Xuân Yến

Chương 2: Chương 2: Kỳ Chiếu Thư Tín Và Sáng Tác




8 giờ rưỡi sáng, tôi bắt tàu hỏa từ ga Thượng Hải đi Kỳ Chiếu.

Tàu không đông khách. Lúc thì ngủ, lúc thì uống nước và ngắm cảnh, lúc lại suy nghĩ vài chuyện viển vông. Sau chín tiếng đồng hồ, tôi tới Kỳ Chiếu mùa thu, đúng lúc hoàng hôn buông trùm phương Bắc. Xuống tàu, lên khỏi đường hầm. Ở cửa ra, hai cánh cổng gỗ mở rộng trông lên một góc trời xám bạc. Sắc chiều dâng bốn bề. Tắc xi và xích lô vãn khách đậu trơ trọi trên sân ga mênh mông. Những tòa nhà cũ bị nước mưa ngấm rửa thành xám ngoét, trên biển quảng cáo sừng sững bên đường là những từ ngữ mang hơi hướm lạc lõng của ba mươi năm về trước. Tôi phấn chấn trong lòng, biết rằng mình đã đến đúng chỗ.

Kéo va li băng qua sân ga, bước lên một chiếc tắc xi.

Lái xe là một người đàn ông trung niên lặng lẽ. Người gốc Kỳ Chiếu thường có khuôn mặt dài, mắt hẹp nhọn, trông rất xưa cũ. Ít người có khuôn mặt tròn hay vuông. Trải qua bao lần nổi chìm biến động, họ phải hứng chịu nhiều hình dung và đánh giá sai lệch. Dân Kỳ Chiếu lắm kẻ lừa đảo và tội phạm xảo trá, khét tiếng tồi tệ, bị các tỉnh khác tẩy chai. Nhưng đồng thời lại giữ gìn được phong thái và khí thế cổ kính: chân thực, chất phác, phong tục chứa đựng nhiều nét vẻ tao nhã. Người ngoài sẽ không thấm được điều này trừ phi tự mình trải nghiệm. Bằng không, trước sau gì những lời đồn thổi lây lan cũng làm họ hiểu lầm mà thôi.

Chiếc tắc xi luồn lách qua những ngõ phố. Khu đô thị mới mở mang trên ruộng đồng ngoại ô, những tòa nhà mới vươn lên sừng sững, đa phần là cơ quan nhà nước và trụ sở của các cấp chính quyền. Khu thành cũ xập xệ bệ rạc, đông đúc dân cư, đậm mùi chợ búa. Các ban công nhồi nhét đồ dùng sinh hoạt, phơi phóng đủ loại áo quần, dồn đống cây cối tàn héo. Đường sá lầy lội, người già đặt trẻ con trên những chiếc xe nôi bằng mây tre, bước trong đám đất cát bắn tung khi ô tô phóng vọt qua. Phụ nữ mặc áo ngủ xách túi ni lông đựng thực phẩm về nhà, tóc tai chưa chải, mặt mũi bí xị. Đàn ông thiu thiu gà gật cạnh những rãnh nước bẩn và trong những tiệm sữa chửa bên lề đường.

Tôi đặt chỗ ở Thanh Phong Lâu, một quán trọ lâu đời. Quán trọ rẻ tiền, sa sút, chui rúc ở một góc cổ thành, những gì còn lại chỉ là tiếng tăm xưa cũ. Nằm trong ngõ hẹp, kết cấu bê tông xám trắng, thuộc loại công trình xây dựng với tâm lí tạm bợ, được tới đâu hay tới đó. Lễ tân là một người phụ nữ đứng tuổi phục phịch và chậm chạp, vừa đập dưa vừa xem vô tuyến, vẻ mặt trơ trơ. Hành lang trải thảm dệt bằng sợi hoá học, màu đỏ rực đến chói cả mắt. Có lẽ chưa được giặt giũ bao giờ.

Nghe nói người Kỳ Chiếu rất cố chấp, bất kể thành phố này bị chiến tranh hay lũ lụt tàn phá bao nhiêu lần, thì bấy nhiêu lần họ vẫn xây dựng lại các kiến trúc ở đúng vị trí cũ như hình ảnh còn lưu trong ký ức. Bởi thế Thanh Phong Lâu tuy mất đi vẻ cổ kính tàn tạ, không khôi phục được nét phong tình năm nào, nhưng vị trí thì có lẽ không xe dịch mảy may.Tôi chọn ở đây chẳng qua chỉ vì một nỗi hoài niệm thơ ngây. Cho rằng tưởng tượng của mình về thành phố này sẽ thành hình nhờ một không gian được tái tạo chính xác đến từng mi li mét.

