Thời điểm Cao A Dục tiếp nhận con dấu tướng quốc từ trong tay cha hắn thì hắn 16 tuổi, ngay cả râu cũng chưa mọc.
Từ khi Đoàn Trí Hưng đi làm Nhất Đăng đại sư thì Quốc quân của Đoàn thị đều chỉ là đứa bé, Quốc quân hiện tại chỉ vừa tròn 10 tuổi.
Khi Cao A Dục vẫn là công từ phủ tướng quốc thì thường xuyên đặt tiểu hoàng đế lên lưng ngựa của mình đưa cậu bé đi săn thú, tiểu hoàng đế tuổi còn nhỏ đã tinh thông cưỡi ngựa bắn cung có phân nửa là công của Cao A Dục.
Tiểu hoàng đế vừa tròn mười tuổi cuối cùng cũng học được cách kiêng kị vị huynh trưởng lúc nhỏ, hiện tại là quyền thần này.
Các thế hệ Cao thị đều là giám quốc, quyền khuynh triều dã, thanh danh quả thực không tốt. Nhưng mà Cao A Dục tự hỏi, hắn cũng không có dã tâm soán quyền đoạt vị, làm việc chăm chỉ thật thà, tính tình khiêm toán, vậy tại sao Đoàn thị lại vẫn đề phòng hắn như đề phòng phản tặc?
“Thực ra tại hạ rất muốn làm theo tiên đế, đi đến nơi non xanh nước biếc làm hòa thượng nhàn hạ, đó mới thực sự là tiêu dao khoái hoạt.
Có một ngày mời khách đến nhà ăn cơm, Cao Tướng quốc đã nói như vậy.
Người được mời chính là thanh quan đương triều, Kiến Xương Vương Đoàn Trí Diễm. Vị hoàng thân quốc thích không có thực quyền này vô cùng hận Cao thị, lời này của Cao A Dục vào tai hắn lại trở thành vô cùng dối trá quả thực khiến người ta buồn nôn.
“Tướng quốc nói đùa, Đại Lý không thể thiếu tướng quốc, tướng quốc lao tâm vì nước, phân ưu với hoàng thượng, ân huệ rải khắp thiên hạ, hạ quan kính tướng quốc một ly.”
Cao A Dục mời Đoàn Trí Diễm tới thứ nhất là bởi vì vị Vương gia này ở trên triều dám dũng cảm đối đầu với hắn, khiến cho hắn cảm thấy rất thú vị, thứ hai là vì gần đây Thổ Phiên xâm phạm biên giới, trong triều không có tướng, vị Kiến Xương Vương này tuy lĩnh chức quan văn nhưng cũng có tài năng hiếm có.
Lời khách sáo đã nói xong, Cao A Dục nói thẳng vào chủ đề chính: “Gần đây Thổ Phiên xâm phạm biên giới, biên cương báo nguy, Vương gia cho rằng người nào có thể đánh đuổi Thổ Phiên?”
Đoàn Trí Diễm thầm nghĩ, họ Cao này tám phần là muốn để cho mình đi rồi lại phái thêm hai tâm phúc đi theo làm giám quân, nhất cử nhất động đều không chạy khỏi ánh mawys của hắn. Nếu như đánh thắng thì công lao thuộc về Cao tướng quốc biết nhìn người tài, nếu thua, chỉ còn một con đường chết.
“Đại ca của Tướng quốc là Tướng quân Cao Quan, tài trí mưu lược kiệt xuất, có thể đảm nhiệm trọng trách này.”
Cao A Dục lắc đầu: “Đại ca võ nghệ tốt nhưng lại thiếu mưu lực, không phải là tướng tài.”
“Thống lĩnh Ngự lâm quân Cao Viễn, tuổi trẻ đầy hứa hẹn, có thể đảm đương trọng trách.”
“Cao Viễn làm tiên phong còn được nhưng nếu thống lĩnh ba quân thì vẫn không được.”
“Chẳng lẽ Tướng quốc muốn đích thân xuất chinh?”
Cao A Dục cười nói: “Vương gia nó đùa, tại hạ là muốn mời Vương gia vất vả một chuyến, bình định biên cảnh của ta, làm tăng uy nghiêm của quốc gia, không biết ý của Vương gia thế nào?”
