CHƯƠNG 15
HỌ BAY DỌC THEO ĐƯỜNG BỜ BIỂN, dưới cánh máy bay là làn nước màu xanh ngọc và những bãi cát vàng óng trải dài. Đầu Amy bắt đầu gục gặc, rồi nó ngủ thiếp đi. Không có gì ngạc nhiên, Dan nghĩ thầm. Chị nó đã bị dính vào một mớ lộn xộn với nào là cá mập và kim tẩm độc, mà tất cả lại diễn ra trong cùng một ngày. Điều đó có thể khiến một người đàn ông cũng phải kiệt sức.
Sau khi bay được một giờ thì ngay cả cảnh đẹp như tranh cũng không thể giữ được sự chú ý của thằng nhóc nữa. Dan phát mệt vì dõi mắt tìm chuột túi qua cửa sổ máy bay. Nó chưa bao giờ chán thế này kể từ lúc nó 5 tuổi, khi Amy bắt nó trông mấy con búp bê Barbie của con bé. Nó bắt đầu tự hỏi về Miền Đất Ngầm. Chính xác thì cái gì ngầm ở đó? Suýt chút nữa nó đã đánh thức Amy dậy để hỏi, nhưng nó quyết định rằng đó không phải là một ý tưởng hay.
Tiếng chú Shep phát ra trong loa. “Có snack trong tủ đựng thức ăn dưới bồn rửa mặt đấy.”
“Mèn ơi! Giờ chú mới nói đúng ý cháu đấy!” Nhưng Shep không nghe được thằng nhóc nói. Dan đứng lên lục lọi.
Vào lúc Amy tỉnh dậy, họ đang bay trên một vùng đất đỏ quạch, rộng lớn và trơ trụi. Còn Dan đã thiết lập được một tình bạn thân ái với mấy món snack kiểu Úc.
“Cảnh tượng này còn kéo dài bao lâu nữa?” Amy vừa hỏi vừa ngáp.
Dan đang nhai một miếng khoai tây chiên. “Mãi mãi. Nhưng thử cái này đi.” Nó chìa ra một bịch khoai tây. “Cái này có vị thịt gà đấy! Đúng là thiên tài quá phải không? Chị có đói không? Em có hiệu Tim Tams, Cheezels, Toobs và Burger Rings. Người Úc đúng là bạn tốt của chúng ta. Đây nữa nè, Violet Crumbles - thanh chocolate ngon nhất thế giới!”
“Đừng có đầu độc vị giác của em, anh bạn nhỏ ạ,” Nellie nhắc nhở bằng cái giọng kiểu Úc của cô. Lúc này, cô đang đội chiếc mũ đi rừng mà Dan đã mua ở sân bay. “Chúng ta có thể ngừng ngốn một chút để nôn ra.”
“Ngốn và nôn,” Dan cười và phun ra một miếng khoai tây. “Thích trò này thế!”
“Thử phần ngốn thôi,” Amy nói. “Bỏ phần nôn đi.”
Shep duỗi người ra, ngáp dài.
“Muốn giải lao chút không?” Nellie hỏi. “Cháu có thể lái dùm chú một lúc.” Đáp lại cái nhìn tò mò của Shep, cô nói: “Cháu đã từng lái máy bay từ hồi thiếu niên rồi.”
“Tức là mới biết lái đây thôi. Chú không yên tâm lắm.”
Nellie nhe răng cười. “Tin cháu đi. Cháu đã có bằng phi công rồi. 500 giờ bay đấy. Bay khảo sát. Bay đêm nữa.”
Cô và Shep bắt đầu nói chuyện về sự thay đổi của gió, áp suất không khí và sức chứa hành khách. Dan chồm lên chỗ
“Chị có biết là Nellie biết lái máy bay không?”
Amy lắc đầu. “Chị cứ nghĩ rằng chuyện này không bao giờ xảy ra.”
“Với Nellie thì nhiều thứ không xảy ra lắm. Cho tới khi nào chúng xảy ra.”
Trong một thoáng, hai đứa trao đổi cho nhau một ánh nhìn hoài nghi, nhưng tụi nó cho chuyện đó qua một bên.
Nellie tiếp quản buồng lái. Shep quan sát cô nàng một lúc rồi bước trở lại khoang hành khách. Ông nghiêng người dựa vào vách ngăn buồng lái và dang hai tay ra.
