Tôi đi đi lại lại cả giờ đồng hồ trước đường hầm dẫn vào chiếc 747 rồi mới bước vào. Tôi khe khẽ mở cửa máy bay ra. Julie đang nằm cuộn tròn trên ghế ở khoang hạng thương gia, ngủ say. Nàng đã quấn mình trong một chiếc chăn chắp vá từ những mảnh vải quần bò mà tôi đem về làm kỷ niệm mấy tuần trước. Ánh mặt trời chiếu lên mái tóc óng vàng của nàng như vầng hào quang quanh đầu một vị thánh.
“Julie,” tôi thì thào.
Mắt nàng hé mở. Lần này nàng không ngồi bật dậy hay tránh ra khỏi tôi nữa. Nàng chỉ nhìn tôi bằng cặp mắt sưng húp, mệt mỏi. “Cái gì,” nàng lầm bầm.
“Cô… thế…?”
“Anh nghĩ là tôi thế nào.” Nàng xoay lưng lại với tôi và kéo chăn lên vai.
Tôi đứng nhìn nàng hồi lâu. Dáng nằm của nàng đúng là một bức tường gạch. Tôi cúi đầu xuống và quay lưng đi. Nhưng khi tôi bước qua ngưỡng cửa, nàng nói, “Đợi đã.”
Tôi quay lại. Nàng đã ngồi lên, tấm chăn cuộn tròn trong lòng. “Tôi đói,” nàng nói.
Tôi trố mắt nhìn nàng. Đói ấy à? Nàng muốn một cánh tay hay một cái chân ư? Máu nóng hôi hổi, thịt tươi và sự sống ư? Nàng là Người Sống… nàng muốn ăn chính mình sao? Rồi tôi nhớ ra trước kia đói nghĩa là gì. Tôi nhớ ra thịt bò bít tết và bánh kếp, cơm và hoa quả và rau, cái kim tự tháp ngồ ngộ về hình các nhóm thức ăn. Đôi khi tôi cũng thèm được thưởng thức mùi vị, thay vì chỉ ngốn ngấu nuốt năng lượng, nhưng tôi cố không nghĩ nhiều đến nó. Những thứ thức ăn cũ không thể làm dịu cơn đói của chúng tôi nữa. Ngay cả thịt tươi roi rói từ một con thỏ hay hươu mới bị giết cũng không xứng với tiêu chuẩn ăn uống của chúng tôi; năng lượng đồ ăn kiểu ấy cung cấp không hợp với chúng tôi, cũng giống như là chạy máy vi tính bằng dầu diesel vậy. Chúng tôi không có cách giải quyết dễ dàng nào khác, không có sự thay thế nhân đạo nào khác dành cho những kẻ có lương tâm theo thời. Cơn đói mới đòi hỏi sự hy sinh. Nó đòi hỏi nỗi đau đớn của con người để đổi lấy khoái lạc của chúng tôi, cho dù những khoái lạc ấy có ít ỏi và rẻ rúng đến thế nào.
“Thức ăn ấy mà?” Julie nhắc tôi. Nàng làm bộ cắn một miếng. “Bánh mì kẹp? Pizza? Cái gì không liên quan đến giết người ấy?”
Tôi gật đầu. “Tôi sẽ… lấy.”
Tôi quay đi nhưng nàng giữ tôi lại.
“Hãy thả cho tôi đi,” nàng nói. “Anh đang làm cái gì vậy? Tại sao anh lại nhốt tôi ở đây?”
Tôi nghĩ một lát. Tôi đến bên cửa sổ chỗ nàng ngồi và chỉ lên đường băng bên dưới. Nàng nhìn, và thấy lễ nhà thờ đang tiến hành. Thấy đám Người Chết, người lảo đảo, miệng rên rỉ. Thấy những bộ xương khô kêu lắc rắc không lời nhưng lại đầy sức hấp dẫn khó hiểu, hàm răng nứt rạn của chúng nghiến kèn kẹt. Dưới đó có đến hàng chục người tụ họp lại.
“Bảo vệ cô… an toàn.”
Từ ghế ngồi, nàng ngước lên nhìn tôi bằng ánh mắt tôi không đọc nổi. Mắt nàng nheo lại và môi nàng mím chặt, nhưng không hẳn là vì giận dữ. “Sao anh biết tên tôi?” nàng gặng hỏi.
Thế đấy. Tôi biết kiểu gì nó cũng phải đến mà.
“Trong tòa nhà ấy. Anh đã gọi tên tôi, tôi còn nhớ. Làm thế quái nào mà anh lại biết tên tôi?”
