Công việc đánh bắt trên hồ Payette khá thuận lợi nên đến tận thứ Ba tuần sau đó, ông cảnh sát trưởng Potter mới về nhà. Nhưng ngay khi danh thiếp của Maddie đến tay ông ta, ông lập tức gọi cho cô và hẹn gặp cô ngày hôm sau ở nhà ông. Trong sự nghiệp viết truyện của cô có một thứ mà lúc nào cô cũng có thể tin tưởng dựa dẫm, đó là cảnh sát. Dù là một thám tử thuộc sở cảnh sát Los Angeles hay một cảnh sát trưởng ở một thị trấn nhỏ, ông cảnh sát nào cũng thích tán chuyện về các vụ án trước đây.
“Tôi sẽ không bao giờ quên đêm hôm đó,” ông cảnh sát trưởng nghỉ hưu nói, trong khi mắt đang nhìn vào những bức ảnh hiện trường vụ án qua đôi mắt kính. Trong khi những viên cảnh sát trưởng nghỉ hưu khác ngày càng trở nên béo phì thì Bill Potter vẫn giữ được thân hình khá mảnh dẻ và đầu bạc trắng. “Cảnh tượng đó thật hỗn độn.”
Maddie đẩy chiếc máy ghi âm nhỏ tới gần cái ghế tựa hiệu La-Z-Boy màu xanh da trời nhạt mà ông cảnh sát đang ngồi. Bên trong căn nhà của gia đình Potter là một mớ hổ lốn, vừa trang trí họa tiết hoa lá cành vừa mang nét hoang dã. Chúng đối nhau chan chát ở mọi mức độ đến nỗi Maddie sợ rằng mắt cô sẽ bị hoa lên chỉ sau một chốc.
“Tôi biết Loch và Rose từ khi họ là những đứa trẻ.” Bill Potter tiếp tục. “Tôi lớn hơn vài tuổi, nhưng ở một thành phố nhỏ cỡ này, đặc biệt là vào những năm bảy mươi, thì mọi người đều biết nhau. Rose là một trong những phụ nữ đẹp nhất mà tôi từng gặp. Tôi đã rất sốc khi chứng kiến những gì cô ấy đã làm với hai người đó và với chính bản thân.”
“Có bao nhiêu vụ giết người mà ông đã điều tra trước khi vụ nhà Hennessy diễn ra?” Maddie hỏi.
“Một, nhưng hoàn toàn khác so với vụ nhà Hennessy. Ông già Jenner bị bắn trong vụ cãi nhau về chuyện một con chó. Hầu hết chúng tôi tiếp nhận những vụ bắn nhầm, và thường là vào mùa săn bắn.”
“Cảnh sát đầu tiên có mặt tại hiện trường là...” Maddie dừng lại để đọc bản báo cáo.
“Cảnh sát Grey Tipton.”
“Đúng. Anh ấy đã rời sở cảnh sát vài tháng sau khi xảy ra vụ việc và chuyển đi nơi khác,” ông cảnh sát trưởng nói. “Và nghe đâu anh ta cũng mới qua đời vài năm trước.”
Lại một trong số hàng tá chướng ngại vật chống lại cô ở cái thị trấn này. Người thì không sẵn sàng nói về những chuyện đã xảy ra, người thì đã chết. Ít nhất cô cũng có được những báo cáo và ghi chú của cảnh sát Tipton. “Đúng rồi, ông ta chết trong một vụ tai nạn xe địa hình năm 1981. Vụ án có liên quan gì với việc ông ấy rời sở cảnh sát không?”
Ông Potter sắp xếp lại đống ảnh. “Liên quan rất nhiều là đằng khác. Grey là bạn rất thân của Loch. Và nhìn thấy anh ấy bị bắn như vậy, Grey đã bị ám ảnh đến nỗi không thể ngủ được.” Ông ta giơ bức ảnh Rose nằm cạnh người chồng đã chết lên. “Đó là lần đầu tiên chúng tôi chứng kiến cảnh như vậy. Tôi nhận rất nhiều vụ tai nạn xe hơi và cũng thấy cảnh máu me be bét, nhưng đó không phải vụ án cá nhân.”
Vì sẽ chẳng có vụ xét xử nào để viết, Maddie cần phải khai thác thông tin cá nhân càng nhiều càng tốt. Và vì gia đình Hennessy không chịu hợp tác, cô phải dựa vào những nguồn thông tin khác.
“Grey đã rất khổ sở với chuyện đó. Anh ấy phải bỏ việc. Anh ấy phải đi vì không biết giải quyết tình huống ra sao.”
Trong một giờ sau đó, họ nói về hiện trường vụ án. Các bức ảnh và bản báo cáo trả lời cho các câu hỏi ai, cái gì, ở đâu, khi nào và tại sao dường như vẫn còn rất mù mờ. Maddie đổi một cuộn băng khác vào các máy ghi âm nhỏ, rồi hỏi, “Ông biết cả Loch lẫn Rose, vậy ông nghĩ đêm hôm đó chuyện gì đã xảy ra?”
Trong mọi vụ án tương tự thế này, sẽ luôn luôn có một chất xuc stasc. Một sự căng thẳng nào đó xuất hiện và đẩy thủ phạm đến bên bờ vực thẳm. “Từ những gì tôi nghe được và đọc được, Alice Jones không phải là nhân tình duy nhất của Loch.”