“Được rồi, chuyện này có mùi không ổn,” ông nói. “Mấy đứa có biết người ngồi trên chiếc Hummer không? Vì cái màn trình diễn đó có vẻ không phải là tình cờ.”
Dan làm ra vẻ mặt vô tội. “Không phải thật à?”
“Mấy đứa có chuyện gì muốn nói cho chú biết không? Chẳng hạn như thực sự thì mấy đứa đang làm gì ở Úc?”
“Được rồi,” Dan đáp. “Cháu nghĩ đã tới lúc tụi cháu nói cho chú biết sự thật.”
Amy nhìn thằng em theo kiểu “không đời nào”.
“Hồi ở Massachusetts, một đêm nọ cháu và Amy đột nhập vào trường cháu. Chuyện đâu có gì to tát, phải không chú? Ngoại trừ việc ông hiệu phó của tụi cháu, Mortimer C. Murchinson, lại là quái vật ngoài hành tinh. Cứ ban đêm là ông ta lột bỏ bộ mặt người và trở thành một thứ cao hơn 3 thước và có 8 cánh tay...”
“... là cái người chơi cho đội Boston Celtics chứ gì,” Shep vừa nói vừa thở dài. “Chú hiểu rồi.” Ánh mắt của chú dừng lại trên tụi nó, chằm chằm dò hỏi. Đoạn chú quay đi và trở lại buồng lái. “Nếu mấy đứa có thấy cái máy bay ném bom nào bay chắn đường mình thì chỉ cần hét lên một tiếng, được không
“Cứ yên tâm đi, Cơ trưởng,” Dan trả lời.
Nellie lái thêm một giờ nữa, rồi Shep tiếp quản lại buồng lái khi họ gần tới Coober Pedy.
“Nó nằm chỗ nào thế?” Dan vừa hỏi vừa vươn cổ ra nhìn. Tất cả những gì nó trông thấy chỉ là hàng dặm nối tiếp hàng dặm bụi đất đỏ. Đường chân trời bị uốn cong lại, tựa hồ nó có thể nhìn thấy được cả rìa trái đất.
“Thấy mấy cái kim tự tháp đó không?” tiếng chú Shep vang lên trên loa.
“Nhìn chúng giống mấy quả đồi muối,” Dan nói lại với Amy.
“Đó là những đống xỉ sau khi khai thác ngọc mắt mèo đấy,” Shep giải thích. “Chúng ta sẽ bay ngay trên những cánh đồng ngọc mắt mèo. Sáng nay, chú đã liên lạc được với anh bạn Jeff của chú. Anh ấy sẽ đón chúng ta.”
Chiếc máy bay nhẹ nhàng hạ cánh xuống đường băng và lăn bánh tới điểm dừng. Sân bay này thậm chí còn nhỏ hơn cả cái bên ngoài Sydney. Chỉ có vài căn nhà dã chiến và hai chiếc máy bay loại dùng bay trong vùng núi. Cả đám nhảy ra ngoài và bị cả một bức tường hơi nóng ập vào người. Dan cảm giác cổ họng nó khô không khốc như những quả đồi trọc. Shep nhảy xuống, trông vẫn tươi tỉnh y như lúc khởi hành.
“Trời luôn nóng thế này hả chú?” Dan hỏi Shep.
“Ồ, bữa nay là mát trời rồi đấy. Chỉ chừng 100 độ[1] hoặc cỡ đó. Để chú giải quyết một chút công việc giấy tờ, rồi sau đó chắc là Jeff sẽ đến.”
[1] 100 độ F (Fahrenheit), tức khoảng bằng 37,7 độ C.
Shep thong thả đi tới chỗ văn phòng, ngay lúc đó một chiếc xe tải hai cầu bám đầy bụi bẩn hiện ra và phóng nhanh xuống chỗ sân bay. Một người đàn ông vừa cao vừa gầy, mặc một chiếc quần lửng bằng vải khaki nhảy ra khỏi
“Họ chịu để cho anh hạ cánh bằng cái sọt đựng cam lừa đảo đó hả?” ông ta la toáng lên bằng một giọng rặt Úc.
“Lần tới, tôi sẽ hạ cánh trên đầu anh,” Shep trả lời. “Nó cũng đủ to đấy.”
