Cao Ngạn và Trác Cuồng Sinh dừng ngựa trên một ngọn đồi cao, từ trên mình ngựa nhìn ra tình hình trận địch. Hai trăm chiến sỹ Hoang nhân bố trận trên đỉnh và sườn đồi.
Ngọn đồi mà họ đang đứng ở bờ tây Dĩnh Thuỷ, chỉ cách bắc Dĩnh khẩu hơn một dặm. Sự xuất hiện của họ chỉ có tính chất kiềm chế, làm người Yên không hiểu được chiến lược của họ. Nếu như địch nhân xuất trận tấn công, thì chính là lo lắng của họ, tuỳ tình hình có thể ở lại cự địch, hoặc vừa đánh vừa chạy, phân tán binh lực địch.
Vầng thái dương đang ngả dần về tây. Dưới ánh tịch dương, bờ sông đầy tuyết lấp lánh phát sáng, có sáu toà bảo luỹ hình vuông được xây bằng gỗ chỉ mới hoàn thành bộ khung cơ bản, vẫn còn thiếu hơn mười ngày làm nữa mới có thể mong có năng lực phòng ngự.
Ven sông xây dựng hơn mười toà tiễn lâu để hô ứng với hai chiến hào quan trọng, lại có sức phòng ngự cao hơn mấy toà bảo luỹ chưa hoàn thành.
Hai ngàn quân địch đang bố phòng trong trận địa, nghiêm trận chờ đợi làm không khí bắc Dĩnh khẩu dần dần khẩn trương.
Hai chiếc phù kiều tạm vắt ngang sông làm trận địa hai bên bờ nối liền lại với nhau, làm người Yên có thể tuỳ theo tình hình phát triển mà thông qua phù kiều hỗ trợ lẫn nhau. Hơn hai mươi chiếc máy bắn đá đều bố trí ở chỗ cao khu vực hạ du dưới trận địa để đối phó với chiến thuyền của Hoang nhân đánh tới theo đường thuỷ.
Về mặt phòng thủ, đó là sự bố trí hữu hiệu nhất của người Yên. Nhưng Trác Cuồng Sinh và Cao Ngạn đều biết người Yên bề ngoài có vẻ mạnh, nhưng bên trong yếu kém, sỹ khí rất thấp. Chỉ xét việc bọn họ đến chiếm cứ ngọn đồi cao này để khiêu chiến đã hai canh giờ rồi mà người Yên vẫn không dám rời khỏi trận địa đến đánh là biết người Yên đã mất hết dũng khí.
Tác dụng của cánh quân này bên họ chỉ là gây áp lực lên địch nhân, làm người Yên vốn đang mệt mỏi không cách nào được nghỉ ngơi, càng không rõ thủ đoạn của họ.
Trác Cuồng Sinh nói: “Vương Trấn Ác đúng là một nhân tài hiếm có, trong hội nghị đề xuất chiến lược ‘bên nào sỹ khí cao hơn thì thắng’, cho rằng chỉ cần duy trì được đấu trí, sỹ khí của Hoang nhân thì tất có thể một trận thành công. Vì thế được Chiến gia và hội nghị tin tưởng, để hắn trù tính toàn bộ sách lược. Ngươi xem kìa! Thủ đoạn của hắn chính là lấy chỗ sở trường của mình làm bọn địch ớn gan. Chỉ xem việc bọn ta với binh lực ít ỏi không đủ này lại là một chiêu số hư hư thực thực, kiềm chế ba quân của địch là đủ biết công phu của hắn.”
Cao Ngạn gật đầu: “Thật ra, khi bọn ta đến ngọn đồi này thì ta sợ muốn chết, sợ địch nhân sẽ rời trại đánh trả. Nhưng đến giờ thì ta yên tâm lại rồi. Hà! Con người ta phải chăng đặc biệt nhát gan?”