Xoay chìa khóa mở cửa. Phòng hai mươi mét vuông, giường đơn, bàn viết, một cái ghế.Trên mặt tường tróc sơn treo một tấm ảnh trắng đen. Vẻ cũ của Kỳ Chiếu ngày xưa: những ngôi nhà thấp lè tè, con đường nhỏ chen chúc la ngựa, khuôn mặt xơ cứng của người qua kẻ lại hoặc gồng gánh hoặc đi thong dong. Trong nhà vệ sinh, bồn cầu bẩn ngoa nguếch. Bồn tắm và khăn tắm còn dính những vết ố sẫm màu, là dấu máu hay bã nôn, cũng không rõ nữa. Bên trên bồn rửa mặt, gương treo đã sứt góc, tôi giơ tay lau lớp bụi mỏng bám trên mặt gương, mở cửa sổ trông xuống dòng Quế Hà tuôn chảy. Sông lớn êm ả lặng lờ dưới hoàng hôn, lấp lóa gợn sóng, ánh sắc xám xanh đục ngầu.

Gác hoa lầu chạm thuở xưa của Thanh Phong Lâu đều mời thợ khéo đến chế tác. Cửa vào dựng giá khổng lồ kết đầy hoa cỏ đúng mùa. Trên hành lang treo lồng đèn bằng sa phủ đầy kì hoa dị thảo. Trà và rượu được chọn lựa tinh tế khiến người ta lưu luyến quên về. Ca kĩ trẻ măng mỹ miều, hát hay đàn giỏi. Lữ khách trên đường bôn ba, muốn khuây khỏa tấc lòng cũng chỉ cần đến thế mà thôi. Đời người ngắn ngủi, niềm vui khó tìm. Hát vui múa dẻo, cầm chân một đêm. Lữ quán này từng là nơi hộ tụ của mọi ham muốn và cuồng nhiệt mà người đời có thể tìm thấy trên nhân thế.

Bây giờ. Vinh hoa và phong tình thuở nào đã tiêu tan tàn lụi, một đi chẳng trở về.

Nó biến thành nơi che đậy những nhuốc nhơ tăm tối.

2

Mỗi đêm. Vào lúc canh khuya, dọc lối đi vang lên tiếng giày cao gót lẫn tiếng chân khua lộn xộn, các cô gái trẻ lượn như cá bơi trong đêm tối. Phòng ốc phong bế đã lâu trong im lặng bỗng bật lên huyên náo, tranh chấp, ẩu đả, giao cấu, những va chạm thô bạo, những tràng cười khúc khích, tiếng gào thét cuồng loạn, tiếng lải nhải của đàn ông trong cơn say, tiếng thút thít không hiểu vì đâu, tiếng gầm, tiếng gọi... cứ thế mà ồn ào quấn quyện hết lên. Như cánh rừng u tịch vắng bóng muông thú chỉ san sát những cây, như sa mạc vi vút mênh mông tiếng gió. Màn đêm thắp dậy muôn đốm lửa bập bùng, dùng hơi nóng để khuấy động, để phá vỡ bầu không khí nản lòng uể oải lúc ban ngày.

Dù ngoài hành lang có người ráo riết kêu cứu hay có tiếng đàn bà rú lên thảm thiết thì cũng chẳng một ai ra xem xét hay tìm cách ngăn cản bao giờ. Tôi lèn sẵn một con dao gọt hoa quả dưới gối. Nếu nửa đêm có người gõ cửa, tôi sẽ nín thở, không để phát ra bất kỳ một âm thanh nào.

Trong hoàn cảnh như thế, vào lúc 11 giờ 43 phút của một đêm kia, tôi vẫn giữ thói quen ngồi trước máy tính, gõ thật mạch lạc đoạn văn đầu tiên.