Thấy Đoàn Trí Viễn bất động không nói một lời, Cao A Dục hai hay nâng binh phù: “Đây là binh phù điều động ba quân, chư tướng trong quân toàn bộ đều nghe theo sự điều kiển của Vương gia, bắt đầu từ này khởi binh, toàn bộ chiến sự đều do Vương gia quyết định, bản tướng không phái giám quân đi theo, không đề xuất chiến lược, không giới hạn binh quyền, không tiếc lương thảo, xin Vương gia lấy xã tắc làm trọng!”
Đoàn Trí Diễm nói: “Một khi đã vậy, ngày mai khi vào triều rồi Tướng quốc lại giao binh phù cho hạ quan đi.”
Hôm sao vào triều, chúng thần đều đề cử Kiến Xương Vương Đoàn Trí Diễm làm Tĩnh Viễn đại tướng quân, lãnh binh đi giao chiến với Thổ Phiên. Hoàng Đế tự mình phong tướng, Tướng quốc dẫn theo đủ các quan viên ra ngoài thành đưa tiễn.
Đại quân càng lúc càng đi xa, Cao A Dục ra lệnh cho các quân viên trở về thành, bản thân lại nhìn cờ thống soái thêu một chữ Đoàn đang dần dần đi xa, than nhẹ một tiếng.
Thống lĩnh Ngự lâm quân Cao Viễn ở bên cạnh hỏi: “Tướng quốc lo lắng Vương gia bại trận sao?”
“Kiến Xương Vương tinh thông binh pháp, đánh đuổi Thổ Phiên là không thành vấn đề. Nhưng lần này nếu như hắn đại thắng trở về thì tất nhiên uy danh sẽ tăng lên. Hắn luôn coi Cao thị ta là quốc tặc (giặc của cả quốc gia) chỉ sợ trong triều lại dấy lên một trận gió tanh mưa máu rồi.”
Cao Viễn chưa bao giờ thấy Tướng quốc sầu khổ như vậy: “Nếu như Tướng quốc thân chinh, nhất định có thể đại thắng trở về, vì sao phải chắp tay nhường công lao này cho người khác?”
Cao A Duc cười cười: “Trở về thành đi.”
Cao thị gây thù chuốc oán với rất nhiều người, có rất nhiều người ngoài mặt thì khiếm nhường cung kính nhưng bên trong lại ẩn dấu sát khí, không có thứ gì là có thể vĩnh viễn cường thịnh. Đương kim hoàng thượng là một vị vua có lòng nhân ái, trong lòng Cao A Dục hiểu rất rõ, đến một ngày khi Cao gia cùng đường, thứ có thể để cho Hoàng Thượng mở một con đường sống không phải là quyền mưu mà là ân tình.
Sau khi Đoàn Trí Diễm khởi binh nửa tháng sau thì tin tức đường truyền về, người Thổ Phiên cầu hòa.
Điều kiện cầu hòa là Thổ Phiên rút khỏi Đại Lý, trả lại tất cả những thành trì đã cướp được, hai nước coi nhau như anh em, không xâm phạm lẫn nhau. Để biểu hiện thành ý, xin Đại Lý gả một công chúa đến Thổ Phiên.
Dưới tình huống không hề có ưu thế trong chiến tranh mà Thổ Phiên còn dám yêu cầu công chúa đi hòa thân là bởi vì bọn họ bắt được một người quan trọng.
Tĩnh Viễn đại tướng quân của Đại Lý, Kiến Xương Vương Đoàn Trí Diễm.
Theo tấu chương nói, đại tướng quân đêm khuya đánh lén, bất hạnh bị bắt, nhớ đến ân đức của Hoàng Thượng nên đã nhiều lần tự vẫn nhưng đều bị Thổ Phiên cứu sống lại.
Ngày hôm đó hạ triều, ở hậu điện, Tiểu Hoàng đế mười tuổi kéo góc áo của Cao A Dục, hai mắt ngập nước nhìn hắn: “Tướng quốc, Hoàng huynh đã bị người Thổ Phiên giết chết sao?”