Tôi không tìm cách trả lời. Không có cách nào để giải thích những điều tôi biết và làm sao tôi lại biết được chúng, nhất là với vốn từ như trẻ mẫu giáo và kiểu phát âm thiểu năng của tôi. Vì vậy tôi lùi lại, ra khỏi máy bay và đi xuôi theo đường hầm, trong lòng cảm thấy rõ rệt hơn bao giờ hết sự kém cỏi ở bản chất của mình.
Khi tôi đứng ở Cổng số 12 tự hỏi không biết nên đi đâu, tôi thấy có ai đó chạm vào vai mình. Julie đang đứng sau lưng tôi. Nàng nhét tay vào chiếc quần bò bó màu đen nàng đang mặc, vẻ phân vân. “Cứ để tôi ra ngoài, đi lại một chút thôi cũng được,” nàng nói. “Ở trong cái máy bay ấy tôi phát điên lên rồi.”
Tôi không trả lời. Tôi nhìn quanh những dãy hành lang.
“Thôi nào,” nàng nói. “Tôi đã đi vào đây mà không ai ăn tôi cả. Cho tôi đi cùng anh tìm thức ăn đi. Anh không biết tôi thích ăn gì đâu.”
Cũng… không hoàn toàn đúng thế. Tôi biết nàng thích mì xào Thái. Tôi biết nàng thèm sushi. Tôi biết nàng không thể cầm lòng trước bánh burger kẹp pho mát béo ngậy, bất chấp lề lối ăn uống giữ dáng nghiêm ngặt ở Sân vận động. Nhưng tôi không thể dùng những hiểu biết đó. Chúng là những điều tôi đánh cắp được.
Tôi chậm rãi gật đầu và chỉ vào nàng. “Chết,” tôi nói rõ ràng. Tôi nghiến răng và lê chân bước kiểu Xác Sống thật cường điệu.
“Được thôi,” nàng nói.
Tôi lê di thành một vòng tròn, bước chân lề rề, run rẩy, thỉnh thoảng lại rên lên một tiếng.
“Hiểu rồi.”
Tôi nắm lấy cổ tay nàng và dẫn nàng vào hành lang. Tôi chỉ về hai phía cho nàng thấy hai nhóm Xác Sống đang lang thang trong bóng mờ buổi sáng. Tôi nhìn thẳng vào mắt nàng. “Đừng… chạy.”
Nàng vạch chéo lên ngực trái. “Tôi hứa.”
Khi đứng gần nàng như thế, tôi lại ngửi thấy mùi của nàng. Nàng đã chùi gần sạch hết thứ máu đen trên da, và qua những chỗ hở đó tôi có thể loáng thoáng nhận ra mùi sự sống của nàng. Nó sủi tăm lóc nóc như rượu champagne, làm tôi thấy giần giật sâu tít tận trong xoang mũi. Vẫn không rời mắt nàng, tôi xoa tay lên một vết đứt mới trên cánh tay, và mặc dù vết đứt đã gần khô, tôi vẫn lấy được một ít máu. Tôi chậm rãi bôi thứ mực này lên mặt và cổ nàng. Nàng rùng mình, nhưng không lùi ra. Chưa kể đến tất cả những điều khác, nàng quả là một cô gái thông minh.
“Được chứ?” Tôi nhướng mày hỏi.
Nàng nhắm mắt, hít một hơi dài, nhăn mặt lại vì mùi máu của tôi, rồi gật đầu. “Được.”
Tôi bước đi và nàng theo sau, người lảo đảo, cứ khoảng ba bốn bước lại rên lên một tiếng. Nàng đang lộ liễu quá, phô trương như trong một vở kịch Shakespeare diễn ở trường cấp ba vậy, nhưng cũng tạm được. Chúng tôi đi qua những đám đông Người Chết đang lê bước hai bên, và không ai đưa mắt nhìn chúng tôi cả. Tôi kinh ngạc khi thấy chúng tôi càng đi xa thì nỗi sợ của Julie dường như càng giảm bớt, bất kể mối nguy trước mắt. Có lúc tôi còn thấy nàng cố nhịn cười sau khi rên lên một tiếng thật kêu. Tôi cũng cười, nhưng không để nàng nhìn thấy mình.
Chuyện này thật… mới lạ.