“Đúng vậy, cô ấy không phải là người duy nhất. Cuộc hôn nhân của họ giống như một trò tàu trượt đã trong nhiều năm rồi.” Ông cảnh sát trưởng lắc đầu và gỡ cặp kính.
“Trước khi họ chuyển đến ngôi nhà kiểu trang trại ngay ngoài thị trấn, họ đã từng sống bên hồ ở Pine Nut. Cứ vài tháng tôi lại nhận được điện thoại từ hàng xóm của họ và tôi lại phải tới đó.”
“Vậy mỗi lần đến thì có chuyện gì?”
“La hét ỏm tỏi, hầu hết là như vậy. Có lần thì quần áo của Loch bị xé toạc, có lần thì trên mặt có vết đỏ.” Bill cười tủm tỉm. “Có một lần tôi đến đó và cửa sổ đằng trước bị vỡ tan, một cái chảo đang nằm ngoài sân.”
“Có ai bị bắt bao giờ chưa?”
“Không không. Lần sau cô nhìn thấy họ, họ lại yêu thương quấn quýt và tỏ ra rất hạnh phúc.”
Và khi không yêu thương quấn quýt thì họ kéo người khác vào cuộc hôn nhân hỗn loạn của họ à? “Nhưng ngay khi họ chuyển đến trang trại đó, ông đã không phải nhận các cuộc gọi nữa?”
“Đúng vậy. Vì xung quanh có còn hàng xóm nữa đâu.”
“Bây giờ căn nhà đó đâu rồi?”
“Đã cháy rụi...” Ông dừng lại một chút để suy nghĩ, và những nếp nhăn sâu hằn lên trên trán ông. “Phải đến hai mươi năm trôi qua rồi. Một đêm, ai đó đã tới đó, tưới xăng lên đó và châm lửa.”
“Có ai bị thương không?”
“Lúc đó không có ai sống trong căn nhà đó.” Ông cau mày lại rồi lắc đầu. “Thủ phạm làm chuyện đó vẫn chưa được phát hiện. Tuy nhiên tôi cũng có nghi ngờ một vài người.”
“Ai?”
“Quá nhiều người muốn cái ngôi nhà đó biến đi. Bọn trẻ thì chỉ chơi diêm quanh đó nhưng sẽ không đốt nhà như vậy.”
“Mick?”
“Và chị gái cậu ta, mặc dù tôi không chứng minh được điều đó. Mà tôi cũng không thực sự muốn chứng minh điều đó, nói đúng ra là như vậy. Lớn lên, Mick đã luôn gây rắc rối. Lúc nào cũng là một mối lo ngại, nhưng tôi thấy rất thương nó. Cậu ấy có một cuộc sống khá khổ sở.”
“Có rất nhiều những đứa trẻ cũng mất cha mẹ mà đâu có trở thành những kẻ đốt nhà?”
Ông cảnh sát trưởng rướn người lên. “Những đứa trẻ đó không phải sẽ cuộc sống mà Rose Hennessy để lại cho các con của bà.”
Đúng thế, nhưng Maddie cũng phần nào nếm cái cuộc sống đó rồi. Cô lật một trang trong cuốn sổ của mình rồi nói, “Alice Jones sống trong một ngôi nhà lưu động. Ông có một phụ nữ tên là Trina không? Có thể người này cũng sống trong nhà lưu động đó năm 1978?”
“Cái tên đó lạ hoắc.” Ông nghĩ một lúc, rồi nghển lên phía trước. “Có lẽ cô nên nói chuyện với Harriet Landers. Bà ấy sống trong nhà đó trong nhiều năm khi mảnh đất được bán đi cho một chuyên viên thiết kế, bà ấy đã phải dọn dẹp và chuyển đi nơi khác.”
“Bây giờ Harriet sống ở đâu?”
“Levana,” ông gọi tên bà vợ. Khi bà xuất hiện ở phía cuối căn nhà, ông hỏi, “Dạo này Harriet Landers sống ở đâu nhỉ?”
“Tôi nghĩ bà ấy sống ở biệt thự Samaritan.” Levana nhìn Maddie và nói thêm, “Đó là một khu an dưỡng cho người nghỉ hưu, gần phố Whitetail và Fifth. Bây giờ bà ấy hơi nặng tai đấy.”
--- --------
“Cái gì cơ?” Harriet Landers hỏi to khi đang ngồi trên chiếc xe lăn. “Cô nói to lên, vì lòng trắc ẩn với bà già này.”
Maddie ngồi trên một cái ghế cũ bằng sắt trong một khu vườn nhỏ ở biệt thự Samaritan. Nhìn người phụ nữ già nua, thật khó để đánh giá tuổi của bà. Maddie đoán chắc chỉ còn một chút nữa là xuống lỗ và hóa thạch. “Tên tôi là Maddie Dupree! Tôi không biết liệu có thể...”
“Cô là nhà văn đó à?” Harriet ngắt lời. “Tôi nghe nói cô đến đây để viết một cuốn sách về gia đình Hennessy.”