Hai người vỗ vai nhau. Shep quay lại chỗ cả bọn.
“Để chú giới thiệu mấy cháu với người anh em họ thất lạc đã lâu của chú,” ông nói. “Amy, Dan và Nellie Gomez, au pair của hai đứa. Còn đây là Jeff Bandler, hướng dẫn viên du lịch giỏi nhất ở vùng Red Center.”
“Bạn của Shep cũng là bạn của tôi,” Jeff nói. “Điều gì đưa mấy cháu tới Coober Pedy này vậy? Một ít mì sợi hả?”
“Tụi cháu mới vừa ăn trưa,” Amy lịch sự trả lời. Nó phẩy tay đuổi một con ruồi đen to khổng lồ. “Nhưng cũng cảm ơn chú.”
Ông ta cười. “Không phải, làm mì sợi là cách chúng tôi gọi việc tìm mót ngọc mắt mèo trong những đống xỉ. Nhiều khách du lịch thích trò này lắm. Không có nhiều cơ hội để cháu kiếm được một viên đá có giá trị, nhưng vẫn là luôn có cơ hội, phải không nào?”
“Thật ra, mấy đứa cháu của tôi tới đây để kiếm vài thông tin,” Shep nói. “Về một người nào đó có thể đã từng sống quanh đây trong những năm 30. Hắn ta có khuôn mặt đầy sẹo, và hồi còn ở Sydney hắn ta được biết như một tên tội phạm có tên Bob “Troppo”. Hắn không khoái chuyện trò, và có thể bị điên nữa.”
“Để nghĩ coi. Mặt sẹo, tội phạm, kín tiếng, điên như một con rắn cụt đuôi,” Jeff nói. “Có vẻ khớp với một nửa dân số vùng này rồi.” Ông ta cười khi thấy vẻ mặt tiu nghỉu của Dan và Amy. “Đừng lo. Tôi biết chính xác cần kiếm ai để xin lời khuyên. Trèo lên thùng xe đi.”
Cả đám chen chúc trong thùng xe, ông đánh một vòng cua lên con đường đầy bụi và đạp hết ga. Ông chỉ về những cánh đồng mỏ ngọc mắt mèo. “Nếu mấy cháu ra ngoài đó, mấy cháu phải luôn thật cảnh giác. Mỗi năm, chúng tôi lại mất một hai người khách du lịch những hầm mỏ mở toang hoác. Họ đi lùi để chụp một kiểu ảnh, thế là “soạt” một cái, họ tụt xuống, một cú ngã chết người. Phải nói cho mấy cháu biết, chúng tôi thấy rất khó chịu vì chuyện đó.”
“Cháu cá là mấy người khách du lịch đó còn thấy khó chịu hơn nhiều,” Dan đáp.
“Không kịch tính thế đâu, bọn họ đều chết cả.” Jeff lái xe vào trung tâm thị trấn, một nơi không lớn lắm. Cảnh vật nhìn giống như một thị trấn của Miền Tây Hoang Dã lấy ra từ trong phim. Mặt đất khô cằn hệt như trên mặt trăng. Một vài người đội mũ rộng vành đang đi trên đường phố, nhiều người đàn ông để tóc dài và ria mép. Tại mỗi góc đường đều có những tấm biển hiệu chỉ NGỌC MẮT MÈO và NHÀ TRỌ DƯỚI LÒNG ĐẤT. Thậm chí còn có biển hiệu của một nhà thờ dưới lòng đất.
“Người ta đi đâu hết rồi?” Nellie hỏi.
“Khoảng giờ này thì hoặc ở trong mỏ hoặc ở nhà,” Jeff đáp. “Nghĩa là ở dưới lòng đất ấy. Ở đây hầu hết chúng tôi đều sống trong hầm ngầm. Chúng giữ cho chúng tôi mát mẻ vào ban ngày và ấm áp vào ban đêm.”
“Chà,” Dan trầm trồ. “Chỗ này đích thị là Miền Đất Ngầm rồi.”
