Một bông hồng vô danh
"Chúc chị Ngày Tình yêu hạnh phúc," một trong những cô giáo đã gọi tôi khi chúng tôi rời trường học và đi bộ ra bãi đậu xe.
"Cám ơn em, cũng chúc em Ngày Tình yêu hạnh phúc."
Cô ấy cười khì khì khi tôi đáp lại lời chúc tụng. "Hôm nay sẽ là Ngày Tình yêu lãng mạn nhất từ đó đến nay. Burt và em đang đi xem nhẫn kim cương, và anh ấy hỏi em thích loại nhẫn nào. Em chắc là tối nay anh ấy sẽ ngỏ lời với em."
"Chúc mừng em," tôi nói. "Lẽ ra chị nên chúc mừng cô dâu và nói 'những lời chúc tốt đẹp nhất' đến em."
"Thôi, chị cứ giữ lấy những lời chúc ấy đi, phòng trường hợp em hiểu lầm ý của anh ấy." Dù cô ấy mỉm cười, song tôi vẫn thấy được vẻ lo lắng trong đôi mắt của cô ấy.
"Thứ Bảy không đi dạy và chị không thể đợi đến thứ Hai được," tôi nói. "Vậy ngày mai em nhớ gọi điện báo tin vui cho chị nhé."
"Được ạ. Nếu như không thấy em gọi đến, chị biết là tin xấu nhé."
"Sẽ là tin vui mà," tôi làm dấu hiệu giơ ngón cái lên trấn an cô ấy.
Tôi nhìn người giáo viên trẻ tuổi hân hoan dần đi khuất. Cô ấy đang yêu say đắm và phấn khởi chuẩn bị cho buổi tối lãng mạn của mình, tôi cảm được tâm trạng của cô ấy.
Lạy trời,tôi thì thầm,xin người hãy biến cái ngày hôm nay thành một ngày hạnh phúc để cô ấy nhớ mãi, chứ đừng là một ngày thất vọng. Xin phù hộ cho cô ấy nhận được lời cầu hôn và chiếc nhẫn như cô ấy mong muốn, và xin phù hộ cho tình yêu của họ kéo dài mãi mãi.Và rồi tôi nói thêm,Xin hãy giúp cho con vượt qua được nỗi đau khi nhớ lại cái Ngày lễ Tình yêu đặc biệt của con.
Ray và tôi đã hò hẹn với nhau suốt nhiều năm và yêu nhau đắm đuối, nhưng rất nhiều chướng ngại khiến chúng tôi không cưới được nhau. Cuối cùng thì cũng đến lúc chúng tôi có thể chung sống được với nhau, và dù chúng tôi không thể tổ chức được một đám cưới lớn, rạng rỡ thì chúng tôi cũng muốn hôn lễ của chúng tôi thật đặc biệt.
"Chúng mình cưới nhau vào Ngày lễ Tình yêu anh nhé," tôi nói với Ray. "Để cho dù anh có đãng trí đến mấy thì anh cũng sẽ không quên được ngày cưới của mình."
Điều kỳ diệu là Ray chẳng khi nào quên kỷ niệm ngày cưới của chúng tôi. Dĩ nhiên là có thể các tấm thiếp mừng Ngày lễ Tình yêu mà tôi luôn giăng khắp nhà suốt nhiều tuần trước đó đã khiến anh không thể quên được.
Nhân dịp kỷ niệm mười hai năm ngày cưới, chúng tôi mời hai cặp vợ chồng người bạn rất thân đến, và Ray đã tặng tôi mười hai bông hồng đỏ thắm còn để cành dài. "Mỗi bông tượng trưng cho một năm hạnh phúc," anh viết như thế lên tấm thiếp Valentine đầy tình cảm đính kèm.
Đó là lễ kỷ niệm ngày cưới cuối cùng chúng tôi tổ chức với nhau. Ray mất tám tháng sau đó.