Tuyệt đấy. Thông tin lan nhanh đến nỗi trong trại an dưỡng người ta cũng biết. “Đúng rồi. Tôi nghe nói bà đã từng sống trong ngôi nhà lưu động Roundup.”
“Trong khoảng mười lăm năm.” Bà đã rụng gần sạch những lọn tóc bạc và răng cũng rơi gần hết. Bà mặc một cái áo ở nhà màu hồng có cúc và đăng ten trắng. Nhưng dường như đầu óc bà có vấn đề gì cả. “Tôi không biết có thể kể cho cô về điều gì đây.”
“Về việc sống ở Roundup.”
“Hừm.” Bà ta giơ bàn tay gầy gò đập con ong trước mặt. “Không có nhiều thứ để nói cho lắm nên không chắc cô có muốn nghe hay không. Người ta nghĩ rằng những người sống trong các căn nhà lưu động đều là những kẻ nghèo khổ, cặn bã. Nhưng tôi luôn yêu căn nhà của mình. Tôi thích cái cảm giác mình có thể thu dọn và chuyển căn nhà đi chỗ khác bất cứ lúc nào tôi muốn.” Bà nhún đôi vai xương xẩu. “Tuy nhiên tôi chưa bao giờ làm điều đó.”
“Mọi người có thể rất tàn nhẫn và thô bạo,” Maddie nói. “Khi còn nhỏ, tôi cũng từng sống trong một căn nhà lưu động. Và tôi nghĩ đó là nơi tuyệt nhất.” Đó là sự thật, vì căn nhà đó là sự cải thiện đáng kể so với tất cả những nơi trước đây mẹ con họ từng ở. “Và tất nhiên chúng tôi không phải là những kẻ cặn bã.”
Đôi mắt xanhoặc trũng sâu của Harriet nhìn Maddie dò xét thật nhanh. “Cô từng sống trong một căn nhà như thế à?”
“Vâng thưa bà.” Maddie giơ cuộn băng lên. “Bà có phiền nếu tôi ghi âm cuộc nói chuyện của chúng ta?”
“Để làm gì?”
“Để tôi không trích dẫn sai câu nói của bà.”
Harriet đặt hai khuỷu tay gầy guộc lên thành chiếc xe lăn và nhỏm người lên. “Cô cứ việc.” Bà chỉ vào cái máy ghi âm. “Cô muốn biết chuyện gì?”
“Bà có nhớ cái mùa hè Alice Jones sống ở Roundup không?”
“Tất nhiên, mặc dù tôi không sống cạnh nhà cô ấy. Nhưng thỉnh thoảng tôi nhìn thấy cô ấy khi lái xe qua. Cô ấy rất xinh đẹp và còn có một cô con gái nhỏ. Đứa bé đó thường chơi đánh đu suốt ngày đêm trên cái đu ở sân trước.”
Đúng vậy. Phần đó thì Maddie biết. Cô vẫn còn nhớ mình đã đu lên thật cao. Cô nghĩ các ngón chân mình có thể chạm đến rời. “Bà đã nói chuyện với Alice Jones bao giờ chưa? Có những cuộc nói chuyện cởi mở ấy?”
Các nếp nhăn trên trán của bà cau lại. “Tôi không nhớ nữa. Đã lâu lắm rồi và trí nhớ của tôi dạo này không tốt.”
“Tôi hiểu. Trí nhớ của tôi cũng không phải lúc nào cũng ổn.” Cô nhìn vào cuốn sổ ghi như để nhớ lại mình cần phải hỏi gì tiếp theo. “Bà có nhớ một người tên là Trina, cũng từng sống ở căn nhà trong cùng thời gian đó không?”
“Đó có lẽ là Trina Olsen. Con gái giữa của Betty Olsen. Cô ấy có tóc đỏ rực và tàn nhang.”
Maddie viết họ của cô ta ra giấy và khoanh tròn. “Hiện giờ bà ấy còn sống ở Truly không?”
“Không. Betty mất rồi. Chết do ung thư gan.”
“Tôi rất tiếc.”
“Tại sao? Cô cũng biết bà ấy à?”
“À... không.” Cô đóng nắp bút lại. “Bà còn nhớ gì trong khoảng thời gian Alice Jones sống ở Roundup nữa không?”
“Tôi nhớ rất nhiều thứ.” Bà chuyển tư thế một chút, rồi nói tiếp, “Tôi nhớ Galvin Hennessy, chắc chắn một điều như vậy.”
“Đó là cha của Loch?” Maddie hỏi, chỉ để xác minh. Galvin thì liên quan gì đến mẹ Maddie?
“Đúng rồi. Ông ấy đúng là gã quỷ quái với cái mã đẹp trai, cũng như mọi người đàn ông khác trong gia đình Hennessy.”
Bà ta lắc đầu và thở dài. “Nhưng một cô gái sẽ thật ngu ngốc khi kết hôn với một gã mang họ Hennessy.” Maddie đọc lướt qua tờ giấy ghi chú để tìm cái tên Galvin. Cô giở qua một tờ bướm quảng cáo một ngày thành lập gì đó mà cô vừa được dúi vào tay ở bàn tiếp tân. Nhưng theo những gì cô nhớ thì Galvin chưa bao giờ được nhắc tới trong các bản báo cáo của cảnh sát.