“Cháu hiểu ra rồi đấy, anh bạn! Dân chúng cứ đến rồi đi - hiện giờ thì có khoảng 2.000 người. Và chúng tôi có ở đây tới 45 quốc tịch khác nhau, mọi người đều tìm cách khai thác sự giàu có của nơi này. Thường thì chúng tôi sống với nhau khá êm thắm cho đến khi có ai đó quyết định thổi bay cái gì đó. Có khi chúng ta nên thôi không bán thuốc nổ trong siêu thị nữa, nhỉ?”
“Chú ấy đang nói đùa phải không?” Nellie hỏi Shep.
“E là không.”
Jeff chạy chậm lại trên phố chính, nhưng ông lại tăng tốc lúc tới khu ngoại vi thị trấn. Ông cho xe phóng dọc theo con phố bẩn thỉu và với tất cả các cánh cửa sổ xe mở toang ra. Ít nhất thì họ cũng đã bỏ lại được đám ruồi nhặng ở đằng sau mình.
“Tới nơi rồi!” ông đột ngpht la lên.
Họ đang ở một vùng đất bị bỏ hoang. Bao bọc xung quanh là những ngọn đồi, và họ có thể thấy những hình dáng có dạng kim tự tháp của những đống xỉ có từ việc khai thác mỏ ngọc mắt mèo, mà giờ đây đã trở nên quen mắt.
“Đây là... cái gì?” Nellie ngập ngừng.
“Địa bàn của Ken Chuột túi,” Jeff vừa cười vừa đáp lại. “Đừng có tin bất cứ lời nào ông ta nói, nhưng ông ta thực sự biết hết tất cả mọi thứ về Coober Pedy này.”
Với lời giới thiệu chả biết đường nào mà lần đó, ông nhảy xuống xe và đi tới một trong những ngọn đồi. Giờ thì cả đám đã có thể nhìn thấy được một cánh cửa đủ màu sắc trổ thẳng vào sườn đồi. Khi kéo nhau lại gần hơn, họ thấy cánh cửa được trang trí bằng vô số vỏ lon bia đập bẹp gắn trên mặt cửa.
“Trang trí hay quá,” Nellie trầm trồ.
“Cháu vẫn chưa thấy hết đâu,” Shep nói.
“Chú có thể thương lượng giá hữu nghị cho các cháu, trong trường hợp các cháu quan tâm tới chuyện qua đêm ở đây. Ken cũng cho thuê phòng nữa đấy.” Jeff mở cửa mà không cần gõ và thò đầu vào trong ngó nghiêng. “Cúc cuuu!” ông la toáng lên. “Có nhà không? Jeff đây, ông bạn ơi! Tôi có vài người quen muốn gặp ông này!”
“Không cần phải gào lên, cứ vào đi trước khi anh để cho gió nó thổi lộng hết chỗ này lên, anh càng lúc càng lắm chuyện quá,” một giọng nói gầm lên từ phía sau nhà.
Jeff nháy mắt với tụi nó. “Đừng để ông ta làm các cháu bối rối. Ông ta có cách hành xử theo kiểu Úc với khách du lịch. Ông ta hơi điếc, nên hãy nói to lên nhé.”
Họ kéo nhau vào trong nhà và Nellie nhanh chóng khép cửa lại. Họ đang ở trong một hành lang nhỏ. Ánh sáng mờ mờ rọi vào từ hai cửa sổ nhỏ trổ gần cửa chính. Trên tường treo hàng trăm thứ hầm bà lằng - bảng số xe, đề-can dán xe hơi với đủ các thứ tiếng trên đó, áo thun, vỏ kẹo, bưu thiếp. Số lượng đồ vật nhiều khủng khiếp tới phải treo chồng chúng lên nhau, tạo thành một kiểu giấy dán tường điên rồ. Ở những chỗ tường còn trống, người ta lại nguệch ngoạc ký tên và viết đầy lên đó.
“Ngôi nhà này được xây ăn vào trong lòng quả đồi, nên giờ chúng ta đang ở dưới mặt đất đấy,” Jeff giải thích trong lúc họ đi qua khu vực nhà bếp và phòng ăn. Bức tường xù xì uốn lượn xung quanh họ. Ở chỗ này giống như như ở trong hang động, ngoại trừ việc nó có một cái bếp lò, một cái tủ lạnh, một bàn ăn và một tấm thảm trải trên sàn nhà.
