“Không ổn rồi,” Jamie nói trong khi chúng tôi đang đứng dưới mưa trên đám bùn đất của khu vườn nhà Edwards. “Của chị bị thừa mất hơn sáu centimét.”
“Không phải đâu,” tôi bị một giọt nước mưa rơi tọt xuống cổ. “Tôi đã đo chính xác mà.”
“Tôi không nghĩ thế, chị gái yêu quý ạ.”
Tôi đưa cho cậu ta xem bản vẽ quy hoạch lần nữa. “Tôi không biết tại sao chúng ta cứ luôn phải cãi nhau, Jamie nhỉ?”
“Bởi vì chúng ta có nhiều chuyện gây tranh cãi,” cậu ta nói với vẻ bực bội. Một chàng Jamie vốn tốt tính hôm nay bỗng dưng mang tâm trạng quái gở và khó gần suốt cả ngày.
“Chúng ta luôn tranh luận về mọi thứ,” tôi nói, “nhưng đó là bản chất của quan hệ công việc - nhưng chúng ta luôn tìm được cách giải quyết, nên giờ hãy xem lại một chút nào.” Tôi kéo cái thước dây ra. “Anh giữ hộ tôi một đầu với.”
“Tôi bảo với chị là không ăn thua đâu,” Jamie khăng khăng. Cậu ta chỉ vào những bản vẽ. “Chúng ta không thể làm sai được - nhất là khi một mét vuông đá trị giá đến một trăm hai mươi bảng.”
“Tôi đồng ý.” Tôi nhìn quanh mảnh vườn. Trong hai tháng đầu toàn bộ bề mặt cũ của nó đã được dọn sạch và nền được san bằng - bốn tấn đất đá được xúc đổ đi một cách cẩn thận. Thợ điện đã đặt cáp điện chiếu sáng, thợ nước đã lắp đặt hệ thống tưới tiêu và bây giờ đến lượt hàng chồng đá lát nền đang được phủ bạt sẽ được lát xuống ngày mai.
“Nó bị thừa mất tám centimét,” Jamie quả quyết khi chúng tôi đo lại diện tích khu vườn. “Cho nên khoảng cách ở giữa những phiến đá sẽ quá rộng.”
“Không rộng đâu, tôi đảm bảo với anh.”
“Và tôi không muốn vá víu những chỗ thừa ra bằng vài phiến đá bị xẻ bớt - người ta sẽ coi tôi là một thằng thợ xây nghiệp dư.”
“Chúng ta sẽ không làm như vậy, nhưng Jamie, anh nghe này.” Tôi liếc nhìn đồng hồ. “Hai vợ chồng họ sắp về rồi. Họ sẽ không muốn thấy chúng ta cãi nhau ỏm tỏi trong vườn nhà mình - và tôi cũng phải về xem Milly thế nào, nên chúng ta dừng ở đây và cứ kê cao gối mà ngủ.”
“Được thôi,” cậu ta thở dài. “Chị nói gì cũng được.” Rồi cậu ta bắt đầu thu dọn chỗ làm, xếp đống dụng cụ dưới cái mái che tạm, dùng một tấm nhựa dày màu xanh phủ lên chiếc máy trộn bêtông và quấn mớ dây diện lại vào trong cuộn.
“Anh cho tôi đi nhờ về nhà với được không?” Tôi hỏi cậu ta khi bà quản gia tiễn chúng tôi ra về. “Xe tôi bị trục trặc - nó đang để ở gara.”
“Tôi sẵn lòng mà.”
“Anh không sao chứ, Jamie?” Tôi leo lên ghế bên của chiếc xe bán tải cũ kỹ của Jamie một vài phút sau.
“Tôi bình thường,” cậu ta uể oải đáp. “Chưa bao giờ tốt hơn.” Cậu vùi hai bàn tay vào mái tóc ướt khi xe đang dừng đèn đỏ. “Tôi đang cảm thấy... tuyệt vời.”
Tôi nhìn dáng điệu của Jamie. “Không, anh trông chẳng ổn chút nào.”
Chúng tôi lắng nghe tiếng lạch cạch đều đều của cái cần gạt nước mưa khi nó quét lên quét xuống. “Không.” Cậu ta thở dài. “Chị nói đúng - Tôi không được khỏe. Tôi không ăn được. Tôi không nghĩ được gì... Tôi không ngủ được. Xin lỗi chị hôm nay tôi hơi mất bình tĩnh, nhưng tôi đã thức suốt đêm qua...” Cậu ta gục đầu xuống vô lăng và nhắm mắt lại một lúc.
“Chuyện gì xảy ra vậy, Jamie?” Cậu ta không trả lời. Tôi bỗng chán nản khi nhìn thấy miệng cậu ta run rẩy. “Có chuyện gì anh có thể kể với tôi,” tôi ân cần nói tiếp. “Chúng ta không chỉ là đối tác làm ăn, chúng ta còn là bạn. Nếu anh đang cảm thấy buồn, tôi có thể giúp anh hết sức.”
Cậu ta nắm chặt vô lăng, ngẩng đầu lên và nhìn chằm chằm vào tấm kính trước mặt.
“Rốt cuộc... là chuyện gì vậy?”
Đèn xanh bật sáng và Jamie nhả phanh tay ra. “Tôi có một vài chuyện,” cậu ta nói khẽ khi chiếc xe lướt đi.
“Là những chuyện gì?” Tôi hỏi mặc dù mình đã biết.
“Với Thea.” Khuôn mặt cậu ta đầy u uất.
“Có phải vì cô ấy đi công tác quá nhiều?” Jamie gật đầu chán nản.
Tôi nhớ lại một sự thật là mặc dù tôi quen Jamie được hai năm rưỡi tôi chỉ mới gặp Thea ba hay bốn lần gì đó. Lần nào cô ta cũng tỏ ra thân thiện nhưng tôi có cảm giác sự thân thiện đó chỉ là phong cách xã giao thường thấy của dân PR chuyên nghiệp.
“Sao cô ấy không tìm lấy một công việc có thể giúp cô ấy có nhiều thời gian ở Luân Đôn hơn?”
Jamie sang số chiếc xe. “Tôi đã nhiều lần bảo thế nhưng cô ấy không chịu. Tôi phần nào có thể hiểu được. Cô ấy mới chỉ hai mươi bảy tuổi - cô ấy có tham vọng và thích đi du lịch. Thea thích làm việc ở những nơi khác nhau - và cô ấy kiếm ra tiền - nhưng điều đó không tốt cho mối quan hệ của chúng tôi.” Tôi nhớ lại khoảng trống mà Jamie vẫn để dành trong vườn nhà mình để lắp một chiếc xích đu hay một cái cầu trượt. “Tôi muốn có một gia đình,” cậu ta nói tiếp. “Tôi muốn thấy mình đang làm việc vì cái gì. Chúng tôi cưới nhau đã được bốn năm. Tôi chỉ... rất khát khao một gia đình.”
“Cô ấy có thay đổi ý định về việc sẽ sinh con không?”
“Không. Hay ít ra là cô ấy nói chưa muốn thế,” Jamie nói và rẽ vào đường Havelock. “Nhưng hiện tại thì cô ấy phủ nhận khả năng này. Trước đám cưới, Thea bảo rằng cô ấy muốn có thai trong vòng mười tám tháng - nhưng rồi cô ấy tìm được việc làm ở công ty The Pitch và điều đó làm thay đổi tất cả. Dù sao đi nữa... Gần đây tôi hay bị sao nhãng, có thể nói như vậy.” Cậu ta dừng xe trước nhà tôi.