Cảm thấy mình đang già đi, cô thử tìm tòi điểm khác biệt cơ bản so với ngày trước thì phát hiện ra rằng cách nhìn nhận sự thật đã ít nhiều thay đổi. Như thế mắt bỗng được rửa sáng, có người đúc rút như thế khi qua bên kia tuổi ba mươi. Nhờ rửa sáng, họ thấy tràn lan khắp nơi toàn ảo ảnh và vọng tưởng, thấy sự vật đều đang nằm trong quá trình từ từ phân hủy. Phân hủy đến mức độ nào đó thì tan tành rệu tã, một cội nguồn nguyên vẹn thuần túy lại xuất hiện. Đây là vòng tuần hoàn khép kín đầu cuối rất dài, dài đến đâu và tần suất thế nào con người chưa tính toán được.

Nó thuộc về bí mật thời gian.

3

Sáng tác và cá thể có mối quan hệ nguy hiểm, không thể tách rời.

Nhân viên văn phòng trong tòa nhà sáng trưng ánh đèn, hễ tan làm là có thể quay ngay về cuộc sống bình thường, không còn liên quan gì đến công việc nữa. Nhưng người sáng tác, ngay cả khi không viết được chữ nào thì cuộc sống vẫn xoay quanh sáng tác. Cho dù không ngồi ở bàn không bật máy tính mà vẩn vơ lang thang ngoài đường ngoài ngõ, bận bịu những việc vặt linh tinh thì thân thể, trái tim, trí óc của một người viết vẫn quấn quýt, kết nối, va chạm với ngọn lửa sáng tác rần rật trong lòng.

Đây là kiểu người luôn ở tâm thế làm việc mặc dù trạng thái thì không hề làm việc gì cả.

Tính chất của sáng tá khiến người theo nghiệp viết phải đứng ngoài cơ chế kết cấu hóa của xã hội. Họ làm việc một mình. Trong cô độc. Có một thiền sư Nhật Bản đã ví nỗi cô đơn với cơn rùng mình không tránh khỏi của người quen tắm nước lạnh ban sáng, khi mở van và bị làn nước đầu tiên tia xuống da thịt. Kiểu tồn tại như thế đấy. Dè dặt ngẩng mặt đón nhận, không thể trốn chạy, không thể tảng lờ, cũng không thể né tránh.

Trong lúc bị nỗi cô độc đằng đằng xô đẩy đồng thời lại phải âm thầm nương tựa vào nó, tôi dần dà trông thấy những thay đổi trên gương mặt mình. Từ ánh mắt, khóe miệng, thần thái, cử chỉ, cho đến đường nét và khuôn dạng, có một thứ biểu cảm xuất hiện đều đặn chậm rãi, cuối cùng trở nên rõ nét và chính xác, đó là u uất. Lạc lõng. Chống đối. Lùi bước.

Có hồi suốt ba năm, tôi không tài nào viết được. Không gõ nổi một dòng hoàn chỉnh trên máy tính. Rời xa người đời, và đã mấy lần suýt rơi vào cảnh bị người đời quên lãng.

Khi tôi bắt đầu xét lại việc sáng tác, thì thực chất đó là một dạng xét lại bản thân. Tôi cảm thấy mình già rồi, thích những thứ cũ kỹ đang mai một, thích sự đoan trang và đơn thuần xa xưa, không chấp nhận sửa đổi theo mốt, khoa học kĩ thuật, mấy trò giải trí phàm tục, giá trị quan thay đổi xoành xoạch, xu hướng, tiếng lóng... tóm lại là các đối tượng đang được cuồng nhiệt được xoắn xuýt được theo đuổi. Cũng không nghiêng mình trước quyền lực, thần tượng, đám đông hay hội nhóm. Bao nhiêu thứ ngồn ngộn xung quanh khiến người ta tưởng đâu có sự đổi mới phong phú về tinh thần, nào ngờ lớp hình thức chỉ để bao gói nghèo nàn và rỗng tuếch.