Cả đám theo chân Jeff đi sâu hơn vào trong nhà, tới một phòng khách được soi sáng bằng những bóng đèn điện. Tụi nó đã chờ đợi được thấy một thứ gì đó kiểu như hầm trú ẩn, nhưng thay vào đó họ đang ở trong một căn phòng bình thường với một chiếc ghế bành dài màu nâu, một bàn uống cà phê, một giá sách và một cái ti-vi. Phải mất một phút mới nhận ra chỗ kỳ quái của căn phòng - không hề có cửa sổ. Nhưng sau khi đã phải nếm trải cái nóng nung người ở bên ngoài, thì cảm giác trong này thật mát mẻ và dễ chịu.
Một ông già đang ngồi trên chiếc ghế dài đọc báo. Da ông ta rám nắng ngả sang màu như gỗ cây óc chó, còn đầu thì hói nhẵn. Ông ta cũng mặc một chiếc quần lửng bằng vải khaki và một chiếc áo thun, trên đó có thể đọc được chữ “ĐỪNG HỎI GÌ”. Ông ta ngước nhìn lên bọn họ qua cặp kính lão của mình.
“Chúc một ngày tốt lành thưa quý vị. Tôi có thể thấy là cả đám quý vị can đảm lắm mới hạ cố tới tệ xá của tôi. Vậy nên kiếm chỗ ngồi đi, để tôi nhóm lửa làm món thịt nướng.”
“Nói dễ hiểu chút đi, Kenny,” Jeff nói. “Họ đến đây vì muốn biết ít lịch sử của Coober Pedy, không phải để biết cái phong cách Úc của ông đâu.”
“Anh nói nhóm người của anh là đây đó hả?” ông già vừa hỏi vừa cười như nắc nẻ. “Quen biết anh hóa ra chẳng phải là việc tốt chút nào.” Ông ta vỗ vỗ đầu gối.
“Lại lôi cách cư xử kiểu Úc ra rồi,” Jeff la lên. “Thôi, đừng bận tâm. Mấy người bạn nhỏ này muốn biết một số thông tin.” Jeff cao giọng hơn. “Ông đã từng nghe nói về một thằng cha nào được gọi l Bob “Troppo” chưa hả?”
“Tụi cháu nghĩ có thể ông ta từng sống ở đây hồi những năm 30,” Amy nói thật lớn. “Có thể ông ta làm thợ mỏ. Nhưng tụi cháu không chắc về điều này. Tụi cháu cũng không chắc về tên của ông ta, nhưng có thể là Bob. Mặt ông ta có sẹo ở một bên má, và rất ít nói.”
“Tiếp tục đi.”
“Tụi cháu nghĩ rằng ông ta biết một người ở đây... một người nào đó đã bán một chiếc nhẫn cho Amelia Earhart.”
“Ồ thế hả,” Ken nói. “Ta đã nghĩ rằng chính lão Ron già đã gặp người phụ nữ Ai-len đó. ”
“Ông đã nghe kể lại à?”
“Chính ba ta nói thế! Ngay trước lúc xảy ra chiến tranh, ông có làm một chuyến tới Darwin, mang theo một ít ngọc mắt mèo kém chất lượng và một ít đá quý khác. Ông đã kể cho ta nghe chuyện Earhart đã mua chiếc nhẫn của lão ta ra sao. Tánh tình của ba ta là thế - ông kể cho các cháu nghe những chuyện ly kỳ, còn các cháu lại không thể nào chứng minh được chuyện đó có xảy ra hay không.”
“À, chuyện đó có thật đấy ạ,” Dan nói. “Tụi cháu biết chắc về điều đó.”
“Thật tệ là ông ấy không còn ở đây để kể lại chuyện đó nữa.” Ông già cười lớn.
“Còn người đàn ông mặt sẹo thì sao?” Amy hỏi.
“Nghe giống như Fossie[2],” Ken nói. “Bà ta gọi hắn như thế bởi vì hắn rất may mắn trong việc đi mót.”
[2] Fossie - người làm công việc đi mót ngọc trong các đống xỉ.
Amy và Dan nhìn nhau chẳng hiểu gì cả.
“Đi mót cũng có nghĩa giống như như làm mì sợi ấy,” Jeff giải thích. “Là việc tìm kiếm ngọc mắt mèo trong những đống cát thải ra từ một mỏ ngọc. Chuyện này đòi hỏi phải kiên nhẫn ghê lắm, mấy cháu nên biết điều đó.”