“Anh vào nhà và uống một chai bia nhé?” Tôi hỏi Jamie khi chiếc xe vẫn nổ máy.
“Tôi không biết nữa...”
“Anh có thể đỗ xe vào chỗ của tôi đây này - vào đi, Jamie. Thôi nào. Tôi không muốn anh về với bộ dạng như thế này.”
“Được thôi.” Cậu ta tặc lưỡi và tắt máy xe. “Không phải vì tôi sợ có ai ở nhà - tôi cũng muốn gặp Milly - mấy tuần rồi tôi chưa gặp nó.”
Tôi tra chìa khóa vào ổ và nghe thấy tiếng Milly chạy dọc cái sảnh. “Mẹ ơi!” Tôi ôm chầm nó vào lòng với một nụ hôn. “Chào cục cưng của mẹ! Cám ơn em, Luisa,” tôi nói thêm, “Giờ để chị lo cho.”
“Em đi bơi đây, chị Anna ạ.”
“Em đi vui vẻ nhé.” Tôi tự hỏi không biết nó có đi bơi thật không. “Milly, con nhìn này,” tôi nói, “chú Jamie đấy.” Milly mỉm cười với cậu ta rồi quay mặt đi ngay, có vẻ thẹn. “Chú ấy sẽ đọc chuyện cho con nghe đấy.”
“Tất nhiên rồi, cô công chúa à, chú sẽ đọc truyện cho cháu nghe.” Jamie tháo đôi giày cao cổ dính đầy bùn đất. “Chúng ta xem cháu có gì trong hộp đựng sách nào?”
Tôi đặt Milly xuống và nó chạy ù vào phòng khách. “Caterpinnar!” nó hét lên. “Muốn Caterpinnar, cậu Jamie!”
Tôi mở tủ lạnh và nghe thấy Jamie bắt đầu đọc quyển Một chú sâu bướm đang rất đói và như thường lệ, Milly muốn lướt qua nó càng nhanh càng tốt, nó liên tục lật những trang sách.
“Vào thứ Bảy nó ăn... một miếng bánh,” tôi nghe tiếng Jamie đọc.
“...Một củ hành dầm... một lát xúc xích... một cái kẹo mút,” tiếng Milly vang lên thích thú khi nó đoán đoạn tiếp theo trong khi lướt nhanh qua những trang sách. “...Vẫn còn đói... bướm điẹp... HẾT truyện!” Nó hét toáng lên với vẻ hớn hở.
“Lúc nào nó cũng làm thế,” Jamie nói với ra.
“Tôi biết mà,” tôi mở hai chai bia Stella. “Nó giống như là đang xem phim The Reduced Shakespeare Company vậy. Nó phi nước đại qua quyển sách với tốc độ chín mươi dặm một giờ.”
“Chị nghĩ vì sao nó làm thế?”
“Vì nó thích gào lên chữ “Hết truyện!”, phải không con gái của mẹ?”
“Mình đọc truyện khác nhé,” Jamie nói.
“Graffuno!” Milly kêu lên.
“Chú chuột Graffulo à? À...nó đây rồi... được rồi. Sẵn sàng chưa, Cô Milly?”
“Cháu sẵn sàng.”
“Vậy thì... Một chú chuột đi dạo trong một khu rừng sâu và tối... một con cáo -”
“...Một ngôi nhà dưới lòng đất,” tiếng Milly, “... những con ong có bướu... con cú.. tôi hét lên... con cáo bị quay chín... ngôi nhà làm bằng gỗ... Graffulo bị ngã... Hết truyện! Muốn xem DBD, mẹ ơi!”
“Anh bật đĩa DVD cho Milly đi,” tôi bảo Jamie. “Nó sẽ chọn đĩa.”
“Chú thỏ Peter, muốn Chú thỏ Peter!”
Tôi bưng cái khay lên và nhìn thấy Milly đang yên vị trong cái ghế bành nhỏ màu vàng của nó và xem đĩa DVD, thỉnh thoảng vỗ tay vào miệng khi đến đoạn chú thỏ Peter cạo râu cùng ông McGregor, rồi quay sang nhìn chúng tôi với đôi mắt tròn xoe kinh ngạc.
“Sao anh không thử cùng đi vài chuyến với Thea?” Tôi đưa chai bia cho Jamie và hỏi.
Cậu ta lắc đầu. “Tôi quá bận. Vả lại như thế có vẻ kỳ quá, phải không chị. Như thể tôi không tin cô ấy vậy.”
“Nhưng anh có tin không?”
Jamie ngừng lại một lát. “Tôi đã luôn tin tưởng cô ấy,” cậu ta trả lời một cách thận trọng rồi mân mê cốc bia trên tay. “Nhưng giờ đây tôi không dám chắc nữa.” Tôi cảm thấy có gì đó không ổn. “Mấy hôm trước tôi tìm thấy một thứ. Tôi cố giữ thật bình tĩnh rồi nhưng mà...” Jamie nhún vai. “Nó trông không được ổn.”
“Kể cho tôi nghe đi.”
“Chuyện là...” Cậu ta nuốt nước bọt. “Trong suốt mấy tháng trước Thea đi đi về về Nam Phi ba lần - và sắp sửa đi mười ngày nữa. Tôi đang định giặt đồ nên tôi lôi hết mọi thứ trong cái rổ đựng đồ giặt ra và ở dưới đáy của nó là một chiếc váy của Thea. Tôi đang định cho nó vào máy giặt thì chợt nhận ra có cái gì đó ở trong túi nó - một danh thiếp.” Cậu ta dừng lại. “Nó là của người này, Percy du Plessis. Cô ấy chưa bao giờ kể về anh ta nhưng trên tấm danh thiếp viết rằng anh ta là phó chủ tịch Hiệp hội Tennis Nam Phi. Ấy vậy mà mặt sau cái danh thiếp anh ta viết rằng anh ta “không thể” chờ lâu hơn nữa để được gặp cô ấy, rằng “đang rất háo hức” về cuộc hẹn hò trong tháng Năm tới, và rằng anh ta sẽ cho cô ấy một khoảng thời gian “trên cả tuyệt vời”, chấm, chấm, chấm... là gì thì ai cũng đoán được.”
“Ồ, vậy là...”
“Chị không phải an ủi tôi đâu,” giọng Jamie nghe thật sầu thảm. Cậu ta nhấp một ngụm bia. “Những gì đang xảy ra thì đã rõ rồi.” Jamie chẳng cho thấy một dấu hiệu nào của hy vọng. “Khi Thea ra nước ngoài, cô ấy bị thách thức bởi quá nhiều cám dỗ. Cô ấy ở khách sạn năm sao; cô ấy được mời tham dự tất cả những bữa tiệc và những buổi chiêu đãi; cô ấy gặp vô số đàn ông quyến rũ và có quyền lực, những người cũng khát khao Thea - cô ấy rất xinh đẹp.”
“Lúc ở nhà, cô ấy đối với anh như thế nào?”
“Thường thì cô ấy... đối xử tốt với tôi,” cậu ta trả lời. “Cô ấy rất sung sướng khi được gặp lại tôi. Nhưng vừa mới tháng trước cô ấy tỏ vẻ xa cách, nên tôi bắt đầu có cảm giác là sắp sửa xảy ra chuyện gì đó. Và rồi tôi tìm thấy cái danh thiếp này và... thật sự là...”. Jamie nhún vai. “Đã rõ rồi.” Cậu ta ôm đầu. Tôi thấy Milly quay sang nhìn cậu ta với ánh mắt không hiểu nhưng đầy thương cảm. Rồi nó đi đến trước mặt, ôm lấy chân cậu ta và ngước nhìn lên một cách dò hỏi.