“Tôi hẹn hò với ông ta rất nhiều lần, cho đến khi ông ta gục chết ở ghế sau chiếc Ford Rambler của tôi.”
Maddie ngẩng đầu lên. “Xin lỗi? Gì cơ ạ?”
Harriet cười phá lên, một âm thanh răng răng, lạch cạch phát ra và bà ta đang ho rũ rượi. Maddie lo lắng để cuốn sổ xuống cỏ và chạy ra đấm lưng cho Harriet thùm thụp. Khi bà ấy đã trở lại bình thường. Maddie mới hỏi, “Bà không sao chứ?” Được rồi, Harriet già cả rồi, nhưng cô không muốn mình là lý do khiến bà ấy bất tỉnh nhân sự.
“Tôi ước gì cô nhìn thấy phản ứng trên mặt cô lúc nãy. Tôi không nghĩ điều đó có thể gây sốc cho mọi người trong thị trấn nữa. Nhất là khi tôi đã ở tuổi này rồi.” Harriet cười tủm tỉm. “Vậy,” Maddie lại ngồi xuống. “Galvin có liên quan gì đến sự việc xảy ra ở quán Hennessy’s không?”
“Không. Trước khi mọi thứ xảy ra, ông ta đã chết rồi. Loraine không bao giờ tha thứ cho tôi vì Galvin đã chết ở ghế sau xe của tôi. Nhưng thử mà xem, ở cái thị trấn này, cô không thể ném một viên đá mà không trúng phải ai đó từng ngủ với một người đàn ông nhà Hennessy.”
“Tại sao?” Maddie hỏi. “Có rất nhiều người đàn ông vừa đẹp trai vừa quyến rũ. Điều gì đã khiến những quý ông nhà Hennessy hấp dẫn phụ nữ ở Truly này đến vậy?”
“Bởi vì họ rất đẹp. Nhưng quan trọng nhất vẫn là cái dưới cạp quần của họ.”
“Ý bà là họ có...” Maddie ngừng lại và giơ một tay lên không như thể là cô không thể tìm được lời lẽ nào diễn tả. Tất nhiên là cô có thể. Cái từ cô vẫn ưa thích vụt qua trong đầu cô, nhưng vì một số lý do mà cô không thể nói những lời đó trước mặt một số bà già.
“Bọn họ đúng là may mắn.” Harriet nói thêm. Sau đó, trong suốt một tiếng tiếp theo, bà bắt đầu kể cho Maddie câu chuyện tình dài và lẫy lừng của bà với Galvin Hennessy. Rõ ràng Harriet cũng từng là một trong số những cô gái đó. Mặc dù bà ta giờ đã quá tuổi chín mươi và trông không khác gì một quả nho khô, chỉ khác là có gắn thêm mắt. Harriet Landers cũng thuộc dạng phụ nữ thích kể chuyện giường chiếu của mình cho một người hoàn toàn xa lạ.
Và Maddie, may mắn đã ghi được toàn bộ trong cuốn băng của mình.
Tối thứ Tư, quán bar Hennessy’s đang có chương trình Hump Night . Nhằm khuyến khích mọi người trong thị trấn vượt qua giai đoạn làm việc căng thẳng nhất trong tuần, quán bar giảm giá thức uống năm mươi phần trăm và khuyến mãi tới bảy giờ tối. Sau bảy giờ chỉ còn vài người ở lại, nhưng hầu hết họ đều trả tiền đầy đủ cho bữa bù khú của mình. Galvin Hennessy là người chủ trương những đám Hump Night như thế này, và thông lệ này đã được các thế hệ tiếp theo phát huy.
Có những người đã sợ rằng buổi Hump Night tối thứ Tư sẽ biến mất khi Mick tiếp quản quán bar. Mick đã dẹp cái trò ném quần ném áo ở Mort’s. Nhưng sau hai năm vẫn có bia khuyến mãi, vẫn có đồ uống rẻ tiền. Truly mới thở phào nhẹ nhõm rằng truyền thống đó vẫn còn được giữ lại.
Mick đứng ở tít cuối quầy bar, một chân làm trụ, chiếc gậy đánh bi-a trong tay còn Steve Sastle đang bò người trên bàn để chọc bóng. Steve cao hơn Mick một chút và mặc một cái áo phông màu xanh da trời nhạt với dòng chữ: CÁC QUÝ CÔ CHÚ Ý: TÔI YÊU SÁCH VỞ chạy dài trên ngực áo. Mick quen Steve khi còn đi học lái máy bay. Hồi đó, Steve có mái tóc vàng rực rỡ. Còn bây giờ đầu anh ta hói bóng lên như những quả bi-a mà anh ta vừa chọc xuống lỗ.
