Dương Hạo nói: “Đúng thế, đây là giai đoạn thứ nhất: Xưng đế. Kết quả của nó có thể dự liệu được, chúng ta tất phải nghênh sự đả kích cực mạnh của Tống đình, ở giai đoạn này, chúng ta cũng phải tập trung toàn bộ vũ lực để chiến đấu. Trận chiến này tuy chưa chắc có thể giành được toàn thắng, nhưng nhất định phải đánh đủ mạnh, đánh đủ hung, đánh chúng càng đau thì trên dưới Tống Quốc càng sẽ hiểu chúng muốn nuốt ta thì phải bỏ ra cái giá cực lớn, đây sẽ là nền tảng cho bước thứ hai trong kế hoạch.
Đương nhiên, đây chỉ là từ mặt bên ngoài mà nói, còn mặt bên trong thì chúng ta cần phải làm loạn Thục địa ở phía nam, phía bắc thì liên kết với Khiết Đan Liêu Quốc, tiến hành làm rối loạn nội bộ Tống đình, làm cho chúng hữu tâm vô lực, đến khi mệt vì chiến, ghét vì chiến, lúc đó chúng ta sẽ chủ động đầu hàng, vứt bỏ đế hiệu, lại lập vương, để cho bọn họ nấc thang hòa hoãn tình thế. Đây gọi là trời muốn trả giá, đất trả tiền, có lợi nhường ba phần, như thế thì nhìn như chúng ta thua, nhưng thực ra là thắng...”.
Định Nan quân tiết độ sứ vốn có tước vị Tây Bình vương, từ sau khi Chu Ôn diệt Đường lập Đại Lương, thì các chính quyền Trung Nguyên Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu, mỗi triều đều vì lung lạc Tây Bắc, mà đã dùng chính sách dụ dỗ với Thác Bạt thị Hà Tây, tăng thêm ân thưởng, cho nên đã phong thêm tước vị cho tất cả những Định Nan tiết độ sứ làm Tây Bình vương.
Sau khi Tống triều thay Chu, lại lập tức dùng thủ đoạn ân sủng này gia phong Định Nan tiết độ sứ Lý Di Hưng làm thái úy, nhưng không hề hủy bỏ chức Tây Bình Vương, chỉ có điều Tống Quốc tiêu diệt chư quốc Trung Nguyên, nhất thống thiên hạ, làm cho thế lực Tống Quốc càng ngày càng lớn mạnh, Lý thị Hạ biết được mà phòng trước, liền không coi trọng những vương tước vô dụng này nữa, Tống Quốc cũng coi như không có chuyện này, hai bên rất mật thiết ăn ý với nhau.
Nếu như các triều Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu đều thừa nhận thân phận vương tước của Định Nan tiết độ sứ, thì Tống Quốc lại truy phong thừa nhận một chút, nhưng thực ra cũng không coi là rào cản gì lớn”.
Đinh Thừa Tông tán thành nói: “Những lời thái úy nói rất có lý, nếu như sau khi thái úy xưng đế, chúng ta có thể chống lại được công thế cường đại của Tống triều, như vậy là cho hắn được lợi trước, rồi chúng ta chiếm đất xưng vương thì vẫn có thể làm được”.
Dương Hạo đương nhiên biết có thể làm được điểm này, trên thực tế con đường này vốn là con đường Lý Nguyên Hạo đã xưng đế năm xưa, đến tận bây giờ cách hắn mượn dùng cũng là cách của Lý Nguyên Hạo. Đương nhiên có thể đưa ra một phán đoán tương đối chuẩn xác với phản ứng có thể xảy ra của Tống đình.
Dương Hạo lại nói: “Sau khi chiếm đất xưng vương, chúng ta sẽ dung hòa các bộ tộc, nội bộ thì tu binh dưỡng mã, trù bị giáp binh, chấn hưng kinh tế, làm cho dân sinh, nông vượng, ngũ cốc đầy đủ, phủ khố dồi dào. Về đối ngoại thì đồng thời kết giao Liêu và Tống, hai bên mượn lực, mở rộng cương thổ đến Lũng Hữu. Lũng Hữu bây giờ đa phần là ở trong tay người Thổ Phồn, Hồi Hột, còn có một bộ phận nhỏ là địa bàn của người Đảng Hạng Khương. Người Hồi Hột Lũng Hữu chỉ như một đống cát, bộ tộc của người Đảng Hạng Khương còn ít hơn, không đáng để nhắc đến. Trên thực tế chính là nằm trong tay người Thổ Phồn. Tống đình bây giờ vẫn chưa chiếm hết Lũng Hữu, chưa xưng chủ quyền với nó. Đây chính là cơ hội khó có được của chúng ta. Lũng Hữu, tất phải đánh hạ, đây là điều kiện tất yếu cuối cùng để sau khi lập quốc tránh được những cuộc chiến trăm năm với Tống!”.
Trong lịch sử, thời kỳ thịnh vượng nhất của cương vực nước Tây Hạ có thể nói là “Đông tận Hoàng hà, Tây giới Ngọc Môn, Nam tiếp Tiêu Quan, Bắc khống đại mạc”. Dựa vào cương vực này đã giúp cho nó trở thành tam quốc đỉnh lập với Liêu, Tống, nhưng nó lại là phe yếu nhất trong tam quốc, nguyên nhân của nó chính là tiên thiên không đủ.
Nước Tây Hạ trung hưng chính là từ khi Định Nan ngũ châu khởi, khi đó Lý Đức Minh của Tây Hạ cùng lúc xưng thần với Liêu Tống. Liêu Tống vì muốn lôi kéo phe thế lực thứ ba cường đại này, làm cho nó hết sức duy trì thái độ trung lập, cho nên đều tiếp nạp nó. Liêu đế phong Lý Đức Minh làm Tây Bình vương, Tống cũng phong Lý Đức Minh làm Định Nan tiết độ sứ, Tây Bình vương. Tây Hạ bắt đầu mở giao thương buôn bán với hai người Liêu Tống, sau khi ổn định đông phương và bắc phương mới bắt đầu ra hành động lớn, là tây chinh, công đánh chư châu Lương, Cam, Túc, Qua, Sa, cuối cùng thế lực đến thẳng Ngọc Môn.
Đợi khi thế lực của hắn đến được Ngọc Môn quan, lại muốn mở rộng ra phía nam thì đã không thể được nữa, đến lúc đó địa nghiệp của Lũng Hữu đã nằm hết trong tay Tống Quốc, cho nên cương vực Tây Hạ từ đầu đến cuối chỉ có thể bó hẹp ở vùng Hà Tây, nước Tây Hạ chỉ dựa vào vùng đất này mà đã thống trị được hoa ba trăm năm, xưng đế kiến quốc gần hai trăm năm.
Bây giờ nếu như Dương Hạo đã bước lên con đường không thể quay trở lại này thì phải toàn tâm toàn ý vì không gian sinh tồn của mình mà suy nghĩ, hắn nhất thống Hà Tây sớm hơn Lý Nguyên Hạo hơn năm mươi năm, thế lực đã đến được Ngọc Môn quan ngoại, lại muốn mở rộng đất đai thì vùng đất tốt nhất chính là Lũng Hữu, nơi quần hùng tề tựu mà chưa có chủ. Một khi Lũng Hữu đã vào tay thì cương vực của hắn còn lớn gấp nhiều lần so với Tây Hạ quốc trong lịch sử, dân số đương nhiên cũng tăng lên, quốc lực đương nhiên cũng sẽ không giống như xưa nữa. Một tân đế quốc lớn gấp mấy lần Tây Hạ quốc thì khi Tống Quốc phát động chiến tranh tất cũng phải kiêng kỵ thêm một phần.
Nghe đến đây, Chủng Phóng và Chiết Tử Du trong lòng đều nghĩ đến một số vấn đề cụ thể, có điều Dương Hạo vẫn chưa nói đến điểm thứ ba. Mà con người này thường thường hậu phát chế nhân, phía trước có rất nhiều hành động nhìn thì như rất lỗ mãng, có rất nhiều sơ hở, nhưng ai mà biết được đằng sau nó hắn còn có thủ đoạn tuyệt diệu nào khác, cho nên hai người đều không vội chen lời vào, chỉ nghe Dương Hạo tiếp tục nói: “Bước thứ ba, lại thừa cơ xưng đế, nếu như bây giờ chúng ta chiếm Hà Tây rồi xưng đế đến cùng thì Tống Quốc rất có thể sẽ động binh với ta, từ Lũng Hữu xuất Tiêu Quan, từ Hà Đông phạt Hoành Sơn, ép chúng ta chịu địch hai bên, còn nếu như Lũng Hữu vào tay ta, chúng ta sẽ chiếm cứ một vùng đất phì nhiêu, bất luận là việc cung cấp lương thực, hay binh viện thì đều không cần phải lo ngại. Xét từ địa lý mà nói, chúng ta bất kể là xuất binh hay phòng ngự thì cũng có thể tiến thoái thuận tiện, nếu như vậy Tống Quốc cũng sẽ không dám khinh xuất phát binh công thế với ta”.
Dương Hạo nói đến đây thì dừng lại, hỏi ba người đang nhập thần lắng nghe: “Chư vị đối với việc này có ý kiến gì không?”.
Đinh Thừa Tông nghĩ ngợi rồi nói: “Thái úy, vừa rồi ở tiết đường đã từng nói, trong đó có rất nhiều tình tiết cần phải cân nhắc đắn đo, không biết đó là những điểm nào?”.
Dương Hạo mỉm cười, nói: “Theo như ý kiến của ba người thì trong kế hoạch của ta còn có sơ hở gì? Mọi người có thể nói ra để ta suy nghĩ thêm một chút”.
“Ta cho rằng...”.
Chủng Phóng và Chiết Tử Du cùng đồng thanh, không hẹn mà nói ra ba chữ, rồi quay sang nhìn nhau cười, lại đưa tay ra mời đối phương, Dương Hạo không khỏi cười lên, rồi nói: “Chủng huynh, huynh nói đi”.
Chủng Phóng đặt chén rượu xuống, vuốt râu nói: “Thái úy, ta có mấy điều lo lắng, vẫn mong thái úy giải thích cho. Thứ nhất: Sau khi hạ cách xưng vương, mở rộng cương thổ Lũng Hữu, thì làm thế nào để đảm bảo được rằng Tống đình sẽ không xuất binh can dự? Cũng giống như Liêu Quốc sẽ không chịu ngồi yên mà nhìn đất Hà Tây lọt vào tay Tống đình, Tống đình sao có thể khoanh tay đứng nhìn ta đoạt lấy đất Lũng Hữu chứ? Một khi Tống quốc xen vào thì bất kể là cân nhắc từ thực lực hai bên hay là khả năng xuất binh tới Lũng Hữu, thì Tống đình đều chiếm ưu thế tuyệt đối, kế hoạch của chúng ta có tám chín phần là bị thất bại.
Thứ hai, người Thổ Phồn ở Lũng Hữu từ sau khi ngầm nhận được sự ủng hộ của Tống Quốc, bất kể là binh giáp hay lương thực đều dồi dào vô cùng, tốc độ hợp nhất các bộ lạc nhanh chưa từng có. Tuy nói trước mắt có tộc trưởng La Đan kim hãm chúng, nhưng chúng ta một khi xưng vương xưng đế thì trong thời gian dưỡng sức cũng không thể chủ động dụng binh với bên ngoài.
Với thực lực hùng hậu của Tống Quốc, lại có thể trong một thời gian ngắn, tiếp tục ủng hộ cho Thượng Ba Thiên lớn mạnh, nhìn tình thế trước mắt thì trong một thời gian rất ngắn nữa, Thượng Ba Thiên đã có thể thống nhất Hà Tây, thậm chí là nạp tất cả các bộ Hồi Hột, Đảng Hạng bộ lạc mang tinh la kỳ xuống dưới trướng của mình. Đến lúc đó, cho dù không có sự trợ giúp của Tống Quốc thì thế lực của hắn cũng sẽ không kém hơn chúng ta là bao. Một khi chúng ta mưu đồ Lũng Hữu, chẳng qua kết cục sẽ là cả hai bên cùng bị thương, nói không chừng ngược lại còn để Tống Quốc hay Liêu Quốc hưởng lợi, làm thế nào có thể lớn mạnh được?”.
Chiết Tử Du dù sao cũng là nữ nhân, suy nghĩ rất tỉ mỉ, ngoài hai điểm đó ra, nàng còn nghĩ đến một số chuyện nhỏ nhặt khác, ví dụ như khi thực hiện bước đầu tiên, hai bên đến giai đoạn đề xuất xưng thần, nếu như Tống quốc vẫn giữ thái độ cứng rắn, từ chối chấp nhận yêu cầu của Dương Hạo thì phải làm thế nào, có điều nghĩ đi nghĩ lại đây cũng chỉ là chuyện nhỏ, nếu như cứ suy nghĩ nhiều thì khó sẽ tránh được phát hiện ra những vấn đề tương tự như vậy. Nếu nghĩ rằng phải thập toàn thập mỹ mới có thể làm thì dứt khoát không làm gì nữa. Vì thế những suy nghĩ này không cần thiết phải nhắc đến nữa, liền lắc đầu nói: “Không còn, chỉ có hai điểm này, không biết thái úy có cách giải quyết không?”.
Dương Hạo nói: “Vấn đề thứ nhất không cần phải quan tâm, ta rất hiểu con người Triệu Quang Nghĩa, cũng rất hiểu Tống Quốc, bọn họ đại khái có thể đưa ra phản ứng gì, ta vẫn có thể đoán định ra được. Làm thế nào để Tống Quốc khoanh tay đứng nhìn, trong lòng ta đã có cách, chỉ có điều bây giờ vẫn chưa phải là lúc nói công khai ra cho tất cả mọi người biết. Làm thế nào để ngăn cản Thượng Ba Thiên tiếp tục điên cuồng mở rộng đất, rồi nhất thống Lũng Hữu, trở thành đại họa của ta, thì ta đã suy nghĩ rất lâu, cũng chưa tìm ra được cách giải quyết thỏa đáng”.
Chủng Phóng, Chiết Tử Du và Đinh Thừa Tông nghe vậy trong lòng thầm lấy làm lạ. Theo như họ thấy, làm thế nào để Tống Quốc khoanh tay đứng nhìn Dương Hạo nuốt mất Lũng Hữu thật là đại sự khó hơn lên trời, dù sao đứng ở góc độ của Tống quốc thì bất luận như thế nào cũng sẽ không ngồi nhìn một phiên vương bất thuận như Dương Hạo tiếp tục mở rộng cương vực, đồng thời Tống Quốc lại có thực lực để ngăn cản nó. Cho nên bất kể là dùng cách nào, bất kể là người nào đều không thể thay đổi ý định của Triệu Quang Nghĩa.
Còn việc ngăn thế lực của Thượng Ba Thiên tiếp tục mở rộng thì thế lực hai bên tương đương nhau, dù sao cũng dễ hơn một chút. Tuy nói tộc trưởng La Đan của lục cốc phiên bộ chỉ có thể kìm hãm Thượng Ba Thiên trong một thời gian ngắn, không đủ ngăn cản Thượng Ba Thiên tiếp tục mở rộng đất dưới sự trợ giúp của Tống Quốc, nhưng làm chậm lại tốc độ mở rộng thực lực của hắn thì vẫn còn có hy vọng, ngoài ra còn có thể dùng một số thủ đoạn khác, nhưng trong lòng Dương Hạo đó lại là vấn đề khó khăn nhất hắn lại nghĩ ra đầu tiên, còn vấn đề dễ hơn lại không thể nghĩ ra.
Ba người thấy ngữ khí chắc chắn của Dương Hạo lại không chịu nói rõ chi tiết, đành phải áp lại sự tò mò, bắt đầu suy nghĩ đến vấn đề thứ hai.
Bây giờ trong tay Dương Hạo có hai bảo vật mà vào thời cơ thích hợp có thể phát huy tác dụng cực đại, một là ngọc tỷ truyền quốc, một là huyết chiếu của hoàng hậu Tống.
Huyết chiếu đối với Triệu Quang Nghĩa, người luôn tuyên dương thân phận người kế thừa chính thống mà nói có sức sát thương cực đại, còn tác dụng của ngọc tỷ càng lớn hơn, nhưng hai thứ này giống như đội kỵ binh trọng giáp của hắn, lúc thích hợp dùng thì rất có lợi, nhưng lúc không thích hợp mà đem ra dùng lại chỉ có bị phản tác dụng.
Ngày xưa, Đại Hán xa kỳ tướng quân Đổng Thừa lấy được y đới chiếu của Tào Tháo, kết quả lại nhận lấy họa sát thân. Còn những người như Lưu Bang, Tào Phi... Phàm những người lấy được nó đều dùng nó để phục vụ cho việc chứng minh quyền thống trị hợp pháp của mình, nhưng mỗi triều quật khởi thì cùng đồng nghĩa với việc tiền triều vì nó mà bị điệt vong. Vật này phải lựa chọn thời cơ thích hợp mới được dùng, khi thực lực tương xứng sẽ rất có tác dụng, lúc này chỉ có thể coi nó như là một bí mật thôi.
Vì suy nghĩ này mà Dương Hạo đã bỏ ý định đem hai vật này nói cho ba người biết. Bốn người đều có suy nghĩ riêng, trong phòng chợt tĩnh lặng lại, mọi người cùng âm thầm suy nghĩ, thỉnh thoảng lại gắp một miếng thức ăn, nhấm chút rượu, lại trầm mặc trong thời gian khoảng một nén hương, Đinh Thừa Tông từ từ ngẩng đầu dậy, chần chừ một lát, liền nói: “Thái úy muốn đánh lấy Lũng Hữu, còn Thượng Ba Thiên dưới sự ủng hộ của Tống đình mà tốc độ quật khởi không kém gì lúc thái úy mới đến Lô Châu. Tộc trưởng La Đan của lục cốc phiên bộ tuy ngầm có được sự trợ giúp của thái úy, nhưng Thượng Ba Thiên bây giờ giống như thái úy khi lấy được Ngân Châu, còn tộc trưởng La Đan lại còn xa mới bằng được Lý Quang Duệ, về lâu về dài, chỉ dựa vào một La Đan thì tuyệt đối không thể ngăn cản được sự quật khởi của Thượng Ba Thiên”.
Mọi người đều nhìn chăm chú vào Đinh Thừa Tông, Đinh Thừa Tông nói tiếp: “Tình hình như thế này cũng giống như sự tranh chấp không ngừng. Nếu như ở trên thương trường thì với cục diện như thế này vẫn có một cách”.
Dương Hạo vội vã nói: “Ngài nói đi”.
Đinh Thừa Tông nói: “Dẫn một thế lực mới vào trong vòng nước xoáy, địa bàn tổng cộng chỉ có như thế, nếu như dẫn một thế lực mới vào, để cho bọn chúng tự tranh chấp với nhau, kết quả thì đừng ai mong được ngồi chỗ lớn. Đợi khi chúng ta ra tay thì dựa vào thế lực hùng hậu vượt xa bọn họ, lúc đó sẽ thu mua, hoặc đánh áp hoặc phân hóa bọn chúng, cuối cùng nuốt luôn bọn chúng, như vậy còn tránh được cái tiếng phát động chiến tranh trước ở địa phương”.
Ánh mắt ba người Dương Hạo sáng lên, Đinh Thừa Tông vốn chỉ muốn thử đưa ra kiến giải của mình, vừa thấy thần sắc của ba người như vậy, không khỏi thấy được cổ vũ lớn, tiếp tục nói: “Nếu như cách này có thể dùng để mưu quốc, thì... Sau khi hoàn thành bước thứ nhất của kế hoạch, để cho nghĩa quân Thục quốc tiến vào Lũng Hữu thì thế nào? Như vậy có thể tránh được tổn thất vì bị Tống đình bao vây tiêu diệt, lại có thể thực hiện được mục đích kìm hãm Thượng Ba Thiên”.
Nói đến đây, Đinh Thừa Tông liền cười một cách bí hiểm nói: “Tống đình sẽ không ngờ rằng khi chúng ta bị ép từ bỏ đế hiệu, an phận thủ tại Hà Tây, lại còn mưu đồ với Lũng Hữu. Nghĩa quân Thục địa đi rồi, Tống đình không những được thở phào mà đối với cục diện thăng bằng của Lũng Hữu cũng thấy lạc quan hơn. Rốt cuộc Tống đình cũng không hy vọng ở Lũng Hữu lại xuất hiện một Dương thái úy, nhưng Thượng Ba Thiên là người một tay chúng nâng đỡ lên, đến lúc đó lợi dụng hắn để kiềm chế chúng ta, nhưng lại không có cách nào tự mình ra mặt để làm yếu đi thế lực của Thượng Ba Thiên. Thủ đoạn mượn đao giết người này ngay cả Triệu Quang Nghĩa cũng không nghĩ ra, đám văn thần võ tướng của hắn sao có thể can gián được”.
Trong đầu Dương Hạo lập tức xoay chuyển. Nghĩ kỹ, lại phủ định kế hoạch này: “Kế thì hay, chỉ là dùng không thỏa đáng”.
“Sao cơ? Không thỏa đáng chỗ nào?”.
“Nghĩa quân Thục tuy hiệu xưng có mười vạn, nhưng trong đó lại có rất nhiều già trẻ phụ nữ yếu đuối, cố thổ khó rời. Cho dù chúng ta đã khống chế quyền lãnh đạo của bọn họ, cũng rất khó bảo họ quay lưng ra đi, đây là điểm thứ nhất. Điểm thứ hai, Thục Trung đa phần là sơn địa, sĩ tốt nghĩa quân đó đều thiện leo đồi vượt núi, nhưng lại không biết nhiều về cưỡi ngựa, bọn họ không thiện mã chiến, kỵ xạ, cũng không thể làm chiến mã, nuôi chiến mã, một khi đến Lũng Hữu thì ưu thế tác chiến sơn địa sẽ không còn tồn tại nữa, trước mặt thiết kỵ của Thượng Ba Thiên chẳng qua chỉ là một đàn dê cừu đợi thịt mà thôi, không có tác dụng gì”.
Những lời Dương Hạo nói đúng là điểm yếu của nghĩa quân Thục Trung, Đinh Thừa Tông nghe rồi không khỏi thất vọng, Chủng Phóng liền lên tiếng: “Nghĩa quân Thục Trung không thể dùng, vậy A Cổ Lệ ở Cam Châu thì sao?”.
Dương Hạo ngẩn ra: “A Cổ Lệ?”.
Chủng Phóng hưng phấn nói: “Đúng thế, A Cổ Lệ! Nếu như lệnh cho A Cổ Lệ giả vờ tạo phản thái úy, thống lĩnh binh tháo chạy đến Lũng Hữu, không phải đã có hiệu quả phân chia thế lực của Thượng Ba Thiên hay sao?”.
Dương Hạo kinh ngạc nói: “Việc này... Bộ lạc Hồi Hột tuy cũng là bộ lạc du mục định cư trên thảo nguyên, nhưng Hồi Hột Cam Châu ít nhiều cũng có thói quen nông canh, để cho bọn họ mang tộc di dân đến Lũng Hữu, muốn thuyết phục những thủ lĩnh của bọn họ e là rất khó. Hơn nữa, vương phi A Cổ Lệ trước mắt có thật sự trung thành với ta hay không còn chưa xác định được, nếu như đi xa rồi, chúng ta có thể khống chế được nàng ta hay không còn khó dự liệu”.
Đinh Thừa Tông nói: “Vậy chúng ta sẽ khống chế chắc chắn A Cổ Lệ trước?”.
Dương Hạo hỏi lại: “Lòng người cách bởi cái bụng, làm thế nào để xác định được nàng ta hiếu trung hay không?”.
Đinh Thừa Tông thân là người phụ trách Phi Vũ ở Hạ Châu, đối với tình hình bên Cam Châu thì nắm rõ như lòng bàn tay, liền nói: “Ân uy cùng thi hành, vương phi A Cổ Lệ khi chiến một trận với thái úy, với thân phận nữ nhi của mình, lại xông lên làm tiên phong, không sợ sống chết, đó gọi là dũng, là trung. Còn Dạ Lạc Hột lại vứt bỏ nàng, vương phi A Cổ Lệ vẫn canh cánh điều này trong lòng. Nữ nhi gia ở thảo nguyên, yêu hận rõ ràng, tính tình phóng khoáng, vương phi A Cổ Lệ trẻ tuổi xinh đẹp, lại là hậu nhân bộ lạc vương họ trong cửu họ, thân phận rất tôn quý. Nếu như thái úy nạp nàng ta làm thiếp, rồi ban tình ban nghĩa, giữ lại hết gia quyến làm con tin, còn sợ...”.
Hòa thân kết thế ở thời đại đó là chuyện bình thường, nữ tử tái giá, chưa cần nói ở Tây Bắc mà ngay cả ở Trung Nguyên cũng không phải chuyện to tát gì, cho nên ngay như Chủng Phóng, một đại hiền nho gia nghe rồi cũng không cho là sai trái. Còn Dương Hạo, nếu như thật sự xưng đế, vậy vương phi A Cổ Lệ không còn là thiếp nữa, mà là hoàng phi tôn quý, tin tưởng rằng với nhân phẩm tài mạo và thân phận tôn sùng của Dương Hạo, A Cổ Lệ cũng khó tránh động lòng, khi đã rơi vào lưới tình thì kế này có thể thực hiện được.
Hai mắt Chủng Phóng sáng lên, vừa mới muốn mở mồm tán đồng, đốc thúc Dương Hạo làm bá vương nghiệp sủng đồ, kết mối nhân duyên với vương phi A Cổ Lệ, Chiết Tử Du đột nhiên thốt lên: “Không được!”.
Chủng Phóng và Đinh Thừa Tông bây giờ đầu đều đang nằm ở vị trí thần tòng long, với vấn đề mưu nghiệp bá vương nên hoàn toàn quên mất bên cạnh còn có một nữ Gia Cát bị Dương Hạo dày vò biến thành oán phụ trong khuê phòng, lúc nàng vừa mở mồm phản đối, hai người mới chợt nhận ra.
Đinh Thừa Tông thầm nghĩ: “Chiết cô nương à, huynh đệ ta nếu như làm hoàng đế rồi thì hậu cung còn thiếu chỗ của cô sao? Hậu phi của đế vương sao có thể đơn giản là hương phu hiếu tử được, chỉ có thông minh tuyệt đỉnh cũng không có tác dụng. Muốn làm một hiền phi thì cô nương phải bớt chút tính kiêu ngạo đi”. Có điều Đinh Thừa Tông biết trọng lượng của Chiết Tử Du trong lòng Dương Hạo, nên tuy trong lòng có thầm oán trách nhưng không trực tiếp nói ra.
Nhưng Chủng Phóng lại không có những cấm kỵ đó, theo hắn thấy tuy luận chuyện thiên hạ đại sự, nhưng lại để cho một nữ nhân tham dự mưu lược, đó đã là sự xem trọng đặc biệt của Dương Hạo rồi. Tất cả những đại sự dính vào căn bản của giang sơn xã tắc thì tiêu chuẩn cân bằng của nó chỉ có hai chữ “lợi ích”, chưa cần nói Chiết Tử Du và Dương Hạo bây giờ vẫn chưa có quan hệ gì, cho dù nàng ấy là lục cung thống soái, hoàng hậu mẫu nghi thiên hạ thì hắn cũng dám phạm thượng mà can gián. Hắn lập tức trầm mặt xuống, phản bác nói: “Sao lại không được?”.
“Ta...”. Chiết Tử Du ngắc ngứ một hồi. Dương Hạo nhìn nàng, trong mắt dần lộ ra vẻ thú vị: Một mỹ nhân như một cây gỗ, không biết ghen, không biết vì nhỏ nhen một chút thì nào còn vẻ hương sắc đầy sức sống nữa chứ. Đây mới giống một cô nương hoạt bát, khụ khụ, nàng... Chắc là ghen vì ta chứ?
Dương Hạo mừng thầm, ước gì nàng lại lỡ miệng nói ra gì đó nên cũng không vội giải vây. Chiết Tử Du thấy dáng vẻ như đang nghe chuyện cười của hắn, tức khí chỉ muốn đánh cho hắn một trận, nhưng đột nhiên ý chí xoay chuyển, nghĩ ra tâm kế ung dung nói: “Ta là một nữ nhi, đương nhiên hiểu được tâm tư nữ nhi, Dạ Lạc Hột và vương phi A Cổ Lệ vốn là phu thê, nhưng khi gặp đại nạn lại đem nàng ra làm con quỷ chết thế. Bây giờ thái úy lại muốn bí mật nạp nàng làm thiếp, lại thúc giục nàng đi làm việc vì mình, như vậy có gì khác với Dạ Lạc Hột chứ? Vương phi A Cổ Lệ đã bị Dạ Lạc Hột làm đau đớn trái tim, còn có thể tin vào thành ý của thái úy sao? Hồi Hột Cam Châu và người Thổ Phồn Lũng Hữu có giao tình, một khi nàng ấy đến được Lũng Hữu thì sao biết được nàng ấy có cấu kết với bọn họ không?”.
Chủng Phóng nói: “Vậy... Chiết cô nương còn có biện pháp nào tốt hơn không?”.
Chiết Tử Du cười nhạt, liếc mắt nhìn Dương Hạo, khiêu khích nói: “Tiểu nữ đã nhận được sự gợi ý từ hai vị đại nhân, cũng đã nghĩ ra một cách, chỉ là không biết... Thái úy có dám dùng không thôi?”.
*
* *
Lạc Hột và Lý Kế Quân, cùng ba lộ truy binh của Trình Thế Hùng, Lý Kế Đàm, Trương Sùng Nguy đuổi bắt nhau như trò chơi trốn tìm. Lúc này thì chạy tới chân Hoành Sơn, lúc kia lại vượt qua Vô Định Hà, đông trốn tây chạy, ta truy ngươi tháo, khó khăn lắm mới bỏ được một đoạn, khoái mã quất roi ngựa phi nhanh tới Ngân Châu, đến bên bờ Mễ Chi, lại tổn thất thêm hơn một nửa. Nhớ tới cách đây không lâu về trước, mình còn ngồi ở Cam Châu hùng thành, tay nắm cả sáu vạn đại quân, dưới trướng còn cả ba mươi vạn con dân, còn bây giờ căn cơ đã mất, ngay cả vương phi A Cổ Lệ và thứ tử Khúc Ly cũng lần lượt trở thành thứ bỏ đi, bất giác cảm thấy bi thương trong lòng, lớn tiếng khóc vang.
Lý Kế Quân lại rất bình tĩnh, dù sao hắn cũng đã bị uất ức hơn hai năm nay rồi, sự kiêu ngạo ngày xưa sớm đã bị mài mòn đi nhiều, nên rất trầm tĩnh, vừa thấy Dạ Lạc Hột đứng bên bờ sông khóc bi thảm, liền khuyên nhủ: “Khả hãn không cần phải đau lòng nữa, thắng bại là chuyện thường binh gia, khả hãn nhất thời bị thất bại như thế này, nhưng với tốc độ này thì Dương Hạo sẽ càng bại nhanh hơn, bại càng thảm hơn chúng ta. Tống Quốc sẽ không dễ dàng đối phó như vậy đâu, chúng ta tuy bại rồi, nhưng Tống Quốc chưa bại, danh tướng Đại Tống Phan Mỹ, hậu sơn còn vững chắc hơn mấy trăm lần so với chúng ta, Dương Hạo đắc ý nhất thời, chưa chắc đã có kết cục tốt”.
Dạ Lạc Hột đau lòng nhức óc nói: “Cho dù Tống Quốc đánh bại Dương Hạo, làm cho hắn tán dương tán cốt chẳng qua cũng chỉ là làm cho chúng ta bớt tức mà thôi. Nhớ lúc trước Lý gia ngồi vững ở Định Nan ngũ châu, Dạ Lạc Hột ta chiếm cứ bắc tây vọng Cam Châu, là hùng một phương, bây giờ lại rơi vào tình cảnh này, không bao giờ còn có ngày xuất đầu, sao có thể không đau lòng chứ?”.
Trong mắt Lý Kế Quân liền hiện lên một vẻ tản nhẫn, cắn răng nói: “Chúng ta bại thì bại, nhưng nếu nói là không có ngày xuất đầu cũng chưa chắc, cho dù chỉ chừa lại một binh một tốt, chỉ cần tìm được cơ hội, chúng ta cũng có thể có ngày đông sơn tái khởi”.
Dạ Lạc Hột chỉ lắc đầu nói: “Khó, khó như lên trời, không có địa bàn, không có con dân, không có binh mã, xuất lộ duy nhất của chúng ta chỉ có dựa vào Tống đình, chịu sự kìm chế của người ta, làm một con mã tiền tốt, nói đến đông sơn tái khởi há chẳng phải là kẻ khờ nằm mơ sao?”. Lý Kế Quân cười hiểm ác nói: “Chưa nghĩ tới thắng đã nghĩ tới bại, từ khi Lý gia ta mất Hạ Châu, rơi vào cái cảnh này, ta đã hiểu được cái đạo lý này. Thoái lộ, ta sớm đã nghĩ ra”. Hai mắt Dạ Lạc Hột liền sáng lên, vội hỏi: “Còn có thoái lộ sao? Thoái đi đâu?”.
Lý Kế Quân chỉ tay về phía trước, nói: “Xuất Ngân Châu, qua Tuy Châu, vào Lũng Hữu. Lũng Hữu là vùng đất vô chủ, tứ phương hào hùng niên bá, bây giờ Thượng Ba Thiên và La Đan đánh nhau không thể tách ra, chúng ta đến trước tương trợ, Thượng Ba Thiên sao có thể không vui vẻ tiếp đón chứ. Đến lúc đó, đại hãn có thể dùng tôn danh vương giả để chiêu nạp các bộ lạc cũ, tụ hợp người Hồi Hột Lũng Hữu để dùng, còn ta có thể chiêu nạp người Khương ở Lũng Hữu, chúng ta có thể giơ lại kỳ hiệu, chưa chắc đã không phải có cơ hội!”. Dạ Lạc Hột tinh thần phấn chấn, thốt lên: “Không sai! Không sai! Chúng ta vẫn chưa tới đường cùng, có điều...”.
Có được con đường ra này, Dạ Lạc Hột lại suy tính hơn thiệt: “Bây giờ binh mã ta có hạn, lại toàn là thương tốt bại binh, sĩ khí suy giảm, còn có thể đến được Ngân Châu sao? Nếu như Ngân Châu xuất binh ngăn cản thì...”.
Lý Kế Quân thầm chửi trong lòng: “Cái lão già này, thật hổ lúc trước là nhất bá tây vực, chiến bại liên tục đã mất hết sĩ khí rồi”.
Chửi thì cứ chửi, bây giờ hai người hợp binh còn có một con đường sống, nếu như tách ra mà chiến thì đó thật sự sẽ là tử lộ, nên hắn vẫn phải cố kìm nén lại mà an ủi: “Khả hãn yên tâm, trước khi ta đột kích Hạ Châu, ta đã điều tra rất cẩn thận với con đường này. Địa thế Ngân Châu vốn là vùng tất tranh của binh gia, cho nên sớm đã bị Dương Hạo tạo thành một tòa thành kiên cố không thể phá vỡ, nhưng Dương Hạo binh tướng mỏng, bây giờ thủ hạ chỉ có mấy viên lương tướng, hoặc là ở Hoành Sơn, hoặc là ở Cam Lương Sa Quả, hoặc trấn tại Hạ Châu, cho nên Ngân Châu không còn lương tướng nữa.
Bây giờ thủ tướng Ngân Châu là Kha Trấn Ác và Lý Nhất Đức, tên Kha Trấn Ác này rất giỏi thủ thành, nhưng tiến công không giỏi, không phải là tướng thiện chiến. Còn Lý Nhất Đức vốn là trưởng của đại tộc Lý thị Ngân Châu, cho nên được Dương Hạo dùng tới, bây giờ nhậm chức tri phủ Ngân Châu, con người này không biết binh pháp. Trọng yếu Ngân Châu, Dương Hạo sớm đã dặn dò bọn họ cẩn thận, bọn họ sao có thể không biết, sao dám mạo hiểm mà rời thành tấn công địch? Khi ta đến, tứ môn Ngân Châu đóng chặt, như là gặp đại địch, chỉ sợ ta đi đánh chúng. Ha ha, chỉ dựa vào hai tên vô dụng ấy thì chúng ta có ngang nhiên bành trướng đi qua thành Ngân Châu, bọn chúng cũng không dám ra nghênh địch đâu”.
Dạ Lạc Hột nghe vậy mới yên tâm lại nói: “Như vậy thì tốt quá, chúng ta đóng quân ở đây, nghỉ ngơi một lát, sau đó lập tức lên đường, nếu như để truy binh đuổi đến, vậy thì muốn đi cũng không đi được nữa”.
*
* *
Thành Ngân Châu. Kha Trấn Ác mặc một thân áo giáp, tuần hành tứ thành, không chút chậm trễ.
Tuy bây giờ không có chiến sự, phía phòng ngự thành trì cũng mưa gió không lọt, nhưng hắn vẫn rất cẩn thận, một ngày một đêm tuần thành bốn lần, mưa gió cũng không bỏ, còn phái thám mã đi xa trăm dặm, thám thính mọi động tĩnh ở các vùng lân cận Ngân Châu.
Từ lần Ngân Châu mất đi từ trong tay hắn, tuy Dương Hạo không có trách hắn, nhưng mối nhục này hắn vẫn luôn ghi nhớ trong lòng, không dám lơ là một chút nào. Hắn vốn là một trong những tướng lĩnh đầu tiên đi theo Dương Hạo, luận về tư cách và sự từng trải thì không ai có thể vượt qua hắn, nhưng bây giờ hắn chẳng qua vẫn chỉ là thủ thành Ngân Châu, các chiến sự sau này, Dương Hạo rất ít khi để hắn xuất đầu, quyền lực của Dương Hạo càng ngày càng lớn, còn địa vị của hắn trong đám võ tướng của Dương Hạo càng ngày càng nhỏ, Kha Trấn Ác trong lòng nhạy cảm, tự thấy xấu hổ.
Nhưng hắn không chút oán trách nào với Dương Hạo, hắn biết mình tuy là hậu nhân của võ tướng đại Đường, nhưng về bản lĩnh hành quân tác chiến lại chẳng kế thừa được mấy phần. Luận về xung phong lên trận địa hắn không bằng đám tướng Mộc Ân, Mộc Khôi, Ngải Nghĩa Hải. Luận về điều binh khiển tướng, hắn còn xa mới bằng được Chủng Phóng, Trương Phổ, Dương Kế Nghiệp, cho dù là một số hàng tướng như Trương Sùng Nguy, Lý Hoa Đình, bản lĩnh cũng mạnh hơn hắn nhiều.
Cho nên Kha Trấn Ác một mặt làm tốt bổn phận của mình, một mặt nghiên cứu những trang binh thư do tổ tông để lại, hắn luôn mang theo một quyển bên người, khi nào rảnh rỗi lại đem ra xem. Một mặt hắn khổ luyện binh thư, đem những kinh nghiệp thực chiến so sánh đối chiếu với những gì đã đọc được trong binh thư, một mặt thường xuyên tham khảo, học hỏi những vị tướng lĩnh khác, cho dù quan vị của đối phương thấp hơn hắn, hắn cũng không ngại mà hỏi. Cứ lao tâm lao lực như vậy, cho dù cơ thể hắn có khỏe như trâu thì một khi hết ngày, cũng mệt mỏi rã rời.
Bỏ trọng giáp xuống, Kha Trấn Ác mệt mỏi ngồi xuống ghế, Mục phu nhân nghe thấy tướng công đã về, liền đi từ trong nội trái ra, thấy dáng vẻ của tướng công, cảm thấy vô cùng xót xa. Tính tình nàng tuy điêu ngoa, Kha Trấn Ác lại có chút sợ vợ, nhưng tình cảm hai người vô cùng sâu đậm. Mục phu nhân vội bước lên trước, nhẹ đấm bóp vai cho tướng công, dịu dàng nói: “Mệt rồi sao, thiếp đã hầm gà mái với kỳ tử cho chàng, ăn trước đã rồi đi ngủ, đêm nay còn phải đi tuần, đừng để mệt mỏi quá”.
“Nương tử không cần phải bận tâm, cơ thể ta rắn chắc, không có gì đáng ngại cả”. Kha Trấn Ác vồ vỗ vào tay vợ, cười nói. Hắn lại theo thói quen, mang cuốn binh thư đã đọc một nửa từ trong người ra, vừa thường thức sự dịu dàng chăm dóc của thê tử, vừa nhân tiện đọc thêm. Đúng lúc này, một tên tiểu hiệu lưng cắm hồng kỳ chạy vọt vào, chắp quyền bẩm báo: “Báo! Kha tướng quân, bại quân của Dạ Lạc Hột Cam Châu và Lý Phi Thọ Tuy Châu đã chạy hướng về Ngân Châu ta, bây giờ cách thành bảy mươi dặm”. Kha Trấn Ác kinh ngạc, vội vã đứng lên, trầm giọng nói: “Số lượng quân địch là bao nhiêu, trận hình quân như thế nào? Có mang theo vũ khí công thành gì không?”.
Tiểu hiệu đó bẩm báo: “Số lượng quân địch vào khoảng trên dưới một vạn, tuy là bại quân nhưng hình sắc vẫn rất ung dung, không mang theo chiến xa giáp trượng gì, xem ra là muốn đi vòng qua Ngân Châu ta để tháo chạy về Tuy Châu”.
“Tiếp tục thăm đò!”.
“Tuân mệnh!”. Tiểu hiệu đó lại chạy đi như bay, Kha Trấn Ác vội vã cầm áo giáp, vừa đi vừa khoác vào người, Mục Thanh Tuyền nói: “Phu quân muốn đăng thành chuẩn bị thủ thành sao?”.
Kha Trấn Ác nói: “Đúng thế, tuy xem dáng vẻ của chúng không giống như muốn công thành Ngân Châu ta, có điều cẩn thận vạn năm, không thể sơ xuất một khắc, ta lập tức đăng thành thủ thành”.
Mục Thanh Tuyền suy nghĩ một chút rồi vội nói: “Phu quân sao không chủ động xuất thành, ngăn cản đường thoái lui của chúng”.
“Sao cơ?”. Kha Trấn Ác dừng tay lại, kinh ngạc nhìn ái thê, chần chừ nói: “Chủ động dẫn binh ngăn cản đường thoái lui của chúng sao?”.
Mục Thanh Tuyền bước tới gần, dịu đàng nói: “Phu quân, khi binh Tuy Châu đến, binh mã gần bốn vạn người, bọn chúng giống như một bó đuốc đem từ Tuy Châu đến, phu quân lại chỉ có binh lực một vạn năm nghìn thủ tốt, không thể xuất chiến, một mặt lại đi bẩm báo với Hạ Châu, một mặt thủ thành trì, đây là cách làm thỏa đáng. Còn bây giờ, quân địch đại bại quay về, quân tình truyền báo lại nói bây giờ ba vị đại nhân Lý Kế Đàm, Trương Sùng Nguy, Trình Thế Hùng đang truy đuổi phía sau. Địch sớm đã sắp tan thuyền rồi, không thể chiến một trận lớn, nếu như chúng ta vẫn kiên thủ thành trì, ngồi nhìn chúng chạy thoát, há chẳng phải là mất đi chiến cơ sao?”.
“Ừm...”. Kha Trấn Ác dắt đao vào hông, trầm giọng nói: “Thái úy lệnh cho ta bảo vệ Ngân Châu, còn bây giờ... Vạn nhất có gì không hay, Kha Trấn Ác này có chết trăm lần cũng không thể chuộc tội”.
Mục Thanh Tuyền lại nói: “Phu quân vẫn đang tự trách mình vì lần trước để thất thủ thành Ngân Châu sao? Phu quân, thắng bại là chuyện thường của binh gia, cho dù là quân thần binh thánh cũng không thể không có lúc bại trận, mất chiến cơ, nếu như chỉ vì một lần thất bại mà sợ lớn sợ bé, không dám chủ động nắm bắt chiến cơ, vậy người đó không phải là bại một lần, mà là vì một lần bại mà thành một kẻ thất bại cả đời.
Bây giờ quân địch tổng cộng chỉ có hơn một vạn, hơn nữa đều là tàn binh bại tướng, chiến lực của chúng chỉ cần nghĩ cũng biết. Bọn chúng nếu đã đến đây thì ba vị tướng quân Lý, Trương, Trình chậm lắm thì nửa ngày cũng tới, lúc này chủ động ép địch ở ngoài, nguy hiểm cực nhỏ. Nếu như có thể bắt được cả hai tên đó thì đối với thái úy mà nói lại là đại hỉ làm chấn hưng lòng quân, phu quân cũng vì thế mà được nở mày nở mặt. Còn nếu như phu quân vui vẻ, mở to mắt để cho chúng tháo chạy qua trước mắt mình, thì sau này trước mặt các vị đồng liêu còn thể diện gì nữa, trước mặt đám thuộc hạ còn có thể ngẩng đầu không?”.