“Cám ơn cháu yêu.” Jamie xoa đầu nó.
“Nhưng có thể anh chàng này, Percy gì đó, đang si mê cô ấy,” tôi bế Milly vào lòng và nói tiếp, “nhưng anh chẳng có bằng chứng gì về việc liệu cô ấy có hưởng ứng anh ta không, đúng không nào?”
“Tôi không có bằng chứng gì cả,” cậu ta thở dài. Jamie cầm cái bảng tập viết của Milly lên rồi vẽ hình một con mèo lên đó, Milly kéo cái cần gạt và xóa nó đi ngay. “Thế nhưng linh cảm mách bảo tôi điều đó,” cậu ta nói tiếp. “Tôi cảm nhận được sự thật là gần đây Thea đã thay đổi, và rất có thể đó là lý do.” Cậu ta viết hai từ “Thea&Jamie” bằng những chữ cái uốn éo lên bảng. Rồi cậu ta kéo cái cần gạt xuống, nhả nó ra và những từ đó dần biến mất sau một tiếng động nhỏ. “Nếu cô ấy không chung thủy, tôi chẳng bao giờ có thể vượt qua được,” cậu ta nói rất khẽ.
“Đừng kết luận một cách vội vàng,” tôi khuyên nhủ Jamie. “Hãy nói chuyện với cô ấy. Khi cô ấy quay về sau chuyến đi này, anh hãy đợi cô ấy khỏe lại, rồi nhẹ nhàng đưa cho cô ấy xem cái danh thiếp và bảo với cô ấy anh cảm thấy thế nào khi tìm thấy nó. Cho cô ấy một cơ hội để giải thích. Nếu không những nghi ngờ của anh, có thể chúng sai lầm, có thể hủy hoại mối quan hệ giữa hai người.”
“Đúng vậy, cám ơn chị, Anna.” Cậu ta lại thở dài thườn thượt. “Thế thôi, tôi phải về nhà đây. Tôi có rất nhiều việc phải làm. Chào cô công chúa nhỏ.” Milly đưa hai tay lên ôm hôn cậu ta. “Còn chuyện của chị với chàng Hoàng tử Đẹp trai kia sao rồi?” Jamie hỏi tôi lúc xỏ giày vào. Tôi bảo với cậu ta là mình đã gặp lại Patrick.
“Mọi chuyện khá tốt đẹp...” Tôi nói. “Chúng tôi vẫn đang tìm hiểu nhau - Tôi không muốn vội vàng nhưng mà tôi thật sự... thích anh ấy.”
“Vậy anh ta có vẻ được nhỉ?”
“Có lẽ vậy.”
“Thế thì tốt,” Jamie nói với giọng chân tình. “Còn Milly đã gặp anh ta chưa?”
“Chưa. Lúc này vẫn còn quá sớm.”
Vì Jamie quá buồn về chuyện của Thea nên thật là không phải nếu tôi kể cho cậu ta nghe tôi hạnh phúc như thế nào khi ở bên Patrick. Chúng tôi đã gặp gỡ nhau suốt ba tuần qua. Tôi sẽ không lặp lại sai lầm như đã vấp phải với Xan, nên chúng tôi không việc gì phải vội vã. Chúng tôi đã đi ăn tối và xem nhạc kịch cùng nhau; tôi có vé cho mấy vở diễn liền. Kỳ nghỉ cuối tuần sau đó chúng tôi lên kế hoạch đi chơi xa. Ba tôi đã đồng ý đến ở lại và trông Milly bởi tôi sẽ chẳng bao giờ để một cô giúp việc ở nhà một mình với nó cả.
“Con sẽ đi chơi xa vào cuối tuần à?” Ba tôi hỏi khi tôi gọi điện nhờ ông.
“Chỉ một đêm thôi - ở Cliveden.”
“Hay đấy. Với ai vậy?” ba tôi hỏi gặng, “con không nói cũng được.”
“Thật ra là với Patrick. Bạn.. mới quen của con.”
“Ra là thế,” ba tôi nói và tự nhiên tôi có lại cảm giác của một cô gái hai mươi tuổi vừa xin phép ba mẹ được đi chơi đêm lần đầu tiên. “Nhưng mà con cũng nên có niềm vui riêng trong cuộc đời, con được quyền có tình yêu mới sau những gì đã trải qua, con phải gặp được gặp những người bạn mới, thú vị... và được ở bên họ,” giọng ba tôi sôi nổi.
Sau đó chúng tôi im lặng một lúc. “Vậy là ba nhận lời giúp con rồi chứ ạ?”
“Ồ,” ba tôi quay lại với thực tại. “Được rồi. Con đã làm gì với Luisa rồi? Đã phát hiện thêm điều gì chưa?” Tôi đã kể cho ông nghe về mớ tiền của Luisa.
“Con chẳng biết phải làm gì tiếp theo,” tôi trả lời. “Con không có chứng cứ gì về việc liệu nó có được số tiền đó một cách phi pháp hay không, nhưng con vẫn cảm thấy không yên tâm - như thể nó đang giấu diếm điều gì đó.”
“Nó có lấy mất thứ gì không?”
“Ý ba là thứ gì bán được ấy à? Như đồ trang sức của con chăng? Không - con chắc là chẳng mất thứ gì cả. Một mặt thì con cảm thấy nó thật thà.”
“Nhưng mặt khác con lại không tin nó.”
“Con e là vậy.” Suy nghĩ đó khiến tôi rầu lòng. “Kể cũng thấy lạ. Cassie nghĩ rằng có thể nó bán ma túy, nhưng con chẳng tìm thấy dấu vết nào trong phòng Luisa. Gần đây nó hay ra ngoài - nó vẫn nói là đến câu lạc bộ dưỡng sinh. Đó có thể là cái vỏ bọc.”
“Sao con không theo dõi nó?”
“Đó chính là điều con muốn làm - nhưng ba phải giúp con trông cháu. Thứ Hai được không ba?”
“Ba sợ là hôm đấy không được Anna à, ba xin lỗi.”
“Thế à, còn thứ Ba thì sao ạ?”
“Ồ... xin lỗi con, cũng không được.” Buổi tối ba tôi thường có bận gì đâu nhỉ. Thi thoảng ông đi ăn tối với bạn bè, đến câu lạc bộ, nhưng hầu hết là ở nhà mình hay nhà tôi. “Con thử bảo Cassie xem nào,” ba tôi nói thêm.
“Con bảo rồi nhưng nó nói tối nào nó cũng rất bận. Nhưng mà thứ Tư có được không ba? Khoảng từ 5.30 đến 7.30 chẳng hạn?”
Tôi có thể thấy tiếng ba tôi đang liếm môi. “Ba đã có kế hoạch rồi.”
“Kế hoạch gì cơ?”
“Bàn về một cái cầu,” ba tôi trả lời ngay.
“Thế thì tốt quá - với ai ạ?”
“Với... nhà Travises. Dù vậy... ba có thể thay đổi một chút cũng được - được rồi, vào bữa tối thay vì lúc nhâm nhi. Thật ra thì vào bữa tối sẽ tốt hơn,” giọng ba tôi trầm ngâm. “Vậy nhé, 5.30 ngày thứ Tư ba có thể đến được.”
“Ba có đầu mới nhé,” tôi bảo với ba tôi khi ông đến.
“Ba cần phải cắt tóc,” ông cất cái xe nôi đi. “Con có nghĩ là nó ngắn quá không?”