Khi Mick ra khỏi quân độ, Steve vẫn còn ở lại cho đến khi chiếc “Diều hâu Đen” của anh bị hạ trên bầu trời vùng Fallujah bởi súng bắn tên lửa SA-7. Trong vụ rơi máy bay đó, năm người lính hy sinh và bảy người khác bị thương, Steve mất một chân. Sau nhiều tháng phục hồi và lắp chân giả, anh ta trở về nhà ở Bắc California và chứng kiến cuộc hôn nhân của mình đổ vỡ. Anh đã phải trải qua một thời gian khó khăn và cuộc ly hôn tồi tệ. Và khi Mick muốn anh chuyển đến Truly và quản lý bar Hennessy’s, anh ta lập tức trèo lên xe và lao tới Truly chỉ trong một vài ngày. Mick không hy vọng anh ta sẽ trụ lại lâu trong một thị trấn nhỏ như thế này. Nhưng một năm rưỡi trước, anh ta đã mua một cái nhà ở gần hồ.
Steve là chỗ thân thuộc nhất đối với Mick nếu để so với một người anh trai. Hai người có chung ký ức và cùng trải nghiệm giống nhau. Họ có một cuộc sống mà người dân bình thường không thể hiểu được, và thời gian trong quân ngũ là chuyện họ không bao giờ đề cập với mọi người.
Quả bóng số sáu rơi xuống lỗ và Steve chuẩn bị chọc tiếp quả số hai. “Meg hôm qua đã tới đây tìm cậu,” anh ta nói. “Tớ đoán là cả thị trấn này đang ầm ỹ lên như tổ ong vì cô nhà văn đó đã tới nói chuyện với ông cảnh sát trưởng nghỉ hưu Potter và bà Harriet Landers.”
“Đêm qua Meg gọi điện và nói với tớ rồi.” Steve là người duy nhất mà Mick kể về những tâm trạng thay đổi như chong chóng có thể bùng nổ không biết lúc nào mà lương của Meg. “Chị ấy không quá đau buồn về chuyện cuốn sách như tớ đã tưởng.” Ít nhất thì chị anh cũng không mất hết lý trí như anh nghĩ sau khi chứng kiến chị như vậy lúc nhìn thấy cái nhẫn cưới của bố mẹ họ.
“Có lẽ Meg mạnh mẽ hơn những gì cậu cứ gán cho chị ấy.”
Cũng có thể, nhưng Mick thấy nghi ngờ điều đó lắm.
Steve chọc bóng, nhưng quả số hai đập vào thành bàn và bật trở lại. “Tớ cố tình làm thế đấy nhé!”
“Thế à.” Mick xoa phấn vào đầu gậy và thọc nốt quả số mười vào một lỗ cạnh.
“Có lẽ tớ phải về quầy bar đây,” Steve nói và đặt cây gậy vào giá. “Cậu có ở đây tới lúc đóng cửa không?” “Không.”
Mick đặt gậy vào cạnh gậy của Steve và nhìn ra ngoài cửa. Vào những tối cuối tuần, cả Hennessy’s và Mort’s đều đóng cửa lúc nửa đêm. “Tớ muốn về qua Mort’s xem tình hình gã phục vụ quầy mới làm việc thế nào.”
“Anh ta được việc chứ?”
“Tốt hơn rất nhiều so với người trước đây. Đáng lẽ tớ phải biết từ đầu và không nên thuê Ronnie Van Damme mới phải. Hầu hết bọn nhà Van Damme đều là lũ hãm tài.” Mick đã phải sa thải Ronnie hai tuần trước vì lúc nào cũng đến muộn và làm những chuyện bậy bạ khi anh có mặt ở đó. “Anh chàng mới này từng làm quản lý ở một quán bar ở Boise. Tớ hy vọng là anh ta ổn.” Mục đích cuối cùng của Mick là tìm một người quản lý quán bar Mort’s để anh làm việc ít hơn và kiếm nhiều tiền hơn. Anh không tin vào trợ cấp của chính phủ hay bảo hiểm xã hội để dựa vào đó sống cả đời. Anh tự đầu tư cho mình.
“Nếu cần gì thì cứ báo cho tớ nhé!” Steve vừa nói vừa bước đi. Hơi khập khiễng một chút nhưng hầu như không khiến người ta chú ý. Mick chưa bao giờ ở Iraq, nơi máy bay của Steve bị bắn rơi. Nhưng anh cũng vài lần suýt chết và có lần bị buộc phải hạ cánh khẩn cấp ở Afganistan khi một đầu đạn tên lửa đâm trúng máy bay của anh. Cuộc hạ cánh không được ổn cho lắm, nhưng may mắn là anh thoát chết.
Anh thích được bay lượn như vậy, và đó cũng là thứ anh tiếc nhất khi nhìn lại quá khứ. Nhưng anh không tiếc những cát bụi và những mưu mô xảo quyệt trong quân ngũ. Anh chán ngấy cái cảnh ngồi quan quẩn chờ mệnh lệnh, sẵn sàng vào vị trí và cuối cùng nhiệm vụ bị hủy vào phút cuối.
Những ngày này anh sống trong một thị trấn nhỏ, nơi hầu như chẳng mấy chuyện xảy ra. Vậy mà chưa bao giờ Mick thấy nhàm chán. Đặc biệt là gần đây.
