Khi mưa đọng thành vũng dưới chân chúng tôi thì tôi nhận ra Julie hơi run. Đang là một đêm mùa xuân ấm áp, nhưng nàng đã ướt ráo cả, và gió từ xa lộ ào vào trong chiếc xe mui trần cũ này như một cơn lốc xoáy. Tôi rẽ xuống lối ra tiếp theo, và chúng tôi tiến vào một nhà ngoại ô lặng tờ như nghĩa địa. Julie nhìn tôi dò hỏi. Tôi có thể nghe thấy tiếng răng nàng đánh vào nhau lập cập.
Tôi lái xe chầm chậm dọc theo dãy nhà, tìm chỗ thích hợp để dừng lại qua đêm. Cuối cùng tôi rẽ vào một ngõ cụt đầy cỏ dại và đỗ xe cạnh một chiếc Plymouth Voyager đã gỉ. Tôi nắm tay Julie kéo nàng về phía ngôi nhà gần nhất. Cửa khóa, nhưng lớp gỗ mục chỉ cần đá một cái đã vỡ. Chúng tôi bước vào mái nhà nhỏ ấm cúng của một gia đình đã chết từ lâu. Trong nhà rải rác những chiếc đèn bão Coleman, và khi Julie thắp chúng lên, chúng phát ra ánh sáng lập lòe như ngọn lửa trại, dễ chịu đến lạ kì. Nàng đi lang thang quanh bếp và phòng khách, ngắm đồ chơi, bát đĩa, những chồng tạp chí cũ. Nàng nhặt một con gấu koala nhồi bông lên và nhìn vào mắt nó. “Mái nhà yêu dấu”, nàng lẩm bẩm.
Nàng lấy từ trong chiếc túi dết ra một cái máy ảnh chụp lấy ngay, hướng về phía tôi và chụp một pô. Ánh đèn chớp chói lòa trong căn phòng tối om làm tôi giật mình. Nàng cười trước vẻ mặt hốt hoảng của tôi và giơ cái máy ảnh lên. “Trông quen chứ? Sáng qua tôi đã lấy trộm nó từ phòng họp của mấy bộ xương kia đấy.” Nàng đưa cho tôi bức ảnh đang dần hiện lên. “Bảo quản kí ức là rất quan trọng, anh biết không? Nhất là bây giờ, khi mà thế giới đang dần đi đến ngày tàn.” Nàng ghé mắt vào ống ngắm và chầm chậm quay một vòng hết cả căn phòng. “Tất cả những gì anh đang thấy, đây có thể là lần cuối cùng anh được thấy chúng.”
Tôi vẩy vẩy bức ảnh trong tay. Một hình thù mờ ảo bắt đầu hiện ra. Là tôi, R, cái thây ma nghĩ rằng mình còn sống, đang nhìn lại tôi bằng cặp mắt mở to màu xám thiếc. Julie đưa cái máy ảnh cho tôi.
“Ta nên thường xuyên chụp ảnh, nếu không phải bằng máy ảnh thì là bằng trí não mình. Những kí ức ta cố tình giữ lại sẽ luôn rõ nét hơn những kí ức chỉ tình cờ thu lượm được.” Nàng tạo dáng và cười toét miệng. “Cười nào!”
Tôi chụp ảnh nàng. Khi bức ảnh ra khỏi máy nàng chìa tay định lấy, nhưng tôi rút nó ra giấu sau lưng. Tôi đưa cho nàng bức ảnh của tôi. Nàng đảo mắt. Nàng cầm lấy bức ảnh rồi nghiêng đầu ngắm nghía. “Da dẻ anh trông có vẻ khá hơn đấy. Chắc là mưa đã gột sạch anh đôi chút.”
Nàng hạ bức ảnh xuống và nheo mắt nhìn tôi một lát. “Tại sao mắt anh lại như thế?”
Tôi cảnh giác nhìn nàng. “Như… thế nào?”
“Cái màu xám là lạ ấy. Mắt thây ma không như thế. Mắt anh chẳng mờ đi hay gì cả. Tại sao lại thế?”
Tôi ngẫm nghĩ. “Không biết. Xảy ra… khi biến chuyển.”
