CHƯƠNG 16
SAU MỘT CHỐC LÁT NGẮN NGỦI, Amy ngồi xuống trong tư thế quỳ. “Ken nói đúng. Chả có gì ở đây. Mọi thứ đã quá lâu rồi.” Tụi nó đã kiểm tra kỹ lưỡng căn phòng bày biện tuềnh toàng, kiểm tra cả cái tủ nhỏ. Không có chút gì của căn phòng gợi nhớ lên rằng Bob “Troppo” đã tạo ra nó.
“Em ghét những ngõ cụt,” Dan thì thầm. “Thế mà em đã nghĩ chắc cú tụi mình sẽ gặp may cơ đấy.”
Tụi nó đứng lên với bộ dạng mệt mỏi và bước trở lại cái hành lang có kiểu dạng điên rồ. Amy quay lại nhìn lần chót và đột nhiên đứng khựng lại. Nó chỉ lên phần tường nằm phía trên cửa ra vào. “Dan, nhìn kìa.”
Ở giữa những tấm bưu ảnh cũ đến từ khắp nơi trên thế giới, giữa những bức vẽ điên rồ và những thông điệp kỳ quái được viết vẽ nguệch ngoạc là một bức vẽ trông ngớ ngẩn.
“Mẹ đã vẽ cái này,” Amy nói khẽ như gió thoảng, chỉ vào hình trái tim. “Chị biết cái hình này. Nó được vẽ bằng bút tím! Và nhìn xem, đôi mắt màu đỏ còn cái miệng cười thì màu xanh. Mẹ thường làm bánh quế hình trái tim cho tụi mình, dùng quả dâu tây đỏ làm mắt và quả việt quất xanh làm miệng.”
“Bà mẹ nào chả làm thế,” Dan đáp.
“Nhưng những bà mẹ đó có dùng ruột bí xanh tỉa xoăn để làm tóc không? Nhìn đi! Màu xanh này!”
Dan ném cho chị mình một cái nhìn đau khổ.
“Chị thích nhúng bí xanh vào xi-rô.”
“HA,” Dan nói.
“Chị biết nói thế là không tế nhị, nhưng...”
“Không, chữ HA kìa. Nó có thể viết tắt cho Hope và Arthur. Cha mẹ đã từng ở đây!” Một cơn ớn lạnh bất ngờ làm Dan rùng mình, như thể hồn ma của cha mẹ nó ở ngay dưới lòng đất cùng tụi nó.
“Em có nghĩ rằng cha mẹ biết tụi mình sẽ tới đây không?” Amy thì thào.
Dan lắc đầu. “Họ còn không bao giờ nghĩ là tụi mình sẽ tham gia vào cuộc săn tìm mấy cái manh mối. Bà Grace có biết gì về mấy thứ như bánh quế với bí xanh không?”
Amy gật đầu. “Chắc chắn là biết. Bà cũng làm bánh đó cho chị mà.”
“Thế cái này nhất định là thông báo dành cho bà Grace, vào thời điểm đó,” Dan nói. “Cha mẹ đang nói cho bà biết họ đi đâu.”
“Đi đâu?”
Dan chỉ vào từ cuối cùng. “Khu mỏ cũ.”
***
Chiều đã muộn lắm rồi, nhưng trời vẫn còn nóng tàn bạo. Hơi nóng bốc lên và nhảy múa. Dan phải nheo mắt lại để nhìn tấm bản đồ mà Ken đã vẽ cho tụi nó. Họ đang đứng trên quả đồi phía dưới nhà Ken. Hoặc, Dan thầm sửa lại trong óc, đang đứng trên nóc nhà Ken.
“Có một bãi mìn cũ ở chỗ đó, thấy không,” Ken đã chỉ tụi nó, “nên hãy cẩn thận với mấy hầm mỏ - không phải tất cả chúng đều được đánh dấu hết đâu. Lỗ thông gió cho căn phòng của Fossie vẫn còn ở đó - mấy đứa sẽ thấy nó nằm gần vòng cung được tạo nên từ những lá cờ màu cam. Hãy tới hầm mỏ đầu tiên nằm sau những lá cờ màu cam và đi xuống đó. Sau đó, đi trở lại theo đúng đường mấy đứa đi vào. Dễ như ăn bánh, chỉ có điều cái bánh này không dễ làm, hén!”