Mick nhìn ra ngoài sàn nhảy trống trơn ở đầu kia của quầy. Vào cuối tuần, anh thường thuê một ban nhạc và sàn nhảy thì chật cứng. Tối nay chỉ có một số người đứng xung quanh nói chuyện, những người khác ngồi ở bàn hoặc ở quầy bar. Vào những buổi Hump Night, cứ khoảng chín giờ là quán hết khách trừ một vài gã lang thang. Hồi nhỏ, anh và Meg thỉnh thoảng được cha dẫn đến quán để rót bia vào vại. Ông dạy chị em họ cách rót đồ uống hoàn hảo nhất. Nhìn lại thì, đó không phải là thứ hay ho để dạy cho con cái, nhưng anh và Meg lại thích điều đó.
Cha anh có thể là kẻ dối trá, Maddie đã nói, nhưng ông ấy có đáng phải nhận ba phát đạn và chảy máu cho đến chết trên nền nhà của quán bar, trong khi mẹ anh đứng nhìn không?
Hai ngày gần đây anh nghĩ nhiều về bố mình hơn so với năm năm trước đó. Có thể Maddie nói đúng, tức là mẹ anh đã đứng nhìn cha anh chết dần. Và anh đã không thể nào xua cái hình ảnh đó ra khỏi đầu mình.
Anh ngồi trên mép chiếc bàn bi-a và chân vắt chéo lên nhau và quan sát Steve lôi ra một lon Heineken trong tủ lạnh rồi giật nắp. Mick biết rằng cô phục vụ bàn, Alice Jones đã bị giết đằng sau quầy bar, trong khi cả cha và mẹ anh đều chết phía trước quầy. Anh chưa bao giờ xem ảnh, cũng không đọc những bản báo cáo. Nhưng qua nhiều năm, tất nhiên anh đã nghe quá nhiều về những gì xảy ra đêm mẹ anh giết bố anh và Alice, đến nỗi anh tưởng mình đã nghe quá đủ rồi. Nhưng giờ thì anh đoán là chưa. Trong suốt ba mươi lăm năm qua, anh đã ở trong quán bar này hàng nghìn lần. Meg giữ những tấm ảnh của anh ngồi trên ghế trước quầy với bố. Lớp lớp các thế hệ nhà Hennessy đã mài đũng quần ở cái bar này. Và sau cái chết của bố mẹ anh, nơi này đã được thay đổi hoàn toàn, mọi dấu vết của những gì xảy ra đêm hôm đó đã bị xóa sạch từ lâu. Mỗi lần bước qua cửa sau, anh chẳng bao giờ nghĩ đến những gì mẹ anh đã làm với bố anh và Alice Jones.
Cho đến lúc này.
Vậy mẹ anh hoàn toàn đúng đắn khi bắn bà ấy vào giữa mặt sao? Maddie đã hỏi anh câu đó. Chẳng hiểu sao anh không thể cho Maddie Dupree và cuốn sách chết tiệt của cô ta ra khỏi đầu mình. Thứ anh không bao giờ muốn phải nghĩ đến là cái chết của bố mẹ anh. Cái quá khứ đó tốt nhất nên được chôn vùi. Và người anh không bao giờ muốn phải nghĩ đến là người phụ nữ chuẩn bị đào bới tất cả những thứ đó lên. Cô ta như cái máy xúc đến xới lên những thứ đáng lẽ ra phải được che đậy. Nhưng ngoài việc trói cô ta lại và nhốt vào phòng kín thì anh chẳng thể làm gì khác được. Mặc dù việc trói cô hình như cũng chẳng có gì liên quan đến việc ngăn cô ta không viết cuốn sách nữa.
Chúa ơi. Anh giống như một cơn lốc vậy. Hút tất cả mọi thứ xung quanh. Và dường như việc cô ta là người cuối cùng để anh lựa chọn cũng không còn quan trọng nữa. Cảm giác về đôi môi cô vẫn còn, và hình ảnh của cô với nụ hôn mãnh liệt cứ luẩn quẩn mãi trong đầu anh.
Mick đứng dậy, băng qua sàn nhảy và tiến tới quầy bar. Reuben Sawyer ngồi ở cái ghế quen thuộc, già cả và nhăn nheo. Reuben đã mất vợ ba mươi năm về trước. Và trong suốt ba thập kỷ qua, hầu như tối nào ông cũng ngồi ở cùng một cái ghế và chết chìm trong nỗi buồn phiền đau khổ. Mick không tin vào mấy từ “Bạn tâm giao” và cũng không thể hiểu nổi kiểu đau buồn đó của ông ta. Theo anh, khi người ta thấy cô đơn vì một người phụ nữ, hãy làm gì đó trừ việc ngồi ôm chai rượu Jack Daniel’s.
Một vài người í ới gọi Mick khi anh đi qua, nhưng anh cứ cắm cổ đi tiếp. Anh không muốn tham gia tán những câu chuyện nhảm nhí. Không phải tối nay. Khi anh đang tiến tới chỗ cửa sau, một người bạn gái cũ hồi học phổ thông chặn anh lại.
“Chào, Mick,” Pam Puckett chào anh khi vừa bước ra khỏi phòng vệ sinh nữ.
Anh nghĩ bụng nếu đẩy cô ta ra mà đi thì thô lỗ quá. “Chào, Pam.” Anh dừng lại và cô ta coi đó là một lời mời, rồi đưa tay quàng qua cổ anh và ôm anh một cái theo cách của những người bạn, rồi sau đó nấn ná thêm vài giây và cái ôm giờ hơi trên mức bạn bè.