TÔI DẪN JULIE đến khu ăn uống, và nàng ném cho tôi ánh mắt tò mò khi thấy tôi ngay lập tức tiến về phía nhà hàng Thái. Khi chúng tôi lại gần nàng nhăn mặt và đưa tay lên bịt mũi. “Lạy Chúa,” nàng kêu lên. Những cái hộp hâm nóng đặt ở trước quầy giờ đầy thức ăn thối rữa đã khô đét đi cùng với dòi chết và nấm mốc. Bây giờ tôi hầu như không còn ngửi thấy gì được nữa, nhưng cứ nhìn vẻ mặt của Julie thì biết chắc là tởm lắm. Chúng tôi lục tìm một lát ở buồng sau, nhưng điện lưới sân bay chập chờn khiến các tủ lạnh thỉnh thoảng mới chạy, vì vậy mọi thứ bên trong đã thối hết. Tôi đi về phía quầy bán bánh burger. Julie lại nhìn tôi vẻ tò mò và đi theo tôi. Trong buồng đá, chúng tôi tìm thấy mấy miếng thịt băm đang còn lạnh, nhưng rõ ràng là đã bị tan đi đông lại nhiều lần. Ruồi chết lấm tấm trên nền sàn trắng của buồng đá.
Julie thở dài. “Thế nào?”
Tôi nhìn về đằng xa ngẫm nghĩ. Trong sân bay cũng có một quầy bán sushi… nhưng tôi không nhớ mấy về sushi, và nếu một miếng cá cam tươi có thể hỏng chỉ sau vài giờ thì tôi không muốn biết nó sẽ ra sao sau hàng năm trời.
“Trời ạ,” Julie thốt lên trong khi tôi tần ngần đứng đó, “Anh giỏi sắp xếp bữa tối thật đấy.” Nàng mở mấy hộp bánh mì mốc meo ra, và nhăn mũi lại. “Anh chưa bao giờ làm việc này đúng không? Đưa một con người còn sống về nhà ấy?”
Tôi lắc đầu vẻ xin lỗi, nhưng cách nàng dùng từ “con người” làm tôi đau nhói. Tôi chưa bao giờ thích sự phân biệt đó. Nàng là Người Sống còn tôi là Người Chết, nhưng tôi muốn tin rằng chúng tôi đều là con người cả. Tôi lý tưởng chúng như thế đấy.
Tôi giơ một ngón tay lên để ngăn nàng lại. “Một… chỗ nữa.”
Chúng tôi đi ra cạnh khu ăn uống, đến một chỗ không có biển chỉ dẫn. Đi qua vài cánh cửa nữa thì chúng tôi đến được kho hàng trung tâm sân bay. Tôi cạy một cánh cửa buồng đá ra, và một luồng khí lạnh như băng phả lên. Tôi cố giấu vẻ nhẹ nhõm. Cứ thế này mãi thì cũng ngại thật. Chúng tôi bước vào trong và đứng giữa những cái giá chất đầy các khay thức ăn máy bay.
“Để xem ở đây có gì nào…” Julie nói và bắt đầu lục lọi các giá thấp, kiểm tra những khay đựng món thịt bò băm và khoai tây đã qua xử lý. Nhờ có các chất bảo quản kỳ diệu nào đó mà những món này nhìn vẫn còn ăn được.
Julie nhìn nhãn tên ở các giá trên mà nàng không với tới và đột nhiên toét miệng cười, để lộ hai hàm răng trắng đều tăm tắp nhờ đeo dây kẽm chỉnh nha từ bé. “Nhìn kìa, có mì xào Thái! Tôi thích…” Nàng bỗng nhận ra mình đang nói gì và im bặt, mắt nhìn tôi vẻ lúng túng. Nàng chỉ lên giá. “Tôi sẽ ăn món ấy.”
Tôi vươn tay qua đầu nàng nhặt lấy một ôm mì xào Thái đông lạnh. Tôi không muốn Người Chết nào nhìn thấy Julie ăn những thứ rác rưởi không sức sống, những calorie rỗng không này, vì vậy tôi dẫn nàng đến một cái bàn nằm khuất sau mấy quầy bán bưu ảnh đã sập. Tôi cố đưa nàng đi càng xa Trường càng tốt, nhưng chúng tôi vẫn nghe thấy những tiếng kêu gào khủng khiếp vang vọng khắp hành lang. Julie giữ vẻ mặt hoàn toàn vô cảm giữa những tiếng thét chói tai nhất, nỗ lực hết sức để tỏ ra là nàng không để ý tới cảnh tàn sát kia, chỉ thiếu nước huýt sáo nữa thôi. Nàng làm thế là vì tôi hay vì chính nàng?
Chúng tôi ngồi xuống bên bàn và tôi đặt một khay thức ăn trước mặt nàng. “Chúc… ngon miệng,” tôi nói.
Nàng chọc chọc món mì còn đông cứng bằng cái đĩa nhựa. Nàng nhìn tôi. “Quả thực là anh chẳng nhớ gì cả, phải không? Lần cuối anh ăn thức ăn thật là bao giờ?”
Tôi nhún vai.
“Thế anh đã… chết hay là đại loại thế được bao lâu rồi?”