“Không ngắn đâu ạ.” Tôi ngửi thấy mùi thuốc cạo râu từ ông.
“Đúng thế không?” ông hỏi lại với giọng ngờ vực rồi ngắm mình trong cái gương tròn treo dưới chân cầu thang.
“Đúng mà ba. Ba trông trẻ hơn ra.”
“Thật ư?” ông tỏ ra háo hức và đưa tay trái lên vuốt tóc. “Trông ba khoảng bao nhiêu tuổi?”
“E hèm... năm mươi hai.”
“Con đang đùa đấy à!”
“Không hề,” tôi cự lại, lòng chợt thấy vui vì đã làm cho ba tôi thấy mình trẻ ra. Ông ngoắc tay ra hiệu cho tôi. “Ba mới mua cái sơ mi này à?”
“Ừ. Mấy cái cũ của ba nhếch nhác quá rồi. Ba chợt nhìn thấy nó khi đi đến Selfridges. Con thấy có được không?”
“Được ạ. Màu tím hợp với ba,” tôi nói dối. “Căn hộ của ba tốt chứ ạ?”
“Rất tốt - nhưng con đừng quên mấy cái chậu hoa mới của ba đấy nhé.”
“Ôi Chúa ơi, con xin lỗi, con quên khuấy đi mất, nhưng con sẽ mua chúng cho ba ngay, con hứa mà.”
Tôi vừa hỏi Luisa xem tối hôm đấy nó có kế hoạch gì chưa và nhận được câu trả lời là nó sẽ lại đi bơi.
“Chào em,” tôi gọi với ra khi nó rời khỏi nhà lúc sáu giờ kém mười lăm.
“Chào chị Anna.”
“Adíos!” Milly cũng gọi với ra, nó đang chơi xếp hình trong phòng khách.
Tôi nhìn qua cửa sổ phòng khách để xem Luisa đi đường nào. Rồi tôi hôn tạm biệt Milly, nó ngơ ngác chẳng hiểu gì, vồ lấy cái túi và đi theo Luisa dọc con phố. Tôi đi đôi giày thể thao nên chẳng nghe thấy tiếng bước chân. Tôi đi theo nó dọc đường Blythe, ngang qua căn hộ của Jamie, qua chiếc Bentley Continental đang đỗ, qua cả vườn trẻ Sweet Peas, khu Brook Green, xuôi theo đường Rowan và cuối cùng Luisa cắt qua đường Hammersmith rồi đi vào Câu lạc bộ Dưỡng sinh W6.
Tôi trình thẻ hội viên ở bàn lễ tân rồi ngồi nấp trong quầy cà phê ít phút để đợi Luisa thay đồ. Sau đó tôi kín đáo nhìn qua bức tường làm bằng kính trông ra bể bơi, nơi tôi thấy Luisa đi ra từ phòng thay đồ nữ trong bộ đồ bơi màu xanh nước biển. Nó tắm qua ở bể jacuzzi rồi nhảy xuống bể, bơi tới bơi lui độ nửa giờ rồi lại leo lên và mặc quần áo. Nó đi ngang qua quầy cà phê mà không hề nhận ra tôi, nó rời câu lạc bộ và đi thẳng về nhà theo đường cũ.
“An toàn rồi,” ba tôi thì thầm khi mở cửa cho tôi. “Nó đi thẳng lên phòng xem tivi.”
“Thế à,” tôi nói, thở không ra hơi vì cuộc đi bộ. “Đấy, nó bảo là nó đi bơi và làm chính xác như thế. Nhưng ngày mai con sẽ thử lần nữa.”
“À...”
“Ba giúp con đi mà. Chuyện này rất quan trọng.”
“Được... rồi,” ba tôi nói. Rồi tôi lại theo dõi nó lần nữa vào tối hôm sau và mọi chuyện vẫn y như cũ - cả tối kế tiếp cũng vậy.
“Em không nghĩ Luisa đang làm điều gì đó mờ ám,” tôi nói với Patrick khi chúng tôi lên đường đi Cliveden trên chiếc BMW của anh chiều ngày hôm sau. “Em đã đi theo nó suốt ba buổi tối và tất cả những gì nó làm là bơi, về nhà và đi thẳng lên phòng xem tivi. Nó đang có một cuộc sống không có gì đáng phàn nàn.”
“Vậy thì em nên dẹp bỏ những nghi ngờ của mình đi được rồi,” Patrick bảo khi chúng tôi đi xuyên qua phía tây Luân Đôn. “Em chẳng thể hỏi nó vì sao nó có được số tiền ấy...”
“Vâng.”
“Mặt khác em không có bằng chứng gì chứng tỏ nó đang làm điều gì đó sai trái.”
“Chẳng có gì cả. Chỉ là... cảm giác hơi lạ thôi. Đặc biệt là khi số tiền mà nó có ngày một nhiều lên.”
“Nó giữ hộ cho bạn trai chăng?”
“Có thể, mặc dù nó không có vẻ gì là có bạn trai cả.”
“Em nói là nó làm việc chăm chỉ mà.”
“Rất chăm chỉ - và Milly yêu quý nó.”
“Thế thì anh sẽ không bận tâm nữa - tìm được người trông con tốt khó lắm.”
“Em cũng nghĩ vậy.” Tôi ấn nút mở cửa sổ cạnh mình.
“Em đừng làm thế!” Patrick nói và nâng nó lên bằng một nút bấm trên bộ điều khiển trung tâm.
Tôi hơi giật mình vì giọng hơi gắt của anh. “Sao không được ạ?” tôi bạo dạn nói. “Thời tiết buổi chiều thật là ấm áp. Ở trong xe bắt đầu nóng lên rồi.”
“Nhưng cái điều hòa vẫn chạy rất tốt mà.”
“Em biết, nhưng em muốn một chút gió mát. Hơn nữa em ghét cái cảm giác bị nhốt trong một chiếc xe giống như một con bọ bị nhốt trong một cái lọ mứt.”
“Anh lại không thích hạ cửa xuống khi chúng ta đang ở trong thành phố. Không khí ô nhiễm làm anh phát ốm.”
“Nhưng đường rất vắng mà.” Tôi lo sợ chuyện này sẽ dẫn đến một cuộc cãi vã. Tôi tự hỏi trong một mối quan hệ mới hình thành như thế này, lúc nào người ta có thể cãi nhau được.
“Được rồi... anh sẽ hạ nhiệt độ xuống chút nữa,” Patrick vặn cái nút chỉnh. “Thế này được chưa em?”
“Được rồi anh,” tôi nói dối và nhìn chằm chằm qua cửa kính. “Mất bao lâu thì đến nơi vậy anh?” Tôi cố gắng làm dịu bớt bầu không khí sắp trở nên căng thẳng.
“Chỉ một tiếng thôi. Cũng vì thế nó thích hợp với những kỳ nghỉ cuối tuần lãng mạn.”
“Vậy chắc anh từng đến đó nhiều rồi?” Tôi cười mỉm khi xe rẽ sang đường M4.
“Đáng buồn là rất ít,” anh trả lời. “Anh mới chỉ tới đó một lần với Suzie, khi cô ta có thai tám tháng. Bọn anh dành phần lớn thời gian để cãi nhau.”
“Về chuyện gì, anh không phiền nếu em biết chứ?”
“Về chuyện hôn nhân. Cô ta nói rằng anh nên “tiến hành” đi nhưng anh lại muốn đợi thêm vì bọn anh mới chỉ bên nhau chưa đầy một năm.”
“Chà, em nghĩ như thế là hợp lý.”