“Anh dạo này thế nào?” cô ta hỏi bên tai anh.
“Tốt.” Từ hồi phổ thông tới giờ, Pam đã lấy chồng và bỏ chồng tất cả ba lần. Ngày xưa Mick cũng đã dự đoán việc ly dị là tương lai của cô ta. Anh đẩy cô ta ra và nhìn vào mặt cô ta. “Thế em thì sao?”
“Không tồi.” Cô ta đứng thẳng lại, nhưng vẫn để một tay trên ngực Mick. “Lâu rồi không thấy anh ở đây.”
“Anh phải dành nhiều thời gian cho quán bar còn lại.” Pam trông vẫn hấp dẫn, và anh biết mình chỉ cần ôm cô ta một cái là có thể đem về nhà. Anh đặt tay lên eo, và chờ sự hứng thú trỗi dậy bên trong cái khóa quần. “Em vẫn làm việc ở văn phòng cảnh sát trưởng chứ?”
“Vâng. Vẫn là công việc trực điện thoại. Cứ cách ngày em lại dọa bỏ việc.” Bàn tay cô ta vuốt ve trên ngực anh.
Anh còn ba giờ nữa trước khi đóng cửa. Và anh cũng không bắt buộc phải lê mông sang Mort’s làm gì. Anh đã từng cặp với Pam và cả hai người đều biết rằng đây đơn thuần là tình dục. Chỉ là hai người lớn gặp nhau và vui vẻ với nhau. “Em đi một mình thôi à?” Mick hỏi.
Tay cô ta trượt xuống thắt lưng của anh và móc một ngón tay vào đỉa quần của anh. Đáng lẽ anh phải thấy có chút hưng phấn gì chứ nhỉ. Nhưng hoàn toàn không. “Với một số bạn gái nữa.”
Anh nói xem, Mick, anh và tất cả những phụ nữ anh ngủ cùng đều biết nhau hết à? Sex có lẽ chỉ là cái gì đó cần thiết để anh xóa Maddie khỏi đầu. Đã một tháng rồi anh chưa ngủ với ai cả. Và tất cả những gì anh phải làm giờ chỉ là nắm lấy tay Pam và kéo cô ta ra cửa sau. “Em cũng biết là anh không có ý định kết hôn, đúng không?”
Đôi lông mày cô ta nhíu lại. “Em nghĩ là chuyện đó ai cũng biết Mick ạ.”
“Vì thế anh chưa bao giờ nói dối em về chuyện đó.”
“Đúng, chưa bao giờ.”
Một khi anh đã lột được quần áo trên người Pam, anh sẽ để cô ta xóa hết mọi thứ khác khỏi đầu anh. Trong chuyện đó Pam không muốn kéo dài một lần. Cô ta muốn nhanh, và càng nhiều lần càng tốt, và với tâm trạng hiện giờ, Mick sẵn sàng phục vụ cô ta. Anh dùng ngón cái xoa lên sườn cô và bắt đầu thấy có chút cảm hứng.
“Em đã nghe về việc cô nhà văn đó nói chuyện với mọi người trong thị trấn này,” cô ta nói, làm tắt rụi chút hứng thú nhỏ nhoi của anh.
Anh thật sự ước cô ta đừng có thốt ra câu đó. Anh buông thõng tay xuống và bước ra phía cửa sau, “Gặp lại em sau.”
“Anh đi luôn à?” Thực ra ý cô ta là thế này: Anh đi mà không cần có em à? “Phải làm việc.”
Bên ngoài vẫn còn ánh sáng khi anh bước ra khỏi quầy bar và lái xe qua Mort’s. Anh đẩy cái kính trên sống mũi vì cảm thấy có cái gì đau đau giữa hai mắt. Maddie Dupree đã làm đảo lộn quá khứ của anh, nói chuyện với tất thảy mọi người trong thành phố về câu chuyện gia đình họ, và ảnh hưởng đến cả cuộc sống tình dục của anh. Từng giây phút trôi qua anh càng thôi thúc cái ý muốn trói cô ta lại và giấu và đâu đó.
Bụng anh sôi lên và anh dừng xe ở một bãi đỗ gần Mort’s. Thay vì đi vào cửa sau quán bar, anh đi bộ vài thước nữa tới nhà hàng Willow Creek. Lúc này đã hơn chín giờ một chút và anh vẫn còn chưa ăn gì từ trưa tới giờ. Chẳng thế mà anh thấy đau đầu.
Quán ăn hầu như trống trơn và khi anh bước vào, hình mấy cái cánh gà lại càng làm anh cồn cào trong ruột. Anh tới chỗ quầy phục vụ và gọi món với một cô nhân viên trẻ tuổi. Anh gọi thịt bò hun khói kèm với bánh mỳ lúa mạch đen và khoai tây rán. Nếu rảnh rỗi hơn thì anh đã gọi một chai bia Summer Ale cực ngon.
Bên trong nhà hàng được trang trí bằng tranh ảnh các loại bia ở khắp nơi trên thế giới. Và trên một chiếc ghế cạnh quầy bar, ngay bên dưới tấm poster quảng cáo bia Thirsty Dog Wheat là người phụ nữ mà anh vẫn đang sục sôi muốn trói lại và tống vào tủ.