Cái ngày tôi chọn để cho anh có thể nhớ mãi đã trở thành cái ngày tôi chỉ ước sao mình có thể quên được. Nhưng tôi chẳng bao giờ làm được điều đó. Điều tệ hại nhất là giờ đây mỗi năm chỉ còn có mình tôi vào Ngày lễ Tình yêu.
Các con của tôi giờ đã lớn và đã lập gia đình. Mary, cô bạn diễn viên của tôi đang tập dượt cho vở diễn mới, và tôi không còn có thể dựa dẫm vào người bạn thường tới lui với tôi là cô ấy được nữa. Chẳng có tí lãng mạn nào nơi đường chântrời, chẳng có lấy một đứa cháu nhỏ nào tặng tôi một trái tim được vẽ bằng bút chì. Vì tôi là một người dạy học, nhưng lại không có một lớp dạy đều đặn và thường xuyên nên tôi không được tặng nhiều thiếp dành cho "nhà giáo".
Nghĩ đến chuyện phải về ngôi nhà vắng vẻ, cô đơn làm cho tôi não lòng, thế là tôi dừng lại tại một khu phố buôn bán. Chẳng có thứ gì làm cho tôi phải để mắt đến, và tôi cứ đi lòng vòng, đầu óc đâu đâu. Mùi thức ăn ngon lành thoảng đưa khi tôi đi ngang một nhà hàng lớn nhắc tôi là tôi đang đói bụng, nhưng tôi không có lòng dạ nào mà vào đó có một mình. Tôi nghĩ đến chuyện đi xem phim, nhưng một lần nữa tôi lại không thể đối diện được chuyện phải đến rạp chiếu bóng một mình một bóng.
Thấy chẳng có nơi nào có thể đến được, thế là tôi về nhà. Căn nhà tối om om khi tôi de xe vào. Chiếc đèn tự động bật lên khi xe tôi chạy vào đến nhà. Tôi lấy bức thư trong thùng thư ra, một tay cầm chặt bức thư, tay kia mở cánh cửa chắn bão.
Trên bậc thềm giữa hai cánh cửa là một cái hộp dẹp, dài, bọc trong miếng giấy xanh lá: tôi khó lòng chần chờ chuyện mở giấy gói ra.
Khi đã vào trong nhà, tôi vội mở tấm giấy, lộ ra dưới tấm giấy là một cành hồng đỏ tuyệt đẹp. Vẻ đẹp và hương thơm ngọt ngào của bông hồng nhắc tôi về mười hai cành hồng đỏ mà Ray từng tặng tôi từ lâu lắm. Tôi xé toạc giấy gói để tìm tấm thiếp nhưng chẳng có lấy một mảnh giấy. Tôi tìm manh mối để biết ai là người gửi đến, nhưng cuối cùng vẫn bó tay.
Sau một hồi, tôi gọi cho con trai và con gái tôi, nhưng chẳng có đứa nào biết được bất cứ điều gì về cành hồng ấy. "Chắc là có một người bí mật nào ngưỡng mộ mẹ rồi," con trai tôi nói. "Có một anh chàng nào ngoài đường đang quan tâm đến mẹ."
Giải thích của cô con gái nghe không phấn khởi bằng. "Người giao hoa chắc giao nhầm nhà rồi."
"Đâu có địa chỉ nào ghi trên hộp đâu con," tôi nói với nó. "Chắc chắn là người tặng hoa tự tay đem đến."
"Vậy thì có lẽ là một người hàng xóm - một người hàng xóm nào đó muốn cám ơn mẹ vì mẹ đã làm một điều tốt đẹp nào đó cho họ."
Khả năng này nghe có vẻ hợp lý, và tôi bóp đầu bóp óc tìm hiểu xem mình đã làm điều đặc biệt nào cho hàng xóm nào. Chẳng tìm được gì, tôi chuyển sang lời giải thích của cậu con. Tôi phải chấp nhận ý kiến là có một người ngưỡng mộ bí mật nào đó muốn làm tôi tò mò. Là một con người đầy lãng mạn lại có trí tưởng tượng của một nhà văn, tôi đã bỏ cả thời gian còn lại của buổi tối ngồi thêu dệt mọi kiểu cốt truyện xoay quanh ý kiến đó. Thực sự tôi đã trở nên chìm đắm trong công việc đó đến quên cả việc hôm nay là ngày tôi muốn quên.
Tôi chẳng bao giờ biết được ai đã tặng tôi cành hồng ấy, nhưng tôi biết người ấy phải là một người bạn tốt. Một người bạn đã làm vui sướng tôi bằng cách để cho tôi biết có người yêu thương tôi nhưng vẫn đủ thông minh để làm cho tôi phải thắc mắc về người đó.
Kể từ đó, bắt đầu là với cô giáo trẻ, người đã không nhận được lời cầu hôn như hy vọng, tôi đã tặng một cành hồng vô danh đến rất nhiều bạn bè đang gặp chuyện đau khổ. Tôi hy vọng mỗi cành hồng sẽ mang đến thật nhiều sự an ủi cũng như niềm an ủi mà cành hồng tôi đã nhận đã đem lại cho tôi.
POLLY MORAN
Chiếc áo khoác màu đỏ
Những miếng vải hình vuông và hình tam giác dành để may tấm chăn ghép vải tuôn xuống đùi cô như những đồ trang sức. Những miếng màu vàng óng, xanh lá và đỏ. Cô lùa tay qua một nùi len đỏ sẫm và mỉm cười.
Hôm ấy là một ngày lạnh lẽo và đầy gió, mùa đông đã đến bén gót của mùa thu. Cô đón Abby từ trường về và hai mẹ con đi xe buýt xuống phố. Abby quấn người trong một chiếc áo khoác chui đầu của chị họ Linda Sue cho. Đó là chiếc áo cổ lông thỏ tuyệt hảo, và đan cầu kỳ. Hai mẹ con xuống xe buýt và cô nắm chặt tay Abby khi băng vội qua đường. Gió lật tung một tờ báo và lùa qua chiếc áo khoác màu nâu mỏng manh của cô - vẫn chiếc áo mà cô đã mua từ trước chiến tranh. Từ đó đến nay các kiểu áo khoác đã thay đổi nhiều, vạt áo hết bị xén ngắn lên rồi lại thả xuống cứ như thang máy vậy. Bây giờ chiếc áo khoác không còn đủ chỗ để mà thay đổi nữa, và chiếc váy dài của cô ló ra khỏi gấu áo khoác như một tấm rèm chắn bụi.
John ở nhà từ hồi tháng Chín, và công việc duy nhất anh ấy có thể làm là làm lao công trong một bệnh viện. Anh ấy hy vọng được đi học lớp đêm vào tháng Giêng; giáo dục dường như là tấm vé để có một công việc làm tốt hơn. Sau đó anh tiết kiệm và dành dụm, và sáng hôm ấy anh trao cho cô mười hai đô la và nói, "Giờ em hãy ghé qua tiệm Harricks và tìm cho em một áo khoác đông tốt tốt đi." Cô đồng ý và nghĩ sẽ khó tìm được một chiếc áo khoác coi được chỉ với mười hai đô la. Cô biết là anh có ý tốt, nhưng có lẽ tốt hơn là nên để số tiền này xuống dưới đệm dành cho những ngày túng thiếu. Chúa biết hai vợ chồng hay gặp cảnh khó khăn lắm.
Khi cô và Abby vào tiệm Harricks, bỗng cô nhớ ra thuở trước cô thường hay đi mua sắm ở đó với mẹ, cái thuở khi tiền còn dồi dào, trước lúc cô chống ý cha mẹ đi kết hôn với John. Giờ đây cửa tiệm này trông như một vùng đất xa lạ, và cô cảm thấy mình như là một kẻ đột nhập.
"Tôi có thể giúp được gì cho chị?" Một phụ nữ phốp pháp đang vuốt thẳng mấy đôi găng tay trong tