợi thêm bảy ngày rồi lại thả bồ câu ra khỏi tàu.

11 Đến chiều, bồ câu quay về, mỏ ngậm một chiếc lá ô-liu mới hái; Nô - a biết rằng nước đã rút khỏi mặt đất.

12 Đợi bảy ngày nữa, ông lại thả bồ câu ra, nhưng lần này bồ câu không quay về với ông nữa.

“Anh bạn nhớ rồi chứ? hẳn là anh đã đọc đi đọc lại truyền thuyết về Nô – a trong kinh thánh.

Nhưng hãy nhớ những ghi chép đầu tiên về truyền thuyết Nô – a là khoảng 500 – 800 năm trước công nguyên.

Còn câu chuyện Trường ca Gilgamesh của người Assyria thì đã được ghi chép lại trên tấm bia bằng gốm trước công nguyên 2000 năm.

Có thể anh cũng không biết rằng Trường ca Gilgamesh của người Assyria, cũng chỉ là bản sao chép khá, của truyền thuyết về đại hồng thủy của người Sumer, một nền văn minh thuộc Lưỡng hà 3000 năm trước công nguyên.

Câu chuyện của người Sumer là thế này.

Sau khi vương quyền tới từ Thiên đàng, nó ở Eridug.

Tại Eridug, Alulim trở thành Vua; ngài trị vì trong 28.800 năm.

.....

Khi Zimbir sụp đổ, vương quyền được đưa tới Shuruppak.

Ubara - Tutu trở thành đức Vua, ông trị vì trong 5 sar và 1 ner.

Rồi lũ quét qua.

Sau khi lũ đã quét qua, vương quyền lại tới từ Thiên đàng, và nó tới Kish.

Đại khái chính là người Sumer được thần tạo ra, không phải chỉ một thần mà là nhiều thần cùng nhau tạo ra loài người.

1200 năm sau khi con người được thần linh tạo ra, dân số đã không ngừng gia tăng do điều kiện sống thật lý tưởng.

Cả thế giới tràn đầy những âm thanh hỗn tạp như tiếng bò rống.

Các vị Thần trên bầu trời bị con người làm phiền.

Vị thần tên là Enlil đứng đầu các vị thần nói: “Con người quả thật ồn ào đến đinh tai nhức óc, khiến tôi không thể yên tĩnh nổi”.

Từ đó, Thần Enlil đề xuất gây ra một trận bệnh dịch lớn, rồi một trận hạn hán lớn, rồi một trận đói lớn, để con người không còn có thể sinh sôi.

Tuy nhiên cứ mỗi khi gặp nguy cơ diệt vong, con người lại tới cầu xin Thần Enki, vị Thần tạo ra những nền văn minh, và Thần đã chỉ cho họ cách để thoát khỏi tai họa, khiến mặt đất trở về với trạng thái ban đầu.

Thần Enlil đã mở một cuộc họp với những vị thần còn lại, họ quyết định tạo ra một trận lụt lớn, một trận đại hồng thủy nhấn chìm tất cả, hoàn toàn hủy diệt loài người.

Thần Enki không chấp nhận, nhưng vì tất cả các thần đã quyết định cho nên thần Enki không thể làm gì được.

Nhưng thần Enki đã tìm đến một người tín đồ trung thành nhất của thần linh, tên là Atrahasis.

Thần Enki yêu cầu Atrahasis vứt bỏ tài sản, dỡ nhà để xây dựng một con thuyền lớn, và cứu lấy những loài vật trên mặt đất, mang theo mỗi loài hai con đực cái.

Trong trận đại hồng thủy, nữ thần Nintu đã khóc thương cho loài người, các vị thần khác cũng vậy, vì loài người là con của họ, họ đã tạo ra loài người.

Sau khi Đại hồng thủy qua đi, Thần Enlil cùng các vị Thần khác nhận ra sai lầm của mình, và hối hận vì việc đã xảy ra.

Vào thời khắc ấy, Atrahasis ra khỏi con tàu của mình, và công việc đầu tiên ông làm là cúng tế các thần linh.

Mặc dù chỉ vừa mới bày tỏ sự hối tiếc của mình, Thần Enlil vẫn rất tức giận với Thần Enki vì đã cho phép một con người còn sống sót.

Tuy nhiên, Thần Enki đã trấn an Thần Enlil, rồi mời Chư Thần tới tiếp nhận lễ cúng tế của Atrahasis.

Trong buổi lễ, Thần Enki đề xuất rằng Chư Thần sẽ tạo ra loài người mới, ít khả năng sinh sôi hơn, và sẽ có những người phụ nữ không thể mang thai được.

Những người phụ nữ làm lễ cúng tế Chư Thần cũng phải là những người còn trinh trắng.

Chư Thần đồng ý với giải pháp của Thần Enki, và tưởng thưởng cho Atrahasis bằng cách đưa ông ta lên Thiên đàng. Trong khi đó, nữ Thần Nintu bắt tay vào việc tạo ra loài người mới...

Chà chà...!

Anh bạn, anh có thấy quen thuộc không, có vẻ như chúng ta có một kẻ đạo văn ở đây.

Có vẻ như có một vị thần toàn năng nào đó cũng làm những việc giống y như vậy, nhưng tận 2000 năm sau việc làm của những vị thần của người Sumer.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.