Tụi nó để lại đồ đạc và con Saladin ở chỗ Ken, người có phòng cho thuê để ngủ đêm. Jeff phải quay lại làm việc, tới đón một xe bus lèn chặt khách du lịch. Còn lại Shep, Amy, Dan và Nellie cẩn thận tìm đường đi qua đồng mỏ. Họ nhìn thấy những lá cờ báo nguy hiểm màu cam, nổi bật lên trên nền trời màu xanh lục. “Ngay chỗ đó có một cái hầm thông gió kìa,” Shep chỉ. “Nên chúng ta sẽ vào cái hầm mỏ tiếp theo.”
“Chuyện này không chính xác là những gì chú hình dung trong đầu lúc chú đồng ý đưa mấy đứa tới đây,” Shep vừa nói thêm, vừa bước tránh một miệng hầm. “Ngắm cảnh một chút, thư giãn một chút, cái đó thì chắc rồi. Nhưng còn chuyện leo xuống một cái hầm mỏ cũ thì không phải là kiểu giải trí mà chú nghĩ.”
“Chú đâu cần phải vào đó,” Dan nói. “Chú có thể vào quán rượu chờ tụi cháu.”
“Chú sẽ không để mấy đứa vào đó một mình đâu,” Shep nói. “Hồi đó, chú đã không ở bên cạnh mấy đứa được, nhưng giờ thì chú có thể làm thế được.” Ông nhăn răng cười. “Chú ở đây để bảo vệ mấy đứa khỏi hồn ma của Amelia Earhart. Hoặc khỏi một ông hiệu trưởng không có khuôn mặt.”
“Hiệu phó thôi,” Dan đính chính.
“Tới nơi rồi,” Nellie nói. Cô dừng lại ở một miệng hầm. Một cái thang sắt dẫn thẳng xuống tận đáy, nơi mà họ không thể nhìn thấy gì.
“Được rồi, làm cho xong đi,” Shep nói. “Nếu chúng ta không trèo lên sau một tiếng nữa, Jeff sẽ tới tìm chúng ta. Trừ phi anh ta quên mất.”
Shep cẩn thận giữ thăng bằng và bắt đầu trèo xuống. Dan đi tiếp theo sau ông. Mấy ngón tay nó trượt trên bề mặt thép, nó bấu chặt hơn vào cái thang, tim đập thình thịch. Hà cớ gì mà tụi nó cứ luôn phải kết thúc vấn đề dưới lòng đất? Nào là hang động, đường tàu điện ngầm, hầm mộ... Bộ nhà Cahill là ma cà rồng hay sao chứ? Họ ghét ánh nắng mặt trời à?
Nellie nhẹ nhàng leo xuống, Amy đi đoạn hậu. Đường tới đáy mỏ dường như rất dài. Bóng tối trườn lên phủ lấy người họ, nhưng vẫn còn ít ánh sáng từ miệng hầm rọi xuống để vừa đủ nhận ra những bậc thang. Cuối cùng, Dan nghe thấy tiếng Shep vọng lên. “Chú tới đáy rồi. Chỗ này sâu khoảng 15 mét đấy, chú đoán thế.” Một tia sáng được bật lên.
Dan run run thở ra một hơi dài nhẹ nhõm kh cuối cùng chân nó cũng chạm được mặt đất. Không có chuyện nó sẽ kể cho bất kỳ ai biết cảm giác của mình. Nhưng nó bị sởn cả gai ốc vì việc phải ở quá sâu trong lòng đất, dưới đáy một cái lỗ nhỏ.
Cả đám đã mua sẵn đèn pin trong thị trấn, Dan bật đèn của nó lên. Ánh sáng rực rỡ soi rõ căn hầm. Một cây đèn lồng xách tay đóng đầy bụi nằm trong lãng quên ở một góc hầm. Bản thân những bức vách hầm trông như thể được đục đẽo bằng tay không.