Trác Cuồng Sinh vui vẻ nói: “Ngươi không những không hề nhát gan mà gan dạ hơn người nữa. Nếu không, làm sao ngươi thâm nhập vào trận địch, nắm rõ địch tình? Vấn đề là ngươi đã quen việc ẩn nấp, không có tập quán đối mặt với địch nhân. Nhưng ngươi có thể yên tâm. Để đáp tạ công lao của ngươi, hội nghị không những cho ngươi nhiệm vụ ít nguy hiểm, mà còn do bản quán chủ làm cận vệ cho ngươi, đảm bảo ngươi không mất mạng. Hắc! Ngươi có biết tại sao họ lại chỉ định ta bảo hộ cho ngươi không?”
Cao Ngạn ngạc nhiên hỏi: “Lại có lý do đặc biệt sao?”
Trác Cuồng Sinh kiêu ngạo đáp: “Hoang nhân bọn ta chiến tướng như mây, mưu sỹ như mưa, mỗi khi làm việc gì đằng sau đều có thâm ý. Sở dĩ do ta bảo vệ ngươi là vì ở Biên Hoang tập thì bản quán chủ quan tâm tới mạng nhỏ của ngươi nhất. Thử nghĩ nếu tiểu tử ngươi một mạng ô hô thì thiên thư của ta làm sao mà viết được đây?”
Cao Ngạn bật cười: “Đồ điên. Hà! Ngươi khẳng định là một tên điên. Vì viết thiên thư mà ngươi biến thành điên rồi.”
Trác Cuồng Sinh cười nhẹ: “Có thể vì một việc gì đó mà phát điên thì cũng là một kiểu hạnh phúc vì như thế mới có thể có thành tựu. Như ngươi vì Tiểu Bạch Nhạn mà phát điên mới có thể đả động được trái tim non trẻ của nàng ta. Lão tử vì viết thiên thư mà phát điên mới có thể tạo ra tác phẩm ’Ẩu tâm lịch huyết’*. Chỉ cần phương hướng chính xác, không phát điên thì làm sao cho tốt được?”
Cao Ngạn lập tức không nói được gì, một lúc sau than: “Tên điên nhà ngươi, lúc nào cũng có những lý do sai lệch, bẻ cong vấn đề. Đen có thể nói thành trắng, hươu có thể nói thành ngựa được.”
Trác Cuồng Sinh ngưng thần nhìn trận địch, thản nhiên nói: “Lý do sai lệch cũng được, lý do đúng cũng được, đều là đạo lý cả. Tương lai, ngươi có thể cùng Tiểu Bạch Nhạn lưu danh muôn đời hay không toàn là nhờ tên điên này có tiếp tục phát điên nữa hay không đó.”
Cao Ngạn xí xóa: “Dùng ngựa mới thay ngựa cũ quả là tuyệt diệu. Là chủ ý của ai vậy?”
Trác Cuồng Sinh đáp: “Đó chính là một biện pháp bảo trì sỹ khí của Trấn Ác. Nếu không, chiến mã mỏi mệt rồi, chiến sỹ cưỡi trên lưng nó làm gì còn sỹ khí nữa?”
Cao Ngạn hỏi: “Rốt cuộc là bao giờ thì bọn ta bắt đầu tấn công?”
Trác Cuồng Sinh vuốt râu cười đáp: “Thời khắc tấn công chính là một bước rất quan trọng. Ngươi nghĩ xem! Khi màn đêm buông xuống, địch nhân không thể không đốt lửa lớn để chiếu sáng thì sẽ tạo thành cục diện ta ám địch minh, làm địch nhân căn bản không biết bên ta có bao nhiêu người, sẽ bị rơi vào cục diện hoàn toàn bị động. Lần này chúng ta phải đánh cho thật đẹp mắt, tuyệt không cho địch nhân dễ dàng thoát thân. Tông Chính Lương và Hồ Bái hai người đều phải chết. Nếu không, làm sao hiển lộ được thủ đoạn của Hoang nhân chúng ta?”
Tia sáng cuối cùng tắt ở phía trời tây, mặt đất trở nên đen tối. Trong trận địch ánh lửa bừng lên.
Cao Ngạn thoải mái thở ra một hơi nói: “Hà! Địch minh ta ám. Về cảm giác thấy an toàn hơn nhiều.”
Thùng! Thùng! Thùng!
Bờ đông Dĩnh Thuỷ. Ở khu vực bằng phẳng ở mặt Đông của trận địch, , từng hồi trống trận nổi lên truyền lại. Mỗi tiếng trống như đánh thẳng vào tâm khảm người nghe.
Cao Ngạn tinh thần chấn động hỏi: “Phải chăng bắt đầu tấn công?”
Trác Cuồng Sinh đáp: “Làm sao nhanh thế được? Việc đánh trống một mặt là để tăng thêm áp lực lên địch nhân, mặt khác để che giấu âm thanh phát ra khi điều động quân mã. Đợi khi quân ta tiến vào vị trí công kích thì chiến tranh có thể phát động bất cứ lúc nào.”
Cao Ngạn nhìn về phía hạ du Dĩnh Thuỷ. Hai chiếc Song Đầu chiến thuyền vừa lọt vào trong tầm mắt, từ từ tiến về phía trận địch.
Trác Cuồng Sinh đánh giá khí thế bên địch, trầm giọng: “Ta dám đảm bảo người Yên bên trong trận địch đại bộ phận không biết mình đang ở đây làm gì, tại sao phải đến đây, khốn khổ phòng thủ một cửa sông hoang vu này. Không những phải lao tâm lao lực mà còn tắm gió gội sương. Ngược lại, Hoang nhân người nào cũng hiểu rõ không đoạt lại bắc Dĩnh khẩu thì Biên Hoang tập sẽ mất, không còn cách nào tiến hành hành động giải cứu chủ tì Thiên Thiên nữa. Chỉ từ góc độ này mà xét thì sự khác biệt về sỹ khí đã rõ ràng rồi.”
Bóng đêm cuối cùng cũng phủ trùm lên vạn vật. Trên trời lấm chấm các vì sao, trong địch trận ánh lửa chiếu sáng rực.
Bỗng nhiên, ở nơi cách trận địch nửa dặm bên bờ Đông bừng lên ba ngọn đèn hồng quỷ dị phi thường.
Trác Cuồng Sinh hào khí dâng lên tận trời nói: “Trải qua nhiều lần chiến dịch, Hoang nhân chúng ta đã từ một đám ô hợp biến thành đội hùng sư có tổ chức, kỷ luật, lại thiện dụng chiến thuật đánh trong đêm tối dùng đèn hiệu chỉ huy. Đây chính là lấy sở trường của mình đánh sở đoản của địch. Tiểu tử ngươi hãy chờ xem! Một chương hồi mới “Hoang nhân nộ thủ bắc Dĩnh khẩu”** khẳng định là một chương tinh xảo trong thiên thư của ta.”
:77:
Sau khi ăn sáng, Yến Phi và An Ngọc Tình chia tay. An Ngọc Tình tự mình lên đường. Yến Phi đến Mã Hành mới biết Giang Văn Thanh vừa tới Kiến Khang. Yến Phi thầm nghĩ việc Ma môn phải do Giang Văn Thanh tự thân truyền đạt cho Lưu Dụ mới thích hợp. Chàng lại muốn biết tình hình mới nhất của Biên Hoang tập nên sai người tìm cách liên lạc Giang Văn Thanh đến gặp. Khi biết phải chờ hai canh giờ, Yến Phi tranh thủ nghỉ ngơi. Chàng hành khí vận công, tiến vào cảnh giới vật ngã lưỡng vong trong một phòng nhỏ ở Mã Hành.
Khi Yến Phi mở mắt ra thì mặt trời đã ngả về tây.
Cửa mở.
Giang Văn Thanh xuất hiện trước mắt, tươi cười nói: “Thật không tưởng nổi đây? Vừa mới tới Kiến Khang đã được gặp đại anh hùng của Biên Hoang tập chúng ta. Ngươi có biết cả Biên Hoang tập đang chờ ngươi trở về không?”
Tiếp đó, nàng ngồi xuống, tỏ ý xin lỗi: “Xin thứ cho Văn Thanh tội đến trễ vì không những phải ứng phó Tư Mã Nguyên Hiển mà còn phải ứng phó với người cha gian ngoan giảo hoạt của hắn nữa. Tinh thần mà không đầy đủ thì không thể chịu nổi. Hic! Vì sao ngươi lại trừng trừng nhìn Văn Thanh như vậy? Ta chỉ thay đổi nam trang thôi mà! Người ta trước đây cũng thường thích ăn mặc thế này.”
Yến Phi cười: “Đại tiểu thư khơi dậy kí ức của ta ngày trước đối với Biên Hoang công tử. Nhưng tuyệt không chỉ đơn giản vì nàng đóng giả nam trang mà còn vì đại tiểu thư đã hồi phục hết thần thái ngày trước, giống như Biên Hoang công tử đã sống lại rồi vậy.”
Giang Văn Thanh vui vẻ nói: “Ta thực đã có một thời gian dài trầm mê, không biết nên tiếp tục thế nào, cũng không có phương hướng. Đều vì từ nhỏ ta đã sống dưới sự bao bọc của cha ta. Cho đến khi cha bị tên gian tặc đó hại chết, ta không thể không học tập để sống độc lập…. Ài! Tư vị đó tuyệt không dễ chịu.”
Yến Phi hỏi: “Ai phòng thủ bên ngoài thế?”
Giang Văn Thanh ngạc nhiên thốt: “Ngươi không biết sao? Là Khoái Ân đó à! Hắn kiên trì theo ta, nói sợ có thích khách.”
Yến Phi gật đầu: “Hắn là người có mưu có dũng, làm như thế là đúng. Kiến Khang bề ngoài xem chừng hoà bình yên ổn, nhưng ngấm ngầm lại có sóng gió hung dữ, tuyệt không thể sơ sót đại khái được.”
Giang Văn Thanh nhíu mày hỏi: “Yến huynh dường như có ý gì đó, rốt cuộc là chuyện gì vậy? Chút nữa thì quên không hỏi ngươi, Tôn Ân phải chăng đã mất đầu dưới Điệp Luyến Hoa của ngươi?”
Yến Phi đem chuyện quyết chiến với Tôn Ân và Ma môn nói lại những điểm chính, lại nhờ Giang Văn Thanh truyền tin cho Lưu Dụ.
Giang Văn Thanh nghe xong sắc mặt lúc sáng lúc tối xầm, nhất thời nói không ra lời cho thấy việc Yến Phi nói cho nàng biết xung kích nàng mãnh liệt thế nào.
Yến Phi tổng kết: “Nếu ta đoán không nhầm thì Trần công công là thuộc một hệ phái nào đó của Ma môn. Lão trường kỳ làm gián điệp nội ứng bên cạnh Tư Mã Đạo Tử. Người mà Ma môn ủng hộ hiện nay rất nhiều khả năng là Hoàn Huyền, làm Hoàn Huyền thực lực đại tăng, ngàn vạn lần không nên khinh thị hắn.”
Giang Văn Thanh gật đầu đồng ý với nhận xét của chàng. Yến Phi tuyệt không phải là dự đoán không có cơ sở mà là có chứng cứ vì Lý Thục Trang và Can Quy ngấm ngầm câu kết là việc tự miệng Lý Thục Trang thừa nhận với Lưu Dụ.
Yến Phi hỏi: “Tình hình Biên Hoang tập thế nào?”
Giang Văn Thanh bất chợt nhớ lại Cao Ngạn chưa biết sống chết thế nào, ảo não cúi đầu, đem tình hình nguy cấp của Biên Hoang tập nói lại hết cho Yến Phi.
:77:
Cuộc chiến do hai chiếc Song Đầu chiến thuyền khai hoả. Dưới sự yểm hộ của bóng tối, hai chiến thuyền ngược dòng tiến về phía trận địch. Đến cách trận địch hai ngàn bước, vẫn nằm ngoài tầm bắn của máy bắn đá và cung tên của địch nhân thì từ trên thuyền mấy chục tia lửa phóng vọt lên không bắn về phía trận địch. Lửa khói tạo thành từng vệt dư ảnh với quỹ đạo diệu kỳ, sáng rực tuyệt đẹp.
Đó chính là hoả khí ‘Thần hoả phi nha’ do Cơ Biệt đốc thúc thợ lành nghề chế tạo binh khí ngày đêm không nghỉ gấp rút chế ra, lại dựa trên tình hình địch nhân mà cải tiến thiết kế. Hình dạng như con quạ, dùng vải bông quấn lại, bên trong chứa hoả dược, chế thêm đuôi và cánh để tăng cường sự ổn định và sức bay xa khi phi hành trong không trung. Khi bắn ra giống như chim bay.
Dưới bụng quạ có gắn bốn mũi hoả tiễn, trở thành động lực phi hành rất mạnh, làm hoả khí bay xa hơn trăm trượng. Khi đến mục tiêu thì hoả dược phát nổ, không những làm mục tiêu bén lửa bốc cháy mà còn phóng ra độc khí chủ yếu là tì sương, có thể làm địch nhân trúng độc hôn mê. Hơn nữa khói mù mịt, che hết tầm nhìn của địch, vô cùng hữu hiệu.
Dưới tình hình hai quân đối luỹ thì dùng hoả khí công kích đối phương chỉ có tác dụng hữu hạn. Nhưng khi địch nhân cố thủ trong một không gian cố định, lại trong thế bị động như tình hình trước mắt thì hoả khí sẽ phát huy sức sát thương và sức phá huỷ lớn nhất.
Đại bộ phận ‘Phi Nha’ rơi xuống trận địch, nhất thời tiếng nổ liên hồi, hoả quang loé sáng, từng đám khói đen theo gió tản ra bốn phương tám hướng. Nếu như không có gió tây bắc thì tình hình quân Yên càng ác liệt. Nhưng hiện giờ thì khói độc bao trùm toàn bộ trận địa máy bắn đá dưới hạ du.
Hai toà tiễn lâu nhiều chỗ bắt lửa, địch nhân muốn cứu không được.
Đá tảng không ngừng từ máy bắn đá bắn ra, nhưng vì tầm nhìn người Yên bị khói che khuất nên đều mất độ chuẩn xác.
Lập tức trận cước Yên quân đại loạn, không chịu nổi khói độc nên tranh nhau bỏ vị trí, loạn đến nỗi trận thế tan tành, nhất thời mất sức phản kích.
Hai chiếc Song Đầu chiến thuyền không ngừng tiến lại gần trận địch, phát xạ đợt ‘Thần hoả phi nha’ lần thứ hai, cũng là đợt cuối cùng. Lập tức lại có mấy toà tiễn lâu bốc cháy, người Yên kêu khóc chạy loạn lên.
Chiến sỹ Hoang nhân trên Song Đầu thuyền dùng hết hoả khí liền dùng tên lửa thay vào đối phó địch nhân. Bọn họ đã dùng vải ướt bịt chặt mũi miệng nên không sợ khói độc.
Trác Cuồng Sinh, Cao Ngạn và một đám chiến sỹ Hoang nhân thấy Song Đầu thuyền tiến vào đoạn sông Dĩnh Thuỷ bị khói mù bao phủ, không nhìn thấy nữa nhưng vẫn hò hét vang trời trợ uy.
Bọn họ biết thắng lợi đã nắm vào trong tay. Khi Song Đầu thuyền húc gãy phù kiều tạm thời nối liền hai bờ chính là lúc bộ đội lục quân toàn diện tiến công.
Họ vẫn đang chờ đợi.
*****
Yến Phi đứng ở bờ bắc Đại Giang, quay đầu nhìn toà đô thành vĩ đại ở bờ bên kia.
Bất kỳ thành nào cũng sẽ có một ngày rơi vào tay một bên nào đó, đó là tính tất yếu của lịch sử. Mỗi triều đại cuối cùng sẽ có một ngày không thoát khỏi vận mệnh diệt vong, bất kể nó từng hưng thịnh cường mạnh đến thế nào đi nữa. Chia lâu rồi sẽ hợp, thịnh cực tất suy. Nhưng Kiến Khang từng có những tướng soái phong lưu như Tạ An, Tạ Huyền nên khẳng định sẽ danh lưu thiên cổ, mỹ danh không phai mờ.
Kiến Khang là địa phương ngoài Biên Hoang tập làm Yến Phi cảm thụ sâu sắc nhất. Trên Vũ Bình đài của Tần Hoài lâu bên bờ sông Tần Hoài, chàng đã gặp được nữ thần của lòng chàng là Kỷ Thiên Thiên.
Ở Kiến Khang, chàng đã trải qua những ngày tháng mất mát và ảm đạm nhất. Chàng nghĩ tới Vương Đạm Chân, nghĩ tới vận mệnh bi thảm của nàng và quan hệ của nàng với Lưu Dụ.
Nàng là vết thương vĩnh viễn không lành trong lòng Lưu Dụ. Kể cả Lưu Dụ sau này trở thành chủ nhân phương Nam, nhưng quãng đời quá khứ gắn với Vương Đạm Chân sẽ vĩnh viễn đồng hành với gã.
Yến Phi xoay người lại, đối mặt với Kiến Khang đèn lửa huy hoàng, trong lòng trăm mối tơ vò.
Chàng hiểu rõ sở dĩ tâm lý chàng đa sầu đa cảm như thế, nguyên nhân một phần khẳng định là do nguyên khí bản thân bị tổn thương làm định lực giảm mạnh, trở lại trạng thái tinh thần như thời kỳ trước khi thai tức trăm ngày. Nhưng chàng lại có chút hưởng thụ cái cảm giác ‘Người’ đó, làm chàng có những cảm thụ ‘mới lạ’. Một nguyên nhân khác là do Giang Văn Thanh vừa đưa chàng quá giang, nàng biến thân trở lại bộ dạng Biên Hoang công tử như ngày nào, làm dấy lên ký ức của chàng về những ngày đó.
Không thể phủ nhận là cuộc chia tay với An Ngọc Tình cũng khơi dậy trong lòng chàng một tình cảm khó hình dung. Liệu còn có ngày gặp lại nàng không? Những suy nghĩ này tuyệt không xuất hiện trước khi chàng bị Tôn Ân đả thương. Nhưng sau lần quyết chiến thứ ba với Tôn Ân, lão đã làm chàng phát sinh cảm giác nguy hiểm.
Ngay vào lúc chán nản đó, trong lòng chàng xuất hiện cảnh báo.
Yến Phi từ từ quay lại, thấy một nam tử trung niên mặc kiểu văn sỹ, dáng vóc cao lớn. Y chắp tay sau lưng đứng cách hai trượng, nhãn thần lợi hại tưởng chừng có thể nhìn thấu hư thực của chàng, mục quang hắn đang lấp loé như thầm ước lượng chàng. Yến Phi bề ngoài thần sắc không đổi, nhưng trong lòng vô cùng ngạc nhiên. Kể cả linh giác của mình đã giảm mạnh, nhưng người này có thể âm thầm tới cách hai trượng sau lưng chàng mới bị chàng phát hiện đủ biết võ công người này cao minh lợi hại như thế nào.
Người kia ha ha cười nói: “Bản nhân Ba Thục Tiều Phụng Tiên chào hỏi Yến huynh.”
Y vừa lên tiếng, Yến Phi lập tức nhận ra y là cao thủ Ma môn tối qua bí mật gặp gỡ với Lý Thục Trang ở tiểu đình trong vườn của Hoài Nguyệt lâu, bất chợt trong lòng kêu khổ. Nếu như Lý Thục Trang và Trần công công đang ẩn thân trong rừng cây ngoài mười trượng phía sau lưng chàng chờ cơ hội liên thủ tấn công mình, trong khi mình không thể sử ra ‘Tiên Môn kiếm quyết’ thì chàng quả thực lành ít dữ nhiều rồi.
Lý Thục Trang và Trần công công đương nhiên sẽ không tuỳ tiện xuất thủ vì sẽ làm lộ thân phận họ. Nhưng nếu Tiều Phụng Tiên có thể đôi co với mình, hoặc chứng thực được chàng đã bị thương thật thì chàng lập tức gặp nguy hiểm vô cùng.
Yến Phi giả vờ như chưa từng gặp y, nhíu mày hỏi: “Các hạ với Tiều gia ở Ba Thục có quan hệ gì?”
Tiều Phụng Tiên thần thái lạnh lùng, phong phạm của một cao thủ nhất phái cười nhẹ: “Tiều Túng chính là gia huynh.”
Tiếp đó song mục thần quang đại thịnh, điềm đạm: “Hiện giờ Yến huynh đã biết ta ‘lai giả bất thiện, thiện giả bất lai’. Tiều gia chúng ta đang toàn lực ủng hộ Nam Quận công mà Yến huynh lại là cái gai trong mắt Nam Quận công.”
Yến Phi thầm hô lợi hại. Người này thẳng thắn nói rõ ý định đến đây, không phải vì y là người thẳng thắn. Mà vì ý muốn thăm dò tình hình của mình, từ phản ứng của Yến Phi chàng mà y phán đoán, xem chàng phải chăng đã lưỡng bại câu thương với Tôn Ân. Đó là cách giải thích duy nhất đối với việc chàng và Tôn Ân đồng thời vẫn còn sống.
Nói cách khác, Tiều Phụng Tiên chính là cho rằng mình thân thụ nội thương nên cố ý đến chiếm tiện nghi. Y có động thủ hay không còn phải xem phản ứng và biểu hiện của Yến Phi.
Chỉ cần Yến Phi có thể làm y cảm thấy mình hoàn toàn không bị thương thì Lý Thục Trang và Trần công công sẽ không dám mạo hiểm xuất thủ làm tiết lộ thân phận. Nếu không, dù có thể thoát thân đào tẩu, nhưng những tháng ngày trước khi chàng khỏi hẳn thương thế sẽ tuyệt không dễ dàng vì Ma môn sẽ toàn lực tìm giết chàng.
Nhưng làm sao đây?
Yến Phi ung dung nói: “Tiều huynh động thủ đi! Yến Phi xin lĩnh giáo cao minh.”
Tiếu Phụng Tiên song mục bừng lên dị mang màu tím xanh, cho thấy y đang đề tụ Ma công. Cùng lúc đó, Yến Phi cảm thấy không khí xung quanh vốn thanh tân bỗng đột ngột loãng ra, Ma công của đối phương đã khoá chặt chàng.
Cao thủ Ma môn đó ngửa mặt nhìn trời cười lớn: “Quả nhiên ta đoán không sai. Yến Phi ngươi đúng là đã thụ thương, lại là nội thương nghiêm trọng khó có thể khỏi được. Ngươi không thể thi triển kiếm chiêu bá đạo có thể đoạt mất hồn phách người ta nữa. Nếu không, ngươi sẽ không bị ta đến cách sau lưng có hai trượng mới phát sinh cảnh giác, càng không động thủ chỉ động khẩu như bây giờ.”
Yến Phi cuối cùng cũng chứng thực được suy nghĩ vừa rồi.
Lý Thục Trang và Trần công công đang rình mò bên cạnh, xem giờ có phải là cơ hội tốt để giết Yến Phi chàng không. Câu nói của Tiều Phụng Tiên không để cho Yến Phi nghe mà là nói cho bọn họ.
Yến Phi tĩnh tâm lại, bỏ hết tạp niệm khỏi đầu, lập tức cảm giác được khí trường Ma công của Tiều Phụng Tiên có đặc tính chuyển động không ngừng, phiêu hốt khó đoán. Lòng thầm hô nguy hiểm. Nếu như không phải chân khí ’âm trong âm’ của An Ngọc Tình làm nguyên khí bị thương tổn của mình có chuyển biến thì khẳng định không thể phát hiện được đặc tính kỳ dị ma khí của đối phương.
Ý nghĩ này vừa nổi lên, trong lòng Yến Phi đã có mưu kế.
Chú thích
* Ẩu tâm lịch huyết. Thành ngữ này có nghĩa dồn hết sức lực, tâm lực để làm việc gì. Việc này giống như một chuyện thời xưa có một thế cờ tiên là ‘Ẩu Huyết Phổ’, tiên bày thế cờ khó, người mê chơi cờ suy nghĩ mãi đến thổ huyết mà không nghĩ ra được.
** Hoang nhân nộ thủ bắc Dĩnh khẩu: Hoang nhân tức giận đoạt lấy bắc Dĩnh khẩu.
Hết chương 449
~*~*~*~*~*~*~*~*~