“Dù sao thì khách sạn cũng rất đẹp, và không thể tin được nó lại ở rất gần với Luân Đôn, chưa kể là với sân bay Heathrow. Anh đoán là em khó có thể đi đâu thật xa vì còn có Milly.”
“Vâng. Cám ơn anh đã sắp xếp chuyện này, Patrick à, em rất nóng lòng đến đó.”
Xe chúng tôi phóng nhanh trên xa lộ dẫn tới Taplow và chẳng mấy chốc đã nhìn thấy những con đường ở vùng quê nơi có những thảm cỏ mọc cao vút và những vạt mùi tây dại dùng làm thức ăn cho bò, hai bên là những cánh rừng với bạt ngàn hoa chuông. Chúng tôi rẽ phải sang một con đường hẹp và dài với hàng rào làm bằng những cây nguyệt quế, rồi chạy đến trước một đài phun nước màu trắng được tạo hình như một chiếc vỏ sò, lờ mờ đằng sau nó là một ngôi nhà lớn xây theo Ý.
“Oa,” tôi kêu lên khi ngôi nhà dần hiện rõ trước mắt.
“Ai lần đầu tiên nhìn thấy nó cũng kinh ngạc như em. Kiến trúc sư của ngôi nhà là Charles Barry, người đã thiết kế Cung điện Westminster.”
“Tất cả những gì em biết về Cliveden là chính nó là nơi Christine Keeler lọt vào mắt Ngài Bộ trưởng John Profumo đầu những năm sáu mươi.”
“Chuyện đó thì ai cũng biết, nhưng ngôi nhà còn có một lịch sử riêng của nó. Nó là nhà của người Astors một trăm năm trước và những nét cổ xưa thời đó vẫn còn được lưu lại ngày nay.”
Khi chiếc xe đỗ trước cửa ra vào, một người phục vụ ra mở cửa còn một người khác xách hành lý của chúng tôi. Trong lúc một nhân viên của khách sạn lái xe ra bãi đỗ, chúng tôi được dẫn lên chiếc cầu thang chạm trổ bằng gỗ sồi và đưa vào một căn phòng ở tầng một. Căn phòng rất hoành tráng với một bức chạm trổ nhiều hình huy hiệu lớn ở ngay bên trên lò sưởi, một phòng tắm được lát đá cẩm thạch rộng và một chiếc giường kiểu cổ được lắp một cái khung phủ lụa Đamát màu vàng.
“Thật là xa xỉ,” tôi thốt lên.
“Quả vậy - nhưng nó không có nhiều tiện nghi lắm,” Patrick nhận xét. “Ví dụ như không có điều hòa nhiệt độ, không có quầy bar mini, chỉ vì nó được thiết kế theo kiểu một ngôi nhà nông thôn và chúng ta là những người khách gia đình hơn là những khách du lịch. Những bức tranh và đồ cổ là những bản gốc có từ khi những người Astors sở hữu nó. Chúng ta đi một vòng xem nhé.”
Chúng tôi đi xuống cầu thang và dừng lại để xem những bức tranh dầu màu tối của Vua George Đệ Nhị và Công chúa Augusta cùng bức hoạ rực rỡ chân dung của bà Nancy Astor được vẽ bởi John Singer Sargent. Trên chiếc đàn piano cỡ lớn là những tấm ảnh được đóng khung của nhà Astors cùng với Amy Johnson, Churchill và Charlie Chaplin. Chúng tôi ngồi uống trà trên cái hiên phía trước nhà, trông ra sân chính nối với một bãi cỏ dài tít tắp.
“Ở đây thật đẹp,” tôi thì thào. “Trông thật... kỳ vĩ.”
Chúng tôi bơi ở bể bơi ngoài trời tuyệt đẹp, sau đó đi xông hơi khi hoàng hôn bắt đầu buông xuống, trên nền trời một vài vì sao đang nhấp nháy cùng ánh đèn phát ra từ những chiếc máy bay đến và đi từ sân bay Heathrow. Rồi chúng tôi quay trở về phòng mình, cởi hết áo xống và ân ái lần đầu tiên.
“Anh đã muốn làm điều này với em từ lâu rồi,” Patrick nằm xuống bên cạnh và đưa tay vuốt ve khuôn mặt tôi. “Kể từ khi anh nhìn thấy em lần đầu tiên.”
“Cũng đã rất lâu rồi,” tôi thì thào khi anh hôn tôi. “Em không... kể từ trước khi Milly chào đời.”
Anh hôn tôi lần nữa. “Tốt.”
Khi anh đang tắm, tôi gọi điện hỏi thăm Milly, rồi chúng tôi mặc quần áo và xuống ăn tối.
“Ở đây thật tuyệt,” tôi nói khi đang ngồi nhâm nhi ly cốctai sâm banh ở quầy bar. Tôi cảm thấy bao nhiêu mệt mỏi trong người tiêu tan hết.
“Em xứng đáng được ở đây mà,” Patrick nói và đưa bàn tay tôi lên môi.
Anh hỏi tôi về gia đình khi chúng tôi đang ăn bữa tối.
“Cassie có vẻ là một cô gái năng động.”
“Nói thế có vẻ hơi tâng bốc nó. Nó là một người phụ nữ hai mươi chín tuổi mà cư xử như một cô gái tuổi teen.”
“Em không hòa hợp với nó à?”
“Không.” Tôi để nĩa xuống. “Em không tán đồng một số việc nó làm. Nhưng tình cảm của em đối với nó lẫn lộn cả sự thất vọng và tình yêu thương, như từ trước đến nay vẫn vậy - Em lo là nó đang hủy hoại cuộc đời mình, thế thôi. Nó chẳng muốn cái gì là ổn định cả.”
“Cassie có thông minh không?”
“Nó rất thông minh. Nó có một trí óc tốt, được hưởng một nền giáo dục cao cấp,” tôi nói với giọng ấm ức trong khi người bồi bàn thu dọn những cái đĩa. “Em phải chấp nhận học trường công ở hạt còn Cassie thì được ba mẹ gửi đến trường tư thục bán trú, rồi chuyển lên Marlborough vào năm lớp sáu.”
“Em có phàn nàn không?”
“Em phải cố gắng lắm mới không làm như vậy.” Tôi mân mê cái chân nến. “Cassie nhỏ hơn em sáu tuổi nên lúc nó đi học, ba mẹ đã khấm khá hơn. Nhưng rồi họ cho rằng vì Cassie quá bướng bỉnh nên lo lắng nó sẽ giao du với những đứa bạn không tốt nếu nó học ở trường em đang học. Trong khi về em, họ chẳng bao giờ phải lo lắng gì.”
“Bởi vì em chăm chỉ và bản lĩnh hơn.”
“Đúng thế. Em cảm thấy mình bị trừng phạt vì điều đó, trong khi nó lại được tưởng thưởng vì sự vô trách nhiệm của mình. Nhưng em chẳng bao giờ làm thế,” tôi nói tiếp sau khi người bồi bàn rót thêm rượu vào hai cái ly. “Nếu em có nhiều hơn một đứa con, em sẽ không bao giờ phân biệt đối xử với chúng.”
“Em muốn sinh thêm con không?”
Tôi nghĩ đến viễn cảnh mình có thêm một đứa con nữa. “Chỉ nghĩ đến việc đó thôi em đã thấy thương Milly,” tôi trả lời. “Về lý thuyết là có, hơn nữa cũng tốt hơn cho Milly nếu có thêm anh chị em.” Người bồi bàn mang một chiếc bánh pút đinh tráng miệng ra. “Nhưng phải đến lúc thật thích hợp.”