“Được rồi. Nếu chúng ta đi theo đường hầm chính rồi rẽ trái, chúng ta sẽ tìm được hầm mỏ của Bob,” Shep nói.
Dan cảm giác hai lá phổi của nó bắt đầu bị thắt lại. Lớp bụi bị khuấy lên càng lúc càng nhiều hơn sau mỗi bước chân của họ, và thằng nhóc cảm thấy một cảm giác thắt nghẹt quen thuộc trong lồng ngực. “Em có sao không?” Amy thì thầm hỏi.
“Chả sao,” nó trả lời. Nó không bao giờ chịu thừa nhận mỗi khi có rắc rối với đường thở của mình.
Nellie nhét một ống hít vào tay thằng nhóc, và nó hít một cái thật nhanh. Nó tặng lại cho cô một cái nhìn đầy biết ơn. Đường hầm ngày càng trở nên hẹp lại. Họ lần từng bước đến một nơi chốn khác đã được tạo lập nên bởi một người thợ mỏ. Dan đã thầm mong rằng những bức tường sẽ lấp lánh với đủ màu sắc như của ngọc mắt mèo, nhưng thực tế chúng chỉ có một màu xám xịt hoặc trắng nhờ nhờ.
Đường hầm càng lúc càng hẹp hơn và rồi đột ngột rẽ ngoặt về bên phải. Một đống đá cuội nằm ngổn ngang trước một lỗ hổng.
“Chú nghĩ là chỗ này đây,” Shep lên tiếng. Ông ngồi xổm xuống và chăm chú xem xét đống đá cuội. Dan liếc nhìn qua vai ông. Bên trong lỗ hổng là một căn phòng nhỏ có dạng như một cái hang. Mặt sàn nhẵn và bằng phẳng. Một tấm đệm cũ bạc màu đặt trên một cái giường sắt được kê ở một góc phòng. “Chắc chắn ông ta đã sống ngay trong hầm mỏ, nó cũng giống như căn phòng ở nhà Ken,” Shep nhận xét.
Amy và Dan trèo vào phòng đầu tiên. Trong này sáng hơn một chút, nhờ có hệ thống thông gió đã đưa một thứ ánh sáng nhàn nhạt vào từ một góc phòng.
Amy cúi xuống nhặt một tờ báo. Nó chiếu đèn pin vào đó. “Tờ báo này đến từ Adelaide. Năm 1951. Đúng chỗ này rồi,” nó nói. “Ken nói rằng Anh Mót đã rời khỏi chỗ này từ đầu những năm 50. Nếu lúc tấn công Mark Twain ông ta mới là thanh niên, thì lúc ở đây chắc hẳn ông ta phải gần 90 tuổi rồi.”
Shep bước vào phòng. “Có phải cháu vừa nói là tấn côngMark Twain không hả?” Ông giơ hai tay lên. “Thôi bỏ đi. Không cần phải nói gì với chú.”
Dan quét ánh đèn pin của nó lên bức tường. “Chị Amy, coi cái này nè,” thằng nhóc kêu. “Ông ta viết lên khắp tường.” Đầu tiên thằng nhóc nghĩ đó là một kiểu trang trí, nhưng rồi nó nhận ra đó là từ “chiếc nhẫn lửa” được viết tay bằng nét chữ nhỏ và tháu.
Cụm từ đó được viết ra vô số lần. Ở một số nơi, chữ viết nhỏ xíu, mực đã phai màu. Ở một số chỗ khác, bụi đã phủ đầy lên nét chữ. Những chữ đó bao quanh căn phòng, liên tu bất tận, tựa như một kiểu mẫu giấy treo tường điên loạn bao phủ lấy từng centimet của cái hang. Dan và Amy chiếu đèn ra xung quanh.
“Em nghĩ phải mất bao lâu để làm chuyện này?” Amy hỏi bằng một giọng nén lại.