Phải thừa nhận một điều rằng mối quan tâm của tôi tương đối hạn hẹp so với một người cầm bút. Đi tắc xi, nếu gặp lúc radio phát bản tin, tôi nhất định sẽ bảo tắt đi. Tôi thờ ơ với tất cả những thứ cách tân tiên phong. Theo đòi hỏi của lối sống hơi khép kín, tôi lọc bỏ mọi tin tức khái niệm quan điểm kiến giải thừa thãi và và toàn bộ các cách thức quy tắc thông thường dưới đủ mọi diện mạo. Vật chất dư dật đến đâu, khoa học kĩ thuật phát triên đến nhường nào vẫn không thể khiến chúng ta cảm nhận được nền tảng thực cho sự tồn tại của mình. Loài người luôn thử trốn chạy một cách mù quáng và ấu trĩ, nhưng ở bất kỳ chỗ nào trên địa cầu, dù là đô thành hiện đại hay góc bể chân trời, một khi coi trọng sống còn thì vấn đề cần phải quan tâm nhất không gì khác hơn chính là phát hiện và đối mặt với bản chất tạo nên mình.

Đồ sộ vô dụng giả tạo phồn vinh trống rỗng tan tành, thảy chỉ là bề ngoài và hình thức chứ không phải nền tảng và phương hướng. Dùng để lấp đầy những kẽ hở thời gian thì được, nhưng không chỉ dẫn được cho tâm hồn. Vì thiếu đi cảm giác an toàn, các cá thể có xu hướng ẩn mình rồi tự tan biến giữa đám đông và trào lưu, suy đến cùng là do yếu ớt về ý chí và tính độc lập.

Tuy đang sống trong một thời đại thoạt nhìn trông rất huyên náo và sôi nổi, lại là một nhà văn chuyên nghiệp, nhưng có một khoảng thời gian tôi hoàn toàn không xác định được phương hướng. Không biết nên viết thế nào, viết cái gì, và vì sao mà viết. Ba câu hỏi đủ để khiến một nhà văn bối rối lạc lối thấy bế tắc về công việc, chẳng có gì làm. Điều này chứng minh cho một chân lý sơ đẳng: Con người, thật ra chỉ bị đánh bại bởi chính bản thân con người mà thôi.

4

Tôi cứ luẩn quẩn mãi trong nỗi thất vọng và lạ lẫm đối với thời đại mình đang sống. Dạo ấy tôi không làm nổi một việc gì, chỉ còn cách đọc sách và đi bộ.

Vùi đầu vào đống cổ thư, gặp gỡ chữ nghĩa để lại của những người đã khuất. Phong tục, tập quán, thủ công, kiến trúc, hí khúc, thi từ, lịch sử, truyền kì, y dược, thức ăn, hàng dệt, quy hoạch phố xá... Bới đống sách cũ phồn thể viết dọc vẫn bị giấu kín ra, cảm giác như được đãi ngộ khi tiến vào giữa những con chữ thâm trầm cẩn trọng mà đầy ắp sức tưởng tượng ấy. Trong đó chứa đựng cảm giác về từng khoảnh khắc, tao nhã mà chắc chắn, tuyệt diệu khôn cùng. Nhờ một cuốn sách ngả vàng nơi đầu giường ban đêm, nhờ những sự vật xa xưa cũ kĩ, niềm vui thú cứ kéo dài mãi, tưởng đâu có thể tách biệt hẳn với loài người giống như con thuyền vượt sóng tìm được không gian bằng cách băng từ bờ này sang bờ bên kia.

Tôi ngờ rằng bản thân mình đã sống trong những thời đại đó đã rất lâu, luân hồi rất nhiều lần. Thông tin về chúng rơi rớt trong tiềm thức tôi, là mỏ khoáng sản bị vùi sâu không ai hay biết. Còn tấm thân tôi đang kí sinh này chỉ như một cái bình rỗng bập bềnh giữa biển khơi, không biết về đâu, không dùng làm gì cả. Tôi như người tha hương giữa thời hiện đại, không có cội rễ, không thấy quê mẹ, nhưng lại khao khát một chốn về đẹp đẽ chân thực, cho dù nơi ấy sứt mẻ, tổn thương.

Ví như một tòa thành bỏ hoang.

Tôi hí hoáy lục tìm trong đống giấy tờ cũ.

Cuối cùng, nhét một tấm bản đồ vào hành trang.

Kỳ Chiếu.

Nhìn trên bản đồ, đây là một thành thị hình quả trám tọa lạc ở đồng bằng, thành thị phồn vinh trang nghiêm nhất trên trái đất vào một ngàn năm trước. Dân cư sinh sống ở đó có gu thẩm mỹ cao, thanh nhã và thuần khiết, có tay nghề thủ công tinh xảo điêu luyện, có hệ thống thương mại năng động, biết hưởng thụ một cách xa xỉ rộng rãi những của cải vật chất sung túc mà họ làm ra. Ngay cả các du khách từ Tây bán cầu xa xôi đến Kỳ Chiếu cũng phải cảm thán vì choáng ngợp, ngắm nghía không biết chán.