Cao A Dục khom người nói: “Hẳn là không đâu, bệ hạ muốn đáp ứng điều kiện hòa thân của người Thổ Phiên sao?”
“Nhưng mà Hoàng tỷ và cô cô của trẫm đều đã lấy chồng, làm gì có công chúa nào có thể gả đến Thổ Phiên.”
“Bệ hạ có thể phong con gái của vương công đại thần làm công chúa.”
Tiểu hoàng đế lau khóe mắt, chỉ vào một xấp tấu chương trên bàn: “Tướng quốc, đây là tấu chương của các đại thần muốn trẫm phong Ngọc Lăng tỷ tỷ làm công chúa.”
Khi Cao A Dục trở lại phủ Tướng quốc, Cao Ngọc Lăng đang bảo đám hạ nhân xếp la hán(*) cho nàng xem. (Xếp la hán: một tiết mục xiếc, nhiều người xếp lên nhau tạo thành hình kim tự tháp hoặc các hình khác)
“Quận... Quận chúa tha mạng...” Một tên sai vặt đứng ở trên cùng, trên đầu có đặt một quả táo, Cao Ngọc Lăng cầm cung tân cung tay nhắm thẳng vào quả táo kia.
“Ngươi run rẩy cái gì, chẳng lẽ không tin tưởng tài nghệ bắn cung của bản quận chúa?” Cao Ngọc Lăng giương cung lắp tên vào, chỉ nghe thấy một tiếng hét thảm, gã sai vặt kia trợn ngược mắt ngã xuống, quả táo trên đỉnh đầu bị một mũi tên xuyên qua đính vào thân cây.
“Nhị ca? Huynh đã về rồi?” Cao Ngọc Lăng đặt cung tên xuống cười gượng với ca ca của nàng: “Muội chỉ là quá nhám chán mà thôi... Huống hồ cũng không làm ai bị thương.... Huynh không được mắng muội...”
Cao A Dục muốn nói lại thôi, thất hồn lạc phách nhốt mình trong thư phòng.
“Ca ca của ta làm sao vậy?” Cao Ngọc Lăng hỏi quản gia ở bên cạnh.
“Hai ngày nay Tướng quốc lo lắng chuyện biên cương, nếu tiểu thư có rảnh thì ở bên cạnh người nhiều một chút...” Quản gia thở dài, lau giọt lệ trên khóe mắt già nua.
Mãi cho đến khi thái giám truyền chỉ đến phủ tướng quốc thì Cao A Dục mới ra khỏi thư phòng.
“Phụng Thiên Thừa Vận, Hoàng đế chiếu viết: Sắc phong Thanh Hà quận chúa Cao Ngọc Lăng làm Đoan Tuệ công chúa, gả cho Vương tử của Thổ Phiên, chọn ngày thành hôn với Thổ Phiên.” Thái giám tuyên chỉ xong, nói: “Công chúa điện hạ, Tướng quốc đại nhân, lĩnh chỉ tạ ơn đi.”
Cao Ngọc Lăng ngơ ngác quỳ trên mặt đất, Cao A Dục quỳ gối đối diện nàng, giọng nói khàn khàn như có trộn máu: “Ngọc Lặng, ca ca có lỗi với muội.”
Cao Ngọc Lăng yên lặng đứng dậy, từng bước từng bước về phòng mình.
Tiến cung tạ ơn, tế thiên tế tổ, mãi đến khi đội mũ phượng, mặc giá y, ngồi trên xe ngược đi Thổ Phiên, Cao Lăng Ngọc cũng không hề có nửa câu oán hận, cũng không có một chút biểu tình.
Mãi đến khoảnh khắc khi xe ngựa khởi hành, nàng mới nhấc màn xe lên, nở một nụ cười với Cao ADục: “Nhị ca, bảo trọng.”
Nụ cười tươi tắn kia khắc trong lòng Cao A Dục, rất nhiều năm sau cũng vẫn rõ ràng như cũ, chỉ là lúc ấy không biết rằng, nụ cười kia sẽ trở thành vĩnh biệt.
Đoàn Trí Diễm trở về chiều, được phong thưởng lớn, dòng họ Đoàn thị rất có cảm giác hãnh diện.