Nàng nhìn tôi chăm chú đến mức tôi thấy lúng túng. “Trông sợ lắm,” nàng nói. “Gần như là … siêu nhiên ấy. Chúng có đổi màu không? Khi anh giết người chẳng hạn?”
Tôi cố không thở dài. “Tôi nghĩ… cô định nói… ma cà rồng.”
“À, phải, phải rồi.” Nàng bật cười và lắc đầu. “Ít nhất thì bọn chúng cũng chưa biến thành thật. Giờ có quá nhiều quỷ dữ phải nhớ rồi.”
Tôi chưa kịp thấy tự ái thì nàng đã ngước lên nhìn tôi và mỉm cười. “Dù sao thì… tôi cũng thích chúng. Mắt anh ấy. Thực ra là trông khá đẹp. Hơi sợ… nhưng đẹp.”
Có lẽ đó là lời khen tuyệt vời nhất tôi đã nhận được trong suốt cuộc đời làm Người Chết. Phớt lờ cái nhìn ngớ ngẩn của tôi, Julie lại lang thang đi khắp ngôi nhà, miệng lẩm nhẩm hát một mình.
* * *
Cơn bão vẫn gào rú bên ngoài, thỉnh thoảng lại có tiếng sấm nổ. Tôi lấy làm biết ơn là ngôi nhà của chúng tôi vẫn còn nguyên cửa sổ. Hầu hết những nhà khác đều đã bị bọn phá hoại hoặc Xác Sống đập hết cửa. Tôi đã thấy mấy tử thi bị mất óc trên thảm cỏ trước nhà hàng xóm, nhưng tôi muốn tin rằng chủ nhà của chúng tôi đã thoát mạng. Có thể họ đã đến được một sân vận động, hay thậm chí là một trong những thiên đường có tường thành bao kín ở vùng núi, nơi dàn đồng ca thiên thần hát vang sau cánh cổng titan gắn ngọc trai…
Tôi ngồi trong phòng khách nghe tiếng mưa rơi trong khi Julie đi lăng xăng quanh nhà. Một lát sau nàng quay lại với một ôm quần áo khô và ném lên sofa. Nàng giơ lên một cái quần bò rộng hơn người nàng đến mười cỡ. “Anh nghĩ sao?” nàng hỏi, quấn lưng quần quanh người. “Tôi mặc cái này trông có béo không?” Nàng ném cái quần xuống và lục lọi trong đống quần áo rồi lôi ra một mớ vải có lẽ là một cái váy. “Có lẽ tôi có thể dùng cái này làm lều nếu mình bị lạc trong rừng. Trời ạ, đám Xác Sống nào mà bắt được những người này thì đúng là vớ bở.”
Tôi lắc đầu và làm vẻ mặt buồn nôn.
“Sao, các anh không ăn người béo à?”
“Chất béo… không còn sống. Chất thải. Cần… thịt.”
Nàng cười. “Ồ, hóa ra anh vừa là người mê nhạc vừa là người sành ăn cơ đấy! Lạy chúa!” Nàng ném đống quần áo sang bên và thở hắt ra. “Thôi được. Tôi mệt lử rồi. Giường ở đây cũng không tệ lắm. Tôi đi ngủ đây.”
Tôi ngồi ngả ra trên chiếc sofa hẹp, chuẩn bị cho một đêm dài dài đơn độc với những suy nghĩ của mình. Nhưng Julie không đi. Nàng đứng ở cửa buồng ngủ và nhìn tôi một lúc lâu. Tôi đã từng nhìn thấy cái nhìn này rồi, và tôi lên tinh thần chuẩn bị cho điều sắp đến.
“R này…” nàng nói. “Anh có… cần phải ăn thịt người không?”
Tôi thầm thở dài, mệt mỏi vì những câu hỏi khó chịu này, nhưng một con quỷ thì có đáng được riêng tư bao giờ?
“Có.”
“Nếu không thì anh sẽ chết ư?”
“Phải.”
“Nhưng anh đã không ăn tôi.”
Tôi ngần ngừ.
“Anh đã cứu tôi. Tận ba lần liền.”