“Phải hàng năm trời,” Shep vừa đáp lại vừa nhìn quanh. “Phải khá là điên mới làm được trò này,” ông nói tiếp với một tiếng huýt sáo nho nhỏ.
“Chiếc nhẫn lửa,” Dan đọc. “Từ đó có nghĩa gì nhỉ?”
“Hay là một chiếc nhẫn ngọc mắt mèo?” Amy hỏi. “Chúng thường phát ra những tia sáng màu đỏ và vàng.”
Shep đi tới bức tường phía xa và gõ gõ vào đó. “Bức tường này không chắc lắm. Chắc hẳn là nó giống với loại tường ở nhà Ken.” Ông bước lại gần hơn và bất ngờ đá phải một thùng đồ nghề cũ đã đóng đầy bụi. Ông gõ gõ đốt ngón tay vào bức tường. “Đúng rồi, bức tường này chỉ là đá xếp lại với nhau. Buồn cười là...”
“Chị Amy!” Dan la toáng lên. “Em tìm thấy thứ gì này. Một ngày! Được khắc vào trong đá.”
“Và có một chữ M nằm kế bên kìa!” Amy kêu lên.
“Có lẽ nó chỉ ra rằng Amelia Earhart là một người nhà Madrigal,” Dan tuyên bố. “Ông ta biết bà ấy đang tìm mình. Đó chính là năm nhà Madrigal xuất hiện.”
“Tụi mình đâu biết chắc được bà ấy có phải là người nhà Madrigal hay không,” Amy phản đối. Nó không thể chấp nhận được việc người hùng thời thơ ấu của nó lại như thế. “Có thể bà ấy ở đây để cố gắng bảo vệ ông ta khỏi nhà Madrigal cũng nên.”
“Cha mẹ chắc chắn đã tìm thấy chỗ này,” Dan nói. “Nhưng họ vào bằng cách nào nhỉ? Rồi ra bằng cách nào?”
“Có lẽ cha và mẹ đã thuê căn phòng đó, rồi trong đêm họ đập bức tường ra,” Amy nói. “Sau đó họ sửa nó lại.”
“Họ có thể chỉ để lại một ít đinh và một cái búa ở ngoài, rồi đút thùng đồ nghề qua lỗ hổng. Cái thùng đồ nghề này nhìn không tới nỗi quá cũ đâu,” Shep phát biểu.
“Có vẻ như ông ta sẽ không thể nghe được tiếng họ làm gì,” Dan nói. “Ken lãng tai cũng lâu rồi mà.”
“Cha là một thợ mộc khá ngon lành. Mẹ cũng thế,” Amy nói. “Họ đã sửa chữa tân trang hàng đống thứ trong căn nhà cũ của tụi mình.”
“Nè, có khi tụi mình thuộc về nhà Ekat không biết chừng!” Dan thì thào.
Thằng nhóc tiến tới chỗ lỗ thông gió và chăm chú quan sát bức tường. “Ở đây có một bức vẽ và thứ gì đó kiểu như lời trích dẫn nữa nè.”
Nằm lẫn giữa những dòng chữ lặp đi lặp lại, tụi nó thấy được:
“Nghe buồn quá,” Amy nói.
“Em thì thấy giống như một triết lý sống của nhà Cahill,” Dan thì thào. “Cứ thoải mái nói láo suốt cũng chả sao.”
“Nhìn hình vẽ mà xem. Nó giống như cái ốc quế đựng kem bị lật úp xuống. Và có những mũi tên.”
“Em thì thích nghĩ đó là những hạt mưa hơn,” Dan nói.
“Chị nghĩ đây là bức vẽ về chính căn phòng này,” Amy nói. “Chị đoán rằng cái nón ở đây chính là vị trí của cái cửa ra vào.”
“Em hy vọng ông ta không bỏ công việc chính ban ngày của mình,” Dan nói. “Vì ông ta không phải là một họa sĩ tài hoa cho lắm.”
“Thẳng thắn và trung thực thì không an toàn,” Amy đọc lên. “Chị tự hỏi sao ông ta lại viết câu đó.”