Rất nhiều đại thần phụ thuộc vào Cao thị quay đầu đứng về phía Đoàn thị, tranh đấu gay gắt, Hoàng đế lại làm ngư ông đắc lợi, thu hồi không ít quyền lực.
Đảo mắt đã một năm trôi qua, để biểu hiện sự hòa thuận của Đại Lý và Thổ Phiên, hai nước đều cử sứ thần đến nước kia. Cao A Dục giao một phong thư nhà cho sứ thần, xin hắn giao cho Đoan Tuệ công chúa.
Nhưng mà lại nhận được tin tức rằng, Đoan Tuệ công chúa gả đến Thổ Phiên một tháng sau đã mắc bệnh mà chết.
Cao A Dục nghe được tin này tức giận công tâm, ước chừng nằm ba ngày mới tỉnh lại.
“Ngọc Lăng tập võ từ nhỏ, thân thể vô cùng tốt, Thổ Phiên cũng không phát sinh ôn dịch lớn gì, sao muội ấy có thể....” Cao A Dục ra lệnh cho quản gia: “Phái người đi thăm dò, ta phải biết được Ngọc Lăng chết như thế nào.”
Một tháng sau, thám tử trở về, còn mang theo nha hoàn hồi môn của Cao Ngọc Lăng.
Trong mật thất, nha hoàn quỳ trên mặt đất nức nở: “Tên Vương tử Thổ Phiên kia căn bản chính là cầm thú... Tiểu thư... Tiểu thư sống sờ sờ bị hắn hành hạ đến chết.”
Cao A Dục không tức giận, chỉ bình tĩnh phất tay để cho mọi người lui xuống, sau đó một mình ngồi cả một đêm.
Hôm sau vào triều, Cao A Dục dâng tấu chương, Thổ Phiên giấu diễm tin tức Đoan Tuệ công chúa đã chết, coi thường triều đình ta, phải dấy binh hỏi tội để thể hiện quân uy.”
Quân uy cũng đã lấy ra, không có một đại thần nào dám dị nghị.
Còn đại tướng được cử đi chinh phạt Thổ Phiên, Cao A Dục vẫn hết lòng tiến cử Đoàn Trí Diễm.
Tiểu hoàng đế ngồi trên long ỷ khen ngợi nhìn Đoàn Trí Diễm: “Cũng tốt, Hoàng huynh từng có kinh nghiệm tác chiến với Thổ Phiên, lần này nhất định có thể đại thắng trở về.”
Trước khi đại quân khởi hành, Cao A Dục vẫn ra khỏi thành đưa tiễn.
“Tướng quốc, tại hạ năm trước ngu muội, được Đoan Tuệ công chúa đổi về một mạng, trong lòng vẫn cảm kích, lần này đi nhất định sẽ báo thù cho công chúa, giải hận cho Tướng quốc.”
“Vương gia, bảo trọng.”
Trong lòng Cao A Dục biết rõ, năm đó Đoàn Trí Diễm buộc hắn gả muội muội đi chỉ vì muốn đánh một chút nhuệ khí của hắn, không hề có ý định hại chết Ngọc Lăng.
Nhưng mà, cái chết của Ngọc Lăng, hắn ta chính là đồng lõa, cho dù hắn ta có là trụ cột nước nhà thì cũng không thể tha thứ.
Từ ngày đại quan rời đi, Cao A Dục cử rất nhiều người theo dõi, chăm chú theo dõi động tĩnh của bọn họ. Nhất cử nhất động của Đoàn Trí Diễn, thậm chí hắn ta ăn khuya cái gì, hắn đều biết rất rõ.
Đoàn Trí Diễm một đường vượt mọi chông gai, trong 10 ngày đã dẹp xong vài thành trì, nguyên soái của Thổ Phiên đã thay đổi đến người thứ ba cũng không thể làm gì hắn ta.
Xâm nhập càng sâu, đường dài mệt nhọc, liên tục chiến đấu mấy ngày.... Cao A Dục nhìn chiến báo phía trước, khóe miệng lộ ra một nụ cười nhẹ, hỏi thám tử ở bên cạnh: “Quan đốc lương đâu?” (Quan đốc lương: vị quan phụ trách trông coi lương thực trong quân.)