Một đĩa salad lớn và một chiếc cặp giấy để mở trước mặt Maddie Dupree. Cô buộc tóc ở phía sau và tô son màu đỏ rực. Đôi mắt nâu của cô ngước lên khi anh tiến đến ngồi vào cái ghế đối diện. “Dạo này cô bận rộn nhỉ?”
“Chào anh, Mick.” Cô chĩa cái nĩa về phía anh. “Anh ngồi đi.”
Cái áo len màu da cam của cô được cố ý không cài cúc một nửa trên, phủ bên ngoài một chiếc áo phông màu trắng bó sát người. “Tôi nghe nói cô đã nói chuyện với Bill Potter rồi.”
“Tin tức truyền nhanh nhỉ?” Cô xiên mấy cọng rau diếp và pho mát và chuẩn bị bỏ vào miệng. Đôi môi đỏ ngậm ngập hết đầu cái nĩa, rồi cô từ từ rút nó ra.
Mick chỉ vào cái tập tài liệu đang mở và hỏi, “Kia là hồ sơ tội phạm của tôi à?”
Vừa nhai vừa nhìn anh, nuốt chỗ thức ăn, Maddie trả lời, “Không, ông cảnh sát nghỉ hưu nói anh là chuyên gia gây rắc rối, nhưng không đề cập đến hồ sơ tội phạm gì hết.” Cô gập tập tài liệu lại và để lên chiếc ghế bên cạnh cô. “Ông ấy bắt anh vì cái gì? Phá hoại tài sản? Đái bậy? Hay nhòm ngó nhà người khác à?”
Thâm thúy đấy. “Vì đánh nhau. Hầu hết là như vậy.”
“Ông ấy có nhắc đến một vụ cháy. Chắc anh không biết chuyện đó đâu nhỉ?” Cô đưa một miếng salad nữa lên miệng và uống một hớp trà lạnh để nuốt cho trôi.
Anh mỉm cười. “Tôi chẳng biết về vụ hỏa hoạn nào cả.”
“Tất nhiên là không rồi.” Cô đặt cái nĩa lên đĩa, sau đó ngồi khoanh tay trước bờ ngực to tròn trịa. Cái áo phông mỏng đến nỗi anh có thể nhìn rõ chiếc áo ngực màu trắng cô mặc bên trong.
“Cuộc nói chuyện của cô với Harriet Landers tốt đẹp chứ?”
Cô cắn môi để khỏi bật cười, rồi trả lời, “Thú vị lắm.”
Mick ngồi thụt sâu xuống ghế và nhíu đôi lông mày. Đầu chiếc bốt của anh chạm vào chân cô và Maddie khẽ nghiêng đầu sang một bên. Tóc cô rơi xuống một bên vai như tấm lụa mềm mại khi cô đưa mắt nhìn anh. Cô nhìn chăm chăm vào đó vài giây rồi ngồi thẳng dậy và co chân lại.
“Harriet làm cho ông tôi phải chết trên ghế sau xe của bà ta khi hai người đang vui vẻ với nhau”, anh nói. “Chắc đó không thể coi là tội phạm.”
Cô đẩy đĩa thức ăn của mình sang một bên và đặt tay lên bàn. “Đúng thế. Nhưng đó chỉ là những chi tiết không đáng kể.”
“Và cô vẫn định viết về nó chứ.”
“Tôi không định nhắc đến sự qua đời... không đúng lúc của ông nội anh.” Cô nghiêng đầu một chút và liếc anh bằng đôi mắt to nâu. “Nhưng chắc tôi phải viết cả về bối cảnh gia đình nữa.”
“Vậy hả?” “Hoặc tôi có thể đưa thêm ảnh vào đó.”
Anh ngồi dậy, đặt hai khuỷu tay lên bàn và rướn người về phía trước. “Cô muốn tôi cho cô vài tấm ảnh à? Cảnh gia đình hạnh phúc? Hay là vào dịu Giáng sinh, Lễ tạ ơn hay dịp nghỉ hè chúng tôi đi công viên Cổng Vàng?”
Cô nhấp một ngụm trà rồi đặt nó trở lại bàn. “Được thế thì tuyệt đấy.”
“Quên chuyện đó đi. Tôi không thể để cô dùng nó tống tiền tôi được.”
“Đấy đâu phải tống tiền. Là cả hai chúng ta đều được lợi đấy chứ. Và tôi thực sự muốn chụp ảnh bên trong quán bar Hennessy’s.
Anh dựa vào thành ghế thật xa chiếc bàn rồi nói: “Muốn là thế nào?” Một người phục vụ bàn sắp đĩa thức ăn bằng nhựa trước mặt anh trong khi Mick tiếp tục nói mà mắt không rời khỏi Maddie: “Tránh xa quán bar của tôi ra.”
Cô rướn người về phía anh cho tới khi mặt hai người chỉ còn cách nhau một chút. “Nếu không...?”
Cô quá gan góc, và anh gần như thích điểm đó ở cô. Anh đứng dậy và đưa tay ra túi sau rút ví. Anh ném một tờ hai mươi đô lên bàn rồi nói: “Tôi sẽ xách cô lên mà quẳng ra ngoài.”