Thành thị phương Đông này sóng sánh không khí yên ổn thịnh vượng của đời sống trần thế, là địa đàng nhân gian, là mê cung của cái đẹp. Đồng thời, nó giống một quả cây vào thời điểm căng mọng nhất ngay trước giai đoạn rữa nát, ngào ngạt tỏa hương, khuếch tán đến từng ngóc ngách, bởi biết thời gian càng hư hao, mình càng lắt lay chực rụng, được sáng chưa chắc thấy chiều.

Cuối cùng, thành cổ tồn tại ở hình thức tủ vong; đường phố ngừng cải tạo, ì ạch bất động, tồn tại ở hình thức tụt hậu. Khác với những thành cổ được nâng niu bảo vệ gìn giữ, Kỳ Chiếu là một thành thị bị hủy hoại, không thể tái sinh,chỉ còn là một địa điểm mà thôi. Nó bị chiến tranh quét sạch, bị lũ lụt sông hồ nhận chìm hết lần này đến lần khác. Nước rút đi rồi, bùn đất bưng bít cả thành phố. Các công trình mới mọc lên trên da thịt cũ. Giống một cái chai, thay vô vàn loại rượu, chất lỏng chảy cạn, mùi vị bay hết, nhưng cái chai vẫn còn.

Một thành trì bỏ hoang. Một thành trì trống rỗng. Những cuộc đời nó từng chuyên chở bị đẩy vào đáy sâu năm tháng, đẩy vào hư không vĩnh hằng. Một tòa thành, một thời đại, một đám đông, gặp nhau nhờ duyên phận, nhưng số mệnh định sẵn là sẽ tan tành vào một thời điểm nào đó. Đây chính là tương lai chung của tất cả.

Vẻ mĩ miều của nó giống như hoa trên cỏ. Cỏ rồi sẽ héo, hoa rồi sẽ tàn.

5

Đi Kỳ Chiếu. Việc này đã được lên kế hoạch từ rất lâu. Muốn tìm chỗ sáng tác, chẳng đâu thích hợp hơn là một đô thành đổ nát. Sáng tác có thuộc tính tương tự một thành trì rệu rã, đó là quá khứ với những chân tướng bị thời gian vùi lấp, là hiện tại giãy giụa, ngơ ngác và giậm chân tại chỗ, là tương lai cuồn cuộn lớp lớp sóng bạc không chốn quay về.

Tôi chưa bao giờ bắt gặp ở Châu Âu hay nơi nào khác một thành cổ mang vẻ đẹp bi thảm như vậy. Những công trình có tuổi đời năm sáu trăm năm của họ vẫn kiên cố tráng lệ, thời gian chỉ đào thải được con người chứ không đào thải được nền văn minh mà con người sáng tạo ra. Đó là một dạng hài hòa yên ả về tinh thần. Kỳ Chiếu thì ngược lại, liên tục rơi vào cảnh phá hủy và tái kiến thiết, sống với nhịp điệu nóng nảy thô bạo. Có lẽ người vùng này mang đặc tính của dân du mục, chỉ muốn gắn vận mệnh mình theo tấm thân lang bạt. Chưa bao giờ ở yên một chỗ, cũng không tuân phục nhựng trật tự vượt trên thế gian.

Tôi từng cảm thấy Venice là một thành phố đổ nát mà đẹp đẽ, từng sinh lòng ngưỡng mộ nó. Năm nào thành phố cũng xiêu dần, sụt dần, dịch chuyển dần ra hướng biển, cuối cùng sẽ bị làn nước mặn tràn qua. Về sau tôi cảm thấy, cái đẹp đổ nát thực sự không phải là sinh mệnh thoi thóp chờ hủy diệt, mà là xác tàn đã phai nhòa diện mạo nhưng dáng hình còn nguyên vẹn sau vô vàn lần bị quét sạch, lại vô vàn lần được tái thiết và trùng tu.

Đó là một vẻ đẹp tổn thương.

Không còn nghi ngờ gì nữa.

Đó là Kỳ Chiếu.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.