“Và người đàn ông cũng phải thích hợp nữa,” Patrick bổ sung.
“Tất nhiên là như vậy rồi. Anh thì sao?”
“Ồ, anh đương nhiên là người đàn ông thích hợp rồi,” anh mỉm cười.
Tôi phá lên cười. “Ý em là anh có muốn có thêm con không?”
“Anh muốn chứ,” anh nói rồi dừng lại uống một chút rượu. “Có một gia đình khác nữa sẽ giúp anh... không phải là để vượt qua chuyện buồn trong quá khứ - Anh chẳng bao giờ có thể nguôi ngoai được - mà là giúp anh cảm thấy đỡ đau lòng hơn.”
“Anh không nên có con chỉ để chúng khỏa lấp nỗi buồn của anh.”
“Em nói đúng. Như thế là không công bằng. Anh chỉ nên có thêm con vì anh yêu trẻ con và có nhiều thứ để cho chúng. Anh biết là anh sẽ làm được điều đó.”
Đó có vẻ là một câu trả lời tôi mong đợi. Sau đó Patrick kể tiếp về Sam - và về Suzie.
“Cảm giác của anh về cô ấy bây giờ thế nào?” Tôi hỏi anh.
Anh đặt cái thìa xuống. “Anh ghét cô ta,” anh trả lời có vậy. “Nghe có vẻ khắc nghiệt nhưng anh không thể nhịn được. Anh ở bên cạnh và chăm sóc cô ta khi cô ta mang thai, rồi anh làm tất cả những gì tốt nhất để làm cho cô ta hạnh phúc. Đổi lại cô ta ngoại tình, bỏ rơi anh và mang cả thứ quý giá nhất cuộc đời anh là thằng con trai đi.”
“Nếu như cô ta ít nhất là ở gần hơn...” tôi lẩm bẩm.
“Chính xác. Lúc đó mối quan hệ giữa anh và Sam sẽ tốt đẹp hơn nhiều. Thế mà cô ta lại chọn cách dan díu với một gã đàn ông mà cô ta biết là sẽ quay về New Zealand - anh cảm thấy như cô ta trêu tức anh.”
“Tại sao cô ta muốn làm thế?”
“Tại vì anh không cưới cô ta. Cô ta tức giận về chuyện đó. Nhưng bỗng anh chợt nghĩ cô ta chỉ muốn kết hôn với anh vì sau đó có thể đòi ly dị. Anh chẳng tin cô ta chút nào.”
“Anh bảo rằng cô ta nói dối trước phiên tòa.”
“Thì đúng vậy mà. Chuyện đó là không phải bàn cãi nữa,” anh nói tiếp.
“Nhưng mà... cô ta nói dối về chuyện gì mới được chứ?”
Patrick do dự một lúc rồi đặt cái nĩa xuống. “Đã xảy... một chuyện,” anh bắt đầu với giọng nhỏ nhẹ. “Có một... chuyện không hay. Anh muốn kể cho em nghe bởi vì anh biết là Suzie đã kể xấu về anh, mượn danh anh để làm một số việc không tốt...” giọng nặng nề của anh làm tôi nhớ đến Sandra - chị rõ là không có thiện cảm với anh mấy.
“Tóm lại là chuyện gì thế anh?” tôi hỏi khẽ.
Anh hít một hơi dài. “Lúc ấy anh đang chơi với Sam,” anh thì thầm, “trong vườn nhà ở đường Caithness. Lúc ấy nó sắp được hai tuổi, cái tuổi bắt đầu thích chơi trò tung hứng kiểu xích đu. Nó cứ nài nỉ anh cho chơi và luôn miệng nói, “Làm lại đi ba! Làm lại! Làm lại!” - thật khó mà từ chối trẻ nhỏ điều mà chúng muốn. Anh tung nó lên lần nữa - nhưng lần này anh phạm một sai lầm tệ hại. Giờ thì anh mới biết nếu muốn làm trò này với trẻ nhỏ, ta phải bế chúng ở dưới nách chứ không phải nắm bàn tay hay cánh tay. Nhưng trước kia anh chưa từng chơi tung hứng nên anh đã nắm hai cánh tay của Sam, tung nó lên hai lần và vai của nó bị trật khớp.”
“Ôi...”
“Anh vội vã đưa Sam đi cấp cứu, ở đó họ nắn lại khớp vai cho nó và tất nhiên là nó rất đau một vài ngày sau đó, tội nghiệp thằng bé, em không thể tưởng tượng anh cảm thấy đau đớn thế nào đâu. Chuyện đấy hoàn toàn là vô tình, Anna ạ. Nó là một tai nạn, một tai nạn.” Đôi mắt anh ngấn lệ. “Vậy mà Suzie đã bóp méo nó trước tòa.” Anh nuốt nước bọt. “Cô ta lợi dụng chuyện đó - cô ta thật cay độc và quá nhẫn tâm.” Tôi nhìn thấy vết sẹo nhỏ trên sống mũi anh trắng bệch ra.
Tôi sờ bàn tay anh. “Patrick này, em kể với anh một chuyện nhé?” Anh nhìn tôi. “Chuyện tương tự đã xảy ra với ba mẹ em nhiều năm trước đây. Họ đang chơi trò “một, hai, ba, bay nào” với anh Mark trên bãi biển ở Cornwall. Họ tung anh ấy lên cao quá và xảy ra chuyện y hệt của anh - với trẻ nhỏ thì việc phục hồi là khá đơn giản. Tất nhiên là chúng thấy đau nhưng những chuyện như thế không có gì là to tát cả.”
“Ừm. Không có to tát cả,” Patrick lặp lại với vẻ nhăn nhó. “Nhưng trong phiên tòa phân xử việc Suzie muốn sang sống ở New Zealand, cô ta lại bảo rằng anh đã quá bất cẩn - thậm chí là cố tình. Vào thời điểm đó anh đang chiến đấu với cô ta đến cùng để buộc cô ta không rời khỏi nước Anh và cô ta ý thức rõ ràng được việc nói dối như vậy sẽ giúp cô ấy thắng kiện. Khi luật sư của anh đề nghị Sam nên sống với anh, Suzie nói cô ta không bao giờ cho phép việc đó, không bao giờ, sau những gì đã xảy ra với Sam hôm đó - với hàm ý rằng anh không đáng tin cậy.”
“Thẩm phán nói gì?”
“Bà ta bảo rằng một tai nạn đơn lẻ như thế không thể chứng tỏ anh không xứng đáng làm cha. Nhưng mà sâu xa thì cô ta đã dùng nó để chống lại anh. Vì thế anh có cảm tưởng cô ta bôi nhọ danh dự của anh - đó là việc xấu xa nhất trong những việc cô ta sắp sửa làm với anh.”
Tôi nắm bàn tay anh. “Tốt nhất là không nên nghĩ về nó nữa. Em mừng là anh đã kể cho em nghe.”
“Anh yêu Sam bằng cả trái tim,” Patrick nói tiếp. “Nhưng anh phải kiểm soát bản thân mình, bởi vì anh cảm thấy rất tức giận: anh là cha nó, vậy mà Suzie mang nó đi xa mười bốn ngàn dặm - như thể anh chẳng đóng vai trò gì trong cuộc đời của nó vậy.”
“Bao lâu anh mới gặp con một lần?”