Tôi gõ gõ một ngón tay lên thái dương và lắc đầu.
Nàng nhìn tôi từ đầu đến chân. “Ờ, chắc cũng chưa lâu lắm. So với một thây ma thì trông anh khá là ổn đấy.”
Tôi lại nhăn mặt vì cách dùng từ của nàng, nhưng tôi nhận ra nàng không thể biết được hết những hàm ý xã hội sâu xa của từ “thây ma”. Âm thỉnh thoảng dùng từ ấy để nói đùa, và có lúc cáu giận tôi cũng dùng đến nó, nhưng khi phát ra từ miệng một kẻ ngoài cuộc, nó châm ngòi cho một nỗi phẫn nộ đầy tự ái trong tôi mà nàng sẽ không hiểu nổi. Tôi hít một hơi thật sâu và cho qua.
“Dù sao thì tôi cũng không thể ăn như thế này được,” nàng nói, chọc cái đĩa nhựa vào món mì cho đến khi một răng đĩa gãy ra. “Tôi phải đi tìm lò vi sóng đã. Đợi nhé.”
Nàng đứng lên đi vào một trong những nhà hàng bỏ hoang. Nàng đã quên mất cách lê bước của mình, và đu đưa hông một cách nhịp nhàng. Kể cũng liều, nhưng tôi chẳng quan tâm.
“Được rồi,” nàng nói khi quay về và hít một hơi thật sâu mùi ớt cay nồng. “Hừừừm. Đã lâu lắm rồi tôi không được ăn đồ Thái. Ở Sân vận động chúng tôi không có thức ăn thật nữa, chỉ các chất dinh dưỡng cơ bản Carbtein thôi. Viên Carbtein, bột Carbtein, cả nước Carbtein nữa. Lạy Chúa. Ghê lắm.” Nàng ngồi xuống ăn một miếng đậu phụ đã khô quắt đi vì đông đá. “Ôi trời ơi. Kể có thể gọi là ngon được đấy.”
Tôi ngồi nhìn nàng ăn. Tôi thấy nàng có vẻ khó khăn khi nuốt những miếng mì đã dính lại thành cục. Tôi liền lấy một chai bia đỏ âm ấm từ trong tủ lạnh của nhà hàng ra và đặt xuống bàn.
Julie ngừng ăn và nhìn chai bia. Rồi nàng nhìn tôi mỉm cười. “Chà, ngài Xác Sống. Anh đọc được ý nghĩ của tôi rồi đấy.” Nàng vặn nắp chai uống một hơi dài. “Cũng lâu lắm rồi tôi chưa được uống bia. Trong Sân vận động không được dùng chất kích thích gì hết. Lúc nào cũng phải minh mẫn, lúc nào cũng phải cảnh giác, vân vân và vân vân.” Nàng lại uống một ngụm nữa và nhìn tôi vẻ dò xét pha lẫn giễu cợt. “Có lẽ anh không hẳn là một con quỷ, ngài Xác Sống ạ. Ý tôi là, bất cứ ai biết thưởng thức bia thì đối với tôi cũng không đến nỗi nào.”
Tôi nhìn nàng và đặt tay lên ngực. “Tên… tôi…” tôi khò khè, nhưng không biết tiếp tục như thế nào.
Nàng đặt chai bia xuống rồi hơi cúi về phía trước. “Anh có tên ư?”
Tôi gật đầu.
Miệng nàng cong lên thành một nụ cười mủn mỉm thích thú. “Thế tên anh là gì?”
Tôi nhắm mắt lại, suy nghĩ thật lung, cố lôi ký ức ấy ra khỏi khoảng không mông lung, nhưng tôi đã cố như thế nhiều lần rồi. “Rrr,” tôi nói, gắng phát âm thật rõ.
“Rur? Tên anh là Rur à?”
Tôi lắc đầu. “Rrrrr…”
“Rrr? Tên anh bắt đầu bằng chữ R?”
Tôi gật đầu.
“Robert à?”
Tôi lắc.
“Rick? Rodney?”
Tôi vẫn lắc.
“Ờ… hay là Rambo?”
Tôi thở hắt ra và nhìn xuống bàn.
“Hay tôi cứ gọi anh là ‘R’ thôi nhé? Cứ bắt đầu như thế cũng được, phải không?”
Mắt tôi tìm mắt nàng. “R.” Một nụ cười chậm rãi nở ra trên mặt tôi.
“Xin chào R,” nàng nói. “Tôi là Julie. Nhưng anh đã biết tên tôi rồi phải không. Chắc tôi phải là siêu sao.” Nàng đẩy chai bia về phía tôi. “Làm một ngụm đi.”