“Fossie kiếm được nhiều tiền từ việc đi mót hơn là đi đào mỏ. Hắn ta là một người kỳ lạ. Chẳng nói chẳng rằng gì cả, chỉ chằm chằm nhìn xuyên qua người ta. Như mấy con chuột túi lạc trong bãi thả gia súc ấy, đúng vậy đó.”
“Ngoài tụi cháu ra còn có ai từng hỏi thăm về ông ta không ạ?” Dan hỏi thăm. Nó đang hy vọng có được ít tin tức về cha mẹ mình.
“Gì hả?”
Dan lặp lại câu hỏi, lần này nó nói to hơn. “Chẳng có ma nào hết,” Ken đáp. “Chẳng có mấy người ở Coober Pedy còn nhớ đến hắn ta, với lại chúng tôi không thích bép xép. Hơn nữa, Anh Mót không phải là người quảng giao. Hắn ta đã chết trước khi Coober Pedy thực sự thịnh vượng lên.”
Gương mặt của Nellie biến đổi, và Amy biết rằng cô nàng đang cố nhịn cười trước ý niệm rằng cái thị trấn bụi bặm Coober Pedy này đã từng thịnh vượng. Nhìn mặt cô nàng cứ như thể vừa hít phải hạt tiêu và đang cố để không hắt xì hơi.
“Ông đã từng gặp hắn chưa ạ?” Dan hỏi.
“Đúng một lần. Hắn ta không thích khách khứa, nói để cháu biết. Nhưng khi hắn đang hấp hối, hắn gọi ba ta đến, và ta đi cùng với ông ấy. Khi đó ta chỉ là một thằng nhóc. Hắn để lại cho ba ta khu mỏ của hắn. Chẳng có gì nhiều trong đó, chúng ta không bao giờ kiếm được viên đá nào từ cái mỏ đó. Sau khi xong chuyện đó, hắn bắt đầu chuyến hành trình vĩnh hằng và không bao giờ quay trở lại nữa. Hắn đã chết ngoài đó, đơn độc, đúng như hắn muốn.”
“Ông có biết hắn sống ở đâu không?”
“Biết rõ nữa là đằng khác! Sống ngay trong mỏ. Đào một căn phòng bên cạnh hầm mỏ. Ngày đó nhiều người cũng làm thế. Hắn là người đầu tiên tìm ra cách làm hệ thống thông gió và giữ cho cả hệ thống đó hoạt động.”
Amy và Dan đưa mắt nhìn nhau. Nhà Ekat.
“Tụi cháu có thể xem qua chỗ hắn ở được không ạ?”
“Tất nhiên rồi, nó chỉ nằm ngay dưới căn phòng này thôi.”
“Chờ một chút,” Amy nói. “Ông đang nói với tụi cháu là Bob - ý cháu là Fossie - đã từng sống tại đây?”
“Cũng không phải ngay chóc ở đây,” Ken vừa nói vừa chỉ quanh căn phòng. “Ba ta đã đào phần lớn quả đồi để làm ra căn nhà này. Còn Fossie chỉ khoét một đường hầm chạy thẳng ra phía sau ngọn đồi. Hắn đào riêng cho mình một căn phòng ở đấy.”
“Căn phòng vẫn còn chứ ạ?” Amy hỏi.
Ông già gật đầu. “Tất nhiên. Chúng ta chỉ dựng thêm một bức tường để bịt lối vào mỏ lại. Nhưng căn phòng của Fossie vẫn còn ở đó. Shazzer đã sửa sang nó lại thành một trong những phòng dành cho khách. Bà ấy là vợ thứ ba của ta”
“Tôi nghĩ là vợ thứ tư chứ,” Jeff nói. “Còn mẹ tôi nữa, nếu ông còn nhớ. Ông từng là ba dượng của tôi trong khoảng 2 năm đấy.”
“Đúng rồi!” Ken cười lớn. “Khỏe không, con trai? Chắc chắn rồi, đi xem qua chút nào,” ông già bảo Amy và Dan. “Căn phòng ít nhất cũng được 50 năm rồi, nên ta nghĩ mấy đứa sẽ không tìm thấy thứ gì đâu. Nhưng sự cố gắng của các cháu vẫn được hoan nghênh.”