Kha Trấn Ác nghe vậy lòng rất rung động, nhưng thất bại lần trước suýt nữa đã đưa tang cả gia quyến nhà thái úy. Chuyện lần đó quả thực như một ngọn lửa yêu ma vô hình cứ dày vò hắn, cho nên hắn vẫn chần chừ nói: “Nhưng... Nhưng Ngân Châu là một môn hộ trọng yếu của thái úy, nếu như nơi này mất đi thì Kha Trấn Ác ta có chết tạ tội cũng không thể đền hết, thật sự nếu như có chút chuyện, chỉ e...”.
Mục Thanh Tuyền đã có chút tức giận, trầm giọng nói: “Phu quân, tình hình quân địch bây giờ đang gặp nhiều bất lợi, cũng không thể dễ dàng lấy đi Ngân Châu ta, huống hồ viện quân rất nhanh sẽ đến, còn ý đồ của quân địch là tháo chạy. Làm tướng thì trí, tín, nhân, dũng, nghiêm, đều không thể thiếu được, nếu như ngay cả việc này chàng cũng không làm được thì chúng ta đừng làm chức quan này nữa, thiếp sẽ thu dọn hành lý, thỉnh phu quân xin từ quan với thái úy, chúng ta trở về Mục Kha trại tiếp tục làm người săn bắn trong rùng”.
Kha Trấn Ác bị thê tử kích cho mấy câu, không khỏi mặt đỏ lên, cắn răng nói: “Được! Ta sẽ dẫn năm nghìn binh xuất thành chiếm cứ yếu địa, cản đường lui của địch, thành Ngân Châu này...”.
Mục Thanh Tuyền nói: “Thiếp sẽ lập tức mặc giáp, thay phu quân phòng ngự thành, bên Lý đại nhân thiếp cũng sẽ thay phu quân báo một tiếng, binh quý thần tốc, không thể chần chừ. Phu quân, nếu đã quyết định rồi thì không thể có một chút do dự nào nữa”.
“Ta biết rồi, ta đi đây”. Kha Trấn Ác vỗ vỗ vỏ đao, mặt mày đầy hào khí, hắn xoay người bước đi, đi đến cửa đột nhiên quay người lại, hô lên: “Nương tử!”.
Mục Thanh Tuyền đang định quay vào hậu trái mặc giáp, nghe tiếng gọi liền tức giận nói: “Lại sao nữa?”.
Kha Trấn Ác đứng yên tại chỗ nói: “Kha Trấn Ác có được hiền thê như nàng, đời này không còn gì phải hối hận”. Nói rồi liền quay người chạy nhanh như bay.
Mục Thanh Tuyền ngẩn ra, nhìn theo lưng hắn, đột nhiên lau lau khóe mắt, mắng nhẹ: “Đồ ngốc này...”. Nhưng khóe miệng nàng lại nở ra một nụ cười ngọt ngào.
Mục Thanh Tuyền vừa vội vã bẩm báo cho Lý Nhất Đức, vừa đích thân mặc giáp đăng đài thủ thành. Kha Trấn Ác điểm đủ năm nghìn binh, lên khoái mã xuất thành tới núi Đàn Hợp Yên, phía tây thành Ngân Châu. Nơi này là con đường binh mã của Dạ Lạc Hột và Lý Phi Thọ phải đi qua, nơi này có ưu thế về địa lý, nếu như muốn đánh ngăn chặn thì đây là lựa chọn thích hợp nhất.
Kha Trấn Ác đem binh đi trước tới Đản Hợp Yên, lập tức bố trí trận hình, đào chiến hào, hố mai phục, nơi bắn cung, dưới sự bố trí của Kha Trấn Ác, mọi thứ đều đâu ra đấy. Phòng ngự chính là bản lĩnh lớn nhất của Kha Trấn Ác, hơn nữa hắn giỏi nhất lợi dụng địa hình xung quanh, cho dù là một cành cây một cọng cỏ, một tảng đá hay một cái hố đều có thể được hắn dùng tới.
Thời gian này tuy ngắn, nhưng dưới sự chỉ huy của hắn, quả đồi thấp này cũng trong một thời gian ngắn được hắn biến thành một tòa binh ải giống như khuôn đúc, Kha Trấn Ác đã dùng đến trận nhãn của Điêu Thuyền động trong truyền thuyết. Hắn đưa mắt nhìn về xa xa thấy đã có bóng đáng của quân địch, lại thấy trận địa phòng ngự mình vừa mới hoàn thành, đột nhiên động linh cơ, liền gọi người cắm nhiều cờ trên đỉnh núi, chặt nhiều cây giả làm một số lô cốt. Nhất thời nhìn binh mã trên núi, như thăng gấp nhiều lần.
*
* *
Binh mã của Dạ Lạc Hột và Lý Kế Quân vội vã tháo chay qua chân Đàn Hợp Yên, từ xa đã nhìn thấy có rất nhiều cờ trên núi, binh mã bố trí dày đặc, Dạ Lạc Hột vội vã ghìm cương ngựa lại, sợ hãi thất sắc, tang thương nói: “Xong rồi, xong rồi, lần này thì xong rồi, ngài không phải đã nói là binh mã Ngân Châu tuyệt đối không dám xuất thành nghênh chiến sao, ngài nhìn xem kia là cái gì?”.
Lý Kế Quân thấy khí thế binh ải tiền phương nghiêm mật, trong lòng đột nhiên nặng nề: “Tính sai rồi, ta lại tính sai rồi, lẽ nào... Lẽ nào ông trời thật sự đã định Lý Kế Quân ta phải mất mạng tại đây?”.
Bọn họ không phải là sợ chiến, chỉ là truy binh đuổi quá sát, lần này tuy có thể bỏ xa một chút, nhưng chưa cần tới nửa ngày truy binh cũng sẽ đuổi tới. Lại nhìn trận hình phía trước, e là thủ quân Ngân Châu đã xuất hết quân tinh nhuệ ra, thề không để cho một binh một tốt của bọn họ tìm thấy đường sống, nếu thật như đánh một trận thì quả núi này bọn họ chưa chắc đã có thể công đánh, cho dù có đánh được cũng không phải là chuyện một sớm một chiều có thể làm được, mà khi đó truy binh tất cũng đuổi đến, bọn họ nào có cơ hội thoát được.