“Ồ...” Anh lắc đầu. “Thường xuyên. Anh nhìn thấy nó trên những cái xích đu, chạy chơi trong công viên, hay chỉ đi bộ dọc phố với mẹ nó, ngồi đằng sau một chiếc xe ôtô, mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. Tất cả những đứa trẻ mà anh nhìn thấy đều khiến anh nhớ về nó. Trả lời câu hỏi của em, anh gặp nó sáu tháng một lần. Mỗi lần như vậy, anh đến Christchurch và ở tại một nhà khách trong hai tuần. Và anh làm tất cả những gì có thể để làm cho con trai anh nhớ lại anh là gì của nó và anh yêu nó nhường nào.”
“Khi lớn hơn nó có thể sang đây và ở với anh.”
“Anh hy vọng như vậy,” Patrick nói. “Dù rằng lúc ấy còn xa lắm. Còn với hiện tại, anh khó lòng dám nghĩ rằng mình đang mất dần một thứ gì đó, mỗi ngày trong cuộc đời con trai anh.”
“Chắc anh phải cảm thấy mất mát nhiều?”
“Đúng như vậy.”
Buổi sáng hôm sau chúng tôi thức dậy sớm và đi dạo trên thảm cỏ ướt đẫm sương trong ánh mặt trời lúc bình minh. Tôi mang theo máy ảnh, chụp những cây hoa và kiến trúc xung quanh để làm dữ liệu cho mình. Trong khi tôi bấm máy, Patrick bảo tôi miêu tả đặc tính của các loài cây mọc trong vườn và hai bên hàng rào.
“Những cây anh túc non này thì sao?” Anh hỏi.
Tôi nhìn những cánh hoa trắng và mỏng như những tờ khăn giấy trồi lên từ những cái bao đầy lông. “Mẹ em thường gọi chúng là Gatecrashers vì chúng tự thụ phấn- chúng tự sinh sôi nảy nở. Loài cỏ roi ngựa cũng vậy” - Tôi chỉ về phía những bông hoa màu tím với những chiếc lá bắc cao vút - “cả cây hoa cải âm đằng kia và cây bọ chó đang mọc trong kẽ tường này nữa. Em yêu hoa Gatecrashers,” tôi nói thêm. “Em thích cái cách mà chúng tự sinh, cách chúng lạc vào và làm sống động khu vườn mà không cần phải ai mời.”
“Thế còn những cây hoa Vương miện kia?”
Tôi chăm chú nhìn cây Bối mẫu lớn màu đỏ tươi với những chùm lá có viền xung quanh gắn với những cái cuống mập mạp ở dưới. “Đó là những cây Nữ hoàng Điệu Đà. Anh không thể ngó lơ chúng. Chúng sống tự do và hướng ngoại, giống như...”
“Giống hoa loa kèn đuốc?” anh ướm thử.
“Chính xác. Hoặc là Ôrô hay Bách tử liên - hay là những cây Đại hoàng Nam Mỹ lá to ở đằng kia. Chúng thực sự là những cục nam châm thu hút sự chú ý.”
“Những cây trông giống đại hoàng khổng lồ kia à?”
“Vâng. Tán lá của chúng to đến nỗi một đứa trẻ lên mười có thể trốn ở dưới.”
Điện thoại của tôi rung nhẹ với một tin nhắn đến khi chúng tôi quay về khách sạn ăn sáng. Chị gọi cho tôi khi nào có thể nhé, Jx. Vì nó có vẻ không khẩn cấp lắm, vì tôi và Jamie thường gọi điện hay nhắn tin cho nhau hai mươi lần một ngày, tôi quyết định sẽ gọi lại lúc về nhà. Có lẽ cậu ta muốn nhắc tôi về khu vườn kiểu Ý ở Hampstead - cậu ta nói sẽ kiếm một ít đá lát cẩm thạch cũ.
Sau bữa sáng, Patrick và tôi ngồi trong thư viện đọc báo. Anh đọc Sunday Times trong khi tôi liếc qua tờ Observer - tôi thích phần nói về vườn tược của nó. Rồi tôi cầm tờ Sunday News vì tò mò muốn xem tuần này Citronella viết nhăng viết cuội gì. Hôm nay chị ta giảng giải về mối quan hệ giữa anh chị em.
Tôi rất may mắn vì Siena, đứa con gái mười hai tuổi của tôi, rất yêu quý em trai Erasmus của nó. Lý do chính là ngay từ đầu tôi và chồng tôi đã làm một việc đúng đắn là chuẩn bị tinh thần cho nó trước khi em trai ra đời. Nhiều bậc cha mẹ không làm điều này với những đứa con lớn trong gia đình ở một giai đoạn đủ sớm mà đơn giản là bắt chúng thừa nhận khi chuyện đã rồi. Còn chúng tôi bảo với Siena về đứa em sắp sinh ngay khi chúng tôi biết. Chúng tôi cho nó theo cùng mỗi khi đi khám thai, đưa cho nó một tấm ảnh lồng khung phóng to của thai nhi khi đang ở trong bào thai vào tuần thứ mười ba và tuần thứ hai mươi để nó treo trong phòng mình. Chúng tôi liên tục nói chuyện với nó về đứa bé và bảo nó rằng đứa bé sẽ rất đặc biệt và thông minh, rằng nó sẽ là một người chị may mắn. Chúng tôi nghĩ ra một câu chuyện thú vị về đứa bé và kể cho nó nghe mỗi đêm. Chúng tôi mang nó theo khi đi mua đồ sơ sinh và đồ chơi cho thằng bé. Thậm chí chúng tôi còn cho nó xem phim quay cảnh lúc Erasmus được sinh ra...
“Eo ơi!” Tôi thốt lên. “Kinh quá!”
Patrick giật mình ngẩng lên. “Gì vậy?”
“À, chỉ là bà chị Citronella Pratt ấy mà, bà ấy viết cho tờ Sunday News.”
“Bà ấy sống ở Brook Green phải không?”
“Không may là thế. Cậu con trai của chị ấy học chung nhà trẻ cùng Milly.” Tôi kể cho Patrick nghe chị ta đã viết những gì. Anh tỏ ra kinh ngạc vô cùng. “Điều em không thể hiểu là sao bà ta lại được phụ trách cột này - tất cả những gì bà ta làm là viết về cuộc sống riêng của mình bằng một lối khoe khoang và ngớ ngẩn khó tin.”
“Anh cho là em sẽ biết lý do bởi vì em trai của bà ấy, Neil, là giám đốc điều hành của tờ Sunday News,” Patrick trả lời và quay trở lại đọc báo. “Trợ lý của anh đã từng làm việc với anh ta một lần.”
“Em hiểu rồi.” Tôi gấp tờ báo lại. “Chà, chỉ có lý do đấy thôi - bởi vì bà ta chẳng làm được trò trống gì.”
Chúng tôi đi bơi một lần nữa trước khi lên phòng thu dọn hành lý. Patrick xong trước và đã đi xuống quầy lễ tân thanh toán hóa đơn nên sau khi sắp xếp hết đồ của mình, tôi ngồi xuống cái ghế cạnh cửa sổ và nhìn ra ngoài một vài phút. Ở bên dưới, nhiều người đang đến và đi. Tôi nghe tiếng bánh của một chiếc xe hạng sang nghiến lạo xạo trên những viên sỏi khi nó chạy xa dần, trần xe lóa lên trong ánh nắng giữa trưa, rồi tôi lại thấy một chiếc taxi màu đen đỗ lại. Cánh cửa mở ngược lên như cánh của một con bọ rồi một người đàn bà mảnh mai và quyến rũ bước ra. Từ chỗ ngồi tôi chỉ nhìn thấy chóp mũ trên đầu của cô ta nhưng rồi cô ta ngước nhìn lên phía trước tòa nhà. Tôi giật mình đứng thẳng lên.