Tôi chậm rãi gật đầu.
“Và từ đó đến giờ anh chưa ăn ai cả, phải không?”
Tôi cau mày tập trung suy nghĩ, nhớ lại. Nàng nói đúng. Không kể mấy miếng óc còn thừa thì tôi đã nhịn ăn hoàn toàn từ khi gặp nàng.
Một nụ cười nửa miệng kì lạ hiện lên ở khóe miệng nàng. “Anh đang… thay đổi, phải không?”
Như mọi khi, tôi lại không biết nói gì.
“Thôi, chúc ngủ ngon,” nàng nói và đóng cửa phòng ngủ lại.
Tôi nằm trên ghế , ngước lên trần nhà gồ ghề nổi mốc vì thấm nước.
“Cậu làm sao vậy?” âm hỏi tôi bên cốc cà phê mốc meo trong quán Starbucks ở sân bay. Cậu ổn chứ?”
“Ừ, tôi ổn. Chỉ đang thay đổi thôi.”
“Sao cậu có thể thay đổi được? Nếu tất cả chúng ta đều bắt đầu từ một tờ giấy trắng, thì sao cậu lại khác biệt?”
“Có lẽ chúng ta không phải là tờ giấy trắng. Có lẽ vết tích của cuộc sống cũ vẫn định hình cho chúng ta.”
“Nhưng chúng ta không còn nhớ cuộc sống đó nữa. Chúng ta không đọc được nhật kí của chính mình.”
“Chẳng quan trọng gì. Đây là bản chất của chúng ta, cho dù chúng ta có biến thành như thế này bằng cách nào đi chăng nữa. Điều quan trọng là chúng ta sẽ đi tiếp đến đâu.”
“Nhưng chúng ta có được lựa chọn không?”
“Tôi không biết.”
“Chúng ta là Người Chết. Chúng ta có được lựa chọn bất kì điều gì không”
“Có lẽ là có. Nếu mong muốn của chúng ta đủ mạnh.”
Tiếng mưa gõ trống trên mái nhà. Tiếng gỗ cót két. Cảm giác những chiếc đệm ghế gai gai đâm qua mấy cái lỗ trên áo tôi. Đang mải lục tìm trong kí ức sau cái chết của mình xem lần cuối tôi nhịn ăn lâu như thế này là bao giờ thì tôi nhận ra Julie đang đứng ở ngưỡng cửa. hai tay nàng khoanh trước ngực và nàng dựa hông vào khung cửa. Chân nàng nhịp nhịp trên sàn vẻ lo lắng.
“Gì thế?” tôi hỏi.
“Ờ…” nàng nói. “Tôi chỉ đang nghĩ thôi. Giường rất rộng. Vì vậy có lẽ, nếu anh muốn… Nếu anh muốn vào nằm cùng thì cũng không sao đâu.” Tôi hơi nhướng mày lên một chút. Mặt nàng đỏ bừng. “Nghe này, tôi chỉ muốn nói là - tất cả những gì tôi muốn nói - là tôi sẽ không phiền nếu phải cho anh mượn một bên giường. Những căn phòng này hơi ghê ghê, anh có thấy thế không? Tôi không muốn bị hồn ma của bà Sprat đè nát trong lúc ngủ đâu. Và vì đến cả tuần nay rồi tôi chưa tắm nên anh cũng không bốc mùi tệ hơn tôi đâu - có lẽ mùi của chúng ta sẽ lấn át lẫn nhau.” Nàng nhún một bên vai như muốn nói, sao cũng được, và biến vào phòng ngủ.
Tôi đợi một vài phút. Rồi, hết sức chần chừ, tôi ngồi dậy đi theo nàng vào phòng. Nàng đã nằm lên giường, cuộn tròn lại, chăn quấn chặt quanh mình. Tôi từ từ nằm xuống tít đầu bên kia giường. Chăn ở hết phía của nàng, nhưng chắc chắn tôi không cần giữ ấm. Thân nhiệt tôi lúc nào cũng bằng nhiệt độ phòng mà.