Mấy ngày sau, quân của Đại Lý vì dùng hết lương thực, trì trệ không tiến thậm chí còn bại lui, bỏ thành mà chạy đến biên giới.
Chiến báo truyền về, tiểu hoàng đế hoảng sợ: “Tướng quốc, hoàng huynh liên tục bại trận, nên làm thế nào cho phải?”
Cao A Dục nhíu mày: “Thần sẵn lòng dẫn hai ngàn kỵ binh tinh nhuệ đi tiếp viện cho đại tướng quân.”
“Vậy còn chuyện trong triều thì sao?”
“Bệ hạ yên tâm, thần đã sắp xếp xong xuôi, trong vòng mười ngày nhất định có thể dẫn đại quân trở về.”
Qủa nhiên, ngày thứ chín Cao A Dục thống lĩnh 5 vạn đại quân trở về.
Thổ Phiên vì thống soái đã bị bắt, không thể không đồng ý với điều kiện của Đại Lý, tiến công, thông thương, ngừng chiến tranh.
Hoàng đế niệm tình Đoàn Trí Diễm bị thương nặng nên tạm thời không trị tội làm hỏng thời cơ chiến đấu của hắn, lệnh cho hắn ở nhà mang tội tĩnh dưỡng. Triều chính lại một lần nữa bị Cao A Dục nắm giữ.
Sau khi vết thương của Đoàn Trí Diễm tốt hơn, hắn tự động từ bỏ toàn bộ chức vụ và tước vị, xuất gia ở Thiên Long Tự.
Khi đến phủ Tướng quốc trả lại quan ấn đã nói với Cao A Dục: “Thủ đoạn của Tướng quốc thật giỏi, tại hạ vọng tưởng đấu với người đúng là không biết tự lượng sức mình, hổ thẹn, hổ thẹn.”
Đêm đó, Cao A Dục lập cho muội muội một bia mộ ở hậu viên chôn quần áo và di vật, đứng bên mộ thổi tiêu cả đêm. Ngày hôm sau hắn sốt cao không dậy nổi, đám người Thái y viện bận rộn đến tận trưa, nói với tiểu hoàng đế: “Tướng quốc đại nhân ưu tư quá độ, làm việc quá sức, ngũ tạng đều tổn hại, không thể sống lâu...”
Tiểu hoàng đế nắm tay Cap tướng quốc: “Tướng quốc, khanh điều dưỡng thân thể cho tốt, chuyện triều đình nếu có gì không rõ trẫm sẽ sai người báo cho khanh, nghe theo quyết định của khanh.”
“Bệ hạ thánh minh, làm theo thánh ý của người là được, thần... sợ là không thể dốc sức rồi.”
Nhất thời trong triều truyền lời đồn rằng mạng của tướng quốc không còn dài, rất nhiều người đã viết xong tấu chương, chỉ đợi khi Cao A Dục ngã xuống thì sẽ nhổ tận gốc Cao thị.
Nhưng mọi người không ngờ, Cao Tướng quốc bị bệnh một tháng, sau đó lại mang thần thái sáng láng đứng trên triều.
Trên phố lưu truyền rằng Cao tướng quốc là Thiên mệnh tướng quốc, có thuật trường sinh, có tài an bang, có lòng cứu giúp dân chúng, sao có thể dễ dàng chết như vậy?
Mấy tháng sau, Thiên Long Tự.
Trụ trì Liễu Không đại sư xuất quan, đàm luận phật thiện với sư đệ Liễu Trần.
“Sư huynh vì sao phải lấy nội lực nhiều năm của mình để kéo dài mạng cho tên Cao A Dục kia?”
“Người xuất gia phải có lòng từ bi, nếu đã gặp, sao có thể không cứu.”
“Nhưng Cao thị kia là tử địch của Đoàn thị chúng ta, sư huynh...
“Sư đệ, ta đã nói với đệ nhiều lần, nếu như ngươi không buông bỏ chấp niệm này thì sớm muộn cũng gặp họa.”
“Sư huynh nói đúng, đệ lục căn chưa sạch, vẫn còn tâm ma, đệ trở về đóng cửa sám hối.”
Liễu Không nhìn bóng lưng rời đi của Liễu Trần , thở dài một tiếng.