Thea à? Tại sao cô ta ở đây? Tôi quan sát cô ta qua cửa sổ khi cô ta trả tiền taxi. Có thể Thea có một sự kiện của khách hàng ở đây, hay là đến đây cùng Jamie. Tôi đảo mắt qua bãi đỗ xe để tìm chiếc bán tải của cậu ta nhưng chỉ thấy toàn xe Mercedes, Ferraris hay Roll Royce. Khi tôi định đi xuống và chào cô ta thì tôi thấy một người đàn ông trạc bốn mươi, điển trai với mái tóc đen đi ra từ khách sạn, hôn lên môi cô ta và cả hai đi vào, tay trong tay.
“Em không sao chứ, Anna, Anna?” Tôi quay lại. “Em ổn chứ?” Patrick đứng giữa cửa và hỏi. “Chúng ta phải đi thôi, không thì muộn mất. Ba em chẳng bảo ông muốn chúng ta quay về lúc hai giờ ư?”
“Ơ... đúng vậy,” tôi lí nhí. “Ông bảo em thế.”
“Vậy em có việc gì à?”
“Ừm...vâng - em có.”
Sau đó từ sau lưng Patrick tôi thấy Thea và người đàn ông lạ đi dọc đầu cầu thang, đầu nghiêng vào nhau và tay của anh ta quàng qua eo Thea.
“Mình vẫn ở phòng cũ chứ?” Tôi nghe thấy tiếng cô ta hỏi. Và rồi người kia nói gì đó khiến Thea cười khúc khích.
“Em ổn chứ, Anna?” Patrick hỏi lại. “Em đang... nhìn chằm chằm vào anh đấy.”
“Thật à? Ồ, xin lỗi...em đang...mơ...ơ... Nhưng mà vâng, em sẵn sàng lên đường rồi.” Patrick bước vào trong phòng và xách cái túi của tôi. Đột nhiên chuông điện thoại của tôi réo vang. Khi nhìn thấy số gọi đến, tôi choáng váng. Giờ thì tôi biết tại sao Jamie lại nhắn tin cho tôi vào một buổi sáng Chủ nhật - cậu ta vừa phát hiện ra điều gì đó và đang bấn loạn. Tôi ấn nút trả lời và chuẩn bị tinh thần để giải thích với cậu ta.
“Anh chờ em ở dưới nhé,” Patrick nói với giọng lịch thiệp. Tôi vẫy tay chào anh.
“Anna?” Tiếng Jamie.
“Jamie!” Tôi đáp với giọng tươi vui nhất có thể. “Ờ... anh khỏe chứ?” Tôi cố tỏ ra điềm đạm.
“Tôi khỏe. Chưa bao giờ khỏe hơn.”
“Thật chứ?”
“Vâng. Tôi cảm thấy... rất ổn, thực ra thì - tuyệt cú mèo.”
Phải mất một vài giây tôi mới nhận ra Jamie không đùa chút nào. “Nhưng tôi muốn nói với chị một điều,” cậu ta nói, “bởi vì hôm trước chị đã cho tôi một lời khuyên rất bổ ích...”
“Tôi à?” Tôi mơ hồ.
“Về Thea ấy. Tôi cảm thấy thật là ngu ngốc, thật đấy - nhưng chị biết cái danh thiếp mà tôi tìm thấy chứ?”
“Rồi sao?”
“Cái mà làm tôi lo lắng ấy?”
“Vâng?”
“Cái gã tên là Percy du Plessis nữa?”
“Vâng?”
“Chà, tôi đã hiểu hoàn toàn sai về chuyện đó.”
“Không...”
“Vâng. Hoàn toàn sai. Chị vẫn ổn đấy chứ, Anna?”
“Gì cơ? Xin lỗi anh, Jamie. Tôi chỉ... hơi mệt.”
“Thế à. Tôi đã làm như chị gợi ý và nói chuyện với Thea về việc đó - Mãi tới đêm hôm qua tôi mới có cơ hội. Thậm chí tôi còn bảo cô ấy là tôi nghĩ cô ấy đang ngoại tình...”
“Rồi cô ấy nói gì?”
“Chẳng nói gì cả. Cô ấy chỉ tỏ ra đau khổ. Sau đó tôi đưa cái danh thiếp ra - và cô ấy bật khóc.”
“Thế à?”
“Cô ấy khóc suốt. Sau đó Thea giải thích rằng “Percy” không phải là một người đàn ông -”
“Phải mà,” tôi cắt ngang. “Tôi muốn nói là...”
“Không, nó là từ viết tắt của “Persephone”, nhưng cô ta thường được biết đến với cái tên “Percy”. Cô ấy và Thea rất thân thiết nhau và những dòng chữ kia chỉ là trò đùa giữa họ với nhau thôi.”
“Anh chắc chắn chứ?”
Một chút im lặng. “Tất nhiên là tôi chắc,” Jamie đáp. “Thea không bao giờ nói dối tôi, Anna ạ.”
“Không, tất nhiên rồi. Chà, thế thì... tuyệt quá rồi anh Jamie.”
“Giọng chị có vẻ ngạc nhiên.”
“Vâng - ý tôi là - chà, tôi không thực sự ngạc nhiên, nhưng anh có vẻ tự tin vậy... linh cảm xấu của anh... thật là tuyệt vời nếu biết rằng linh cảm xấu của anh là... sai.”
“Đúng như vậy, ơn Chúa. Tôi thấy thật nhẹ nhõm. Tôi bị quẫn trí và tôi xin lỗi đã phát cáu với chị. Nhưng thật thoải mái khi biết tôi lo lắng vì những thứ không đâu. Rồi Thea nhận ra việc tôi đã hiểu nhầm và cô ấy cũng rất sung sướng.”
“Ừ,” tôi nói bâng quơ, đầu óc vẫn chạy đâu đâu.
“Tôi hơi hoang tưởng vì cô ấy đi xa quá nhiều - Tôi không thể nhịn được. Dù sao thì hôm nay cô ấy lại đi Mũi Hảo vọng. Tôi vừa đưa cô ấy ra sân bay.”
“Anh đưa cô ấy ra sân bay?”
“Vâng. Tại sao chị cứ lặp lại những gì tôi vừa nói thế?”
“Sân bay nào?”
“Heathrow. Anna, chị biết không, chị có vẻ đang căng thẳng. Có lẽ chị nên đi đâu đó đổi gió một hai ngày.”
“Vâng... có lẽ thế... Xin lỗi anh, như tôi nói lúc nãy, tôi hơn... mệt.”
“Thôi, tôi phải đi chơi crikê đây, tôi muốn cám ơn chị vì lời khuyên. Nó đến thật đúng lúc.”
“Tôi mừng vì nó giúp được anh,” tôi khổ sở nói.
“Vậy gặp lại chị ngày mai nhé.”
“Tạm biệt.”
Tôi ngồi thừ trên chiếc giường chưa dọn, nhìn chằm chằm vào không trung, rồi gọi xuống quầy lễ tân. “Tôi đang muốn liên lạc với một người bạn đang ở đây,” tôi nói. “Cô có thể cho biết số máy lẻ của anh ấy được không?”
“Tên là gì, thưa bà?”
“Percy du Plessis.”
“Bà có thể đánh vần được không ạ? Tôi xin lỗi, thưa bà,” cô ta nói một lúc sau, “nhưng không ai có tên đó hiện đang ở trong khách sạn. Tôi có thể giúp bà điều gì khác không?”