Bất chấp đống chăn lông dày xụ quấn quanh người, Julie vẫn đang run. “Chỗ quần áo này…” Nàng lầm bầm rồi ngồi dậy. “Chó chết,” Nàng liếc nhìn tôi. “Tôi sẽ bỏ quần áo ra cho khô. Cứ.. bình tĩnh nhé.” Quay lưng lại với tôi, nàng cựa người cởi cái quần ướt ra và kéo áo qua đầu. Da lưng nàng đã tái xanh vì lạnh. Gần như màu da của tôi vậy. Chỉ mặc chiếc áo ngực chấm bi và quần lót kẻ ca rô, nàng ra khỏi giường và trải quần áo lên tủ, rồi vội vàng chui trở lại đống chăn và cuộn tròn lại. “Chúc ngủ ngon.” Nàng nói.
Tôi nằm ngả ra, hai tay khoanh lại, mắt nhìn lên trần nhà. Chúng tôi đang nằm ở hai mép giường, cách nhau đến hơn một mét. Tôi có cảm giác rằng nàng cảnh giác đến thế không phải chỉ vì thể trạng sinh học của tôi. Sống hay Chết, sung sức hay bất lực, thì tôi vẫn có dáng vẻ của một gã đàn ông, và có lẽ nàng nghĩ tôi sẽ cư xử như bất kì thằng đàn ông nào khi nằm cạnh bên một cô gái đẹp. Có lẽ nàng nghĩ tôi sẽ chiếm đoạt thứ gì đó của nàng. Rằng tôi sẽ bò đến ăn tươi nuốt sống nàng. Nhưng nếu thế thì tại sao nàng lại cho tôi nằm cùng? Đây có phải là một phép thử không? Dành cho tôi, hay là cho chính nàng? Niềm hi vọng kì lạ nào đã khiến nàng đánh liều như vậy?
Tôi lắng nghe hơi thở của nàng chậm dần khi nàng ngủ thiếp đi. Sau mấy tiếng đồng hồ, khi nỗi sợ của nàng đã an toàn chìm vào trong giấc mơ, nàng quay sang bên, thu hẹp khoảng cách giữa chúng tôi. Giờ đây nàng đang đối mặt với tôi. Hơi thở dìu dịu của nàng thổi vào tai tôi nhồn nhột. Nếu thức giấc ngay bây giờ, liệu nàng có hét lên không? Liệu tôi có bao giờ thuyết phục được nàng rằng nàng an toàn đến mức nào không? Tôi không chối rằng khi nằm gần nàng như thế này, nhiều bản năng của tôi đã bị đánh thức, không chỉ là bản năng giết và ăn mà thôi. Nhưng cho dù những bản năng này có đó, mà nhiều cái mạnh mẽ đến không ngờ, điều tôi thực sự muốn chỉ là nằm cạnh nàng. Trong giây phút này, điều tôi mong nhất chỉ là được nàng ngả đầu lên ngực, thở ra một hơi dài ấm áp đầy thoải mái, và ngủ tiếp.
Có một điều kì lạ. một câu hỏi dành cho các triết gia Xác Sống. khi quá khứ của tôi chỉ là một màn sương còn hiện tại của tôi lại tràn ngập màu sắc và âm thanh, điều đó có nghĩa là gì? Kể từ khi trở thành Người Chết tôi đã thu thập các kí ức mới với sự trung thực của một cái máy thu âm cũ mèm, mờ nhạt, khó nghe, và hoàn toàn chẳng có gì đáng nhớ. Nhưng mấy ngày vừa rồi tôi lại có thể nhớ được từng chi tiết sống động, và ý nghĩ tôi sẽ bỏ mất một trong những chi tiết ấy khiến tôi kinh hoàng. Tôi có được sự tập trung này từ đâu? Sự rõ ràng này? Tôi có thể vạch một đường thẳng rõ mồm một từ giây phút tôi gặp Julie cho đến tận bây giờ, khi tôi nằm cạnh nàng trong căn buồng tang tóc này, và cho dù tôi đã để mất hay vứt bỏ hàng triệu khoảnh khắc trong quá khứ, tôi biết, một cách chắc chắn không bác bỏ được, rằng tôi sẽ nhớ giây phút này cho đến cuối đời.
* * *