“Ông ta không viết ra câu đó,” Nellie lên tiếng. “Mà Shakespeare[1] đã viết câu đó. Trong vở Othello. Chị đã đóng vai Desdemona trong năm cuối ở đại học. Tụi chị sắp đặt bối cảnh của vở kịch trong thì tương lai và tất cả đều mặc quần áo tráng nhôm. Vui muốn chết luôn.”
[1] William Shakespear (1564-1616), kịch tác gia nổi tiếng người Anh, tác giả các vở Hamlet, Romeo và Juliet...
“Chờ một chút,” Dan bảo. Nó ngồi xổm xuống và bắt đầu lần tìm dọc theo bức tường.
“Em đang tìm gì thế?” Amy hỏi nó.
“Em thấy lạ là ông ta đã viết chữ “an toàn” ngay ở chỗ đó. Có thể ông ta không nói về sự an toàn. Mà là đang nói về một cái két an toàn.”
Amy ngồi ngay xuống sàn nhà cùng với Dan. Tụi nó lần tay dọc theo góc tường.
một cái gờ,” Amy hào hứng nói. “Chúng ta cần có cái gì đó để nạy nó lên.”
Nellie lục lọi trong thùng đồ nghề và đem lại một cái đục. Amy chậm rãi nạy cái gờ. Nó cảm thấy lớp đá bắt đầu vỡ ra. Thình lình, nó bật ra trong tay con bé.
Dan săm soi nhìn vào trong. “Có một cái hốc được khoét ở trong này.”
Thằng nhóc thọc tay vào trong. “Em chạm được thứ gì đó!” Mấy ngón tay của nó tóm vào một thứ gì đó trơn nhẵn và mát lạnh. Nó lôi ra một hộp sắt nhỏ. Nó mở cái hộp ra. Bên trong là một chiếc phong bì da được cột lại bằng một sợi dây da.
Dan tháo sợi dây buộc một cách từ tốn. Nó mở chiếc phong bì ra. Phong bì trống rỗng. “BẤT CÔNG QUÁ!” nó hét lên.
Amy ngồi bật ra đằng sau trong nỗi thất vọng. “Ai đó đã tới chỗ này trước rồi!”
“Như cha mẹ mình!” Dan quăng cái phong bì qua một bên trong cơn tức giận.
“Khoan đã.” Amy nhặt cái phong bì lên lại. Nó vừa nhìn thấy được trên đó có mấy chữ cái mạ vàng đã mờ. “Đây là kiểu viết chữ lồng! R C H!”
Nó ngước nhìn Dan. “Amelia đang đi kiếm H, nhớ không? Đây chắc chắn phải là tên thật của Bob “Troppo”!”
“Nhưng tụi mình làm cách nào biết được ông ta là ai chứ?” Dan hỏi. “Tụi mình đâu có biết ông ta sinh ra ở đâu, cũng đâu biết ông ta từ đâu tới...”
“Dù sao thì đây cũng là điểm để bắt đầu.” Amy bò dậy. “Chúng ta cần một cái máy tính xách tay.”
Nellie bất thần đặt một ngón tay lên môi mình. “Chị nghe thấy gì đó,” cô thì thào. “Có thứ gì đó trên kia...”
Dan lại gần lỗ thông hơi hơn. Nó đứng ở dưới ngước nhìn lên. Nó có thể nghe thấy những giọng nói, nhưng chẳng thể nhìn thấy một ai, chỉ thấy một mảng trời tròn màu xanh nhạt. “Đúng chỗ này rồi,” ai đó lên tiếng. Thằng nhóc nhìn thấy một cái bóng và nó nhanh chóng nhảy lùi lại.
“Ê nè,” ai đó nói bằng một giọng the thé lên vì sợ hãi. “Đừng có mà để chúng gần chỗ tôi.”
“Tiếng đó nghe giống như Natalie Kabra,” thằng nhóc thì thào.
“Sao quanh tôi toàn một lũ vô dụng không thế này,” một giọng phụ nữ cất lên vẻ sốt ruột. “Đưa cho ta cái hũ.”
“Isabel đấy,” Amy thì thào.
Đột nhiên, có thứ gì đó rơi xuống qua đường lỗ thông hơi. Nó có màu đen và có kích thước bằng cái đĩa đựng salad. Dan cảm giác vật đó khẽ chạm vào cánh tay nó. Nó nhìn xuống và phát hiện ra một con nhện to nhất và lông lá nhất mà nó từng thấy. Con vật bắt đầu bò theo cánh tay lên mặt nó. Thằng nhóc hét lên và lùi lại chỗ bức tường. Nó đã sợ đến mụ cả người, nên không thể nào dám chạm vào con nhện.
Shep phóng tới. “Không sao đâu cháu,” ông vỗ về. Ông gỡ con nhện ra, và nó bò lổm ngổm ra xa trên sàn. “Nó không có độc đâu.”
“Cháu... cháu nghĩ chúng ta nên đi khỏi chỗ này,” Amy lắp bắp.
Cả đám nhìn chằm chằm vào con bé một giây. Rồi họ vội vàng nhảy lùi lại khi cả một cơn mưa nhện bắt đầu trút xuống sàn nhà. Chẳng mấy chốc ở đó đã có cả một tấm thảm nhện đầy lông lá, đang bò lúc nhúc, nghều ngào vung vẩy những chiếc chân. Amy thét lên.
“Lùi lại,” Shep ra lệnh. Ông nuốt khan một cái rồi chỉ vào một con nhện lông lá trên sàn nhà. “Đó là một con nhện funnel. Ở kia có một con nữa...”
Dan nuốt nước bọt. Nó vẫn còn đang run từ sau cuộc chạm trán với con nhện to như cái đĩa kia. “Giống nhện độc nhất trên thế giới hả chú?”
“Không sao đâu... nó không hiếu chiến đâu,” Shep nói. “Chỉ là... đừng có... làm kinh động nó.”
“Chú làm thế nào để kinh động một con nhện chứ?” Amy kêu lên.
“Chúng ta có nên nói lý lẽ với nó không nhỉ?” Nellie vừa hỏi vừa lùi lại.
“Được rồi, tin tốt là chú nghĩ rằng chú chỉ thấy có hai con,” Shep cẩn thận quan sát sàn nhà.
“Chỉ là chú nghĩ rằng thôi hả?” Nellie vừa hỏi vừa quăng người sang một bên để né một con nhện đầy lông lá.
Con nhện funnel bò lổm ngổm ngay trước cửa ra. Nó dừng lại đó một lúc, giơ những cái chân đầy lông lá lên và thăm dò địa bàn mới một cách ngập ngừng. Con nhện funnel còn lại bò dọc theo chân tường, khiến cả đám người phải lùi lại để tránh xa nó ra.
“Được rồi,” Shep vừa nói vừa nhìn lướt qua lũ nhện trong khi vẫn tập trung chú ý vào những con nhện funnel. “Hình như chỉ có hai con nhện funnel mà thôi, nhưng lại có thêm một vài con nhện đít đỏ. Không chết người, nhưng tụi nó cắn cũng gớm lắm. Chúng ta phải ra khỏi chỗ này ngay. Nhưng đừng có quá lo. Chúng ta sẽ chỉ...”
Sau một tiếng rơi khẽ, một sinh vật khác đáp xuống lớp bụi. Một con rắn đang cuộn mình lại và ngóc cái đầu lên cao.
Cả đám có thể nghe thấy tiếng cười của Isabel vọng xuống qua lỗ thông hơi. “Khoái quá đi,” cô ta nói. “Vì nghĩ rằng các người có thể hơi cô đơn ở dưới đó, nên chúng ta gửi cho các người một ít thú cưng!”
Dan nuốt khan. “Làm ơn đừng có nói với cháu rằng cái thứ cháu nghĩ là...”
“Rắn taipan,” Shep thở hắt ra. “Loại rắn...”
“... độc nhất thế giới,” Dan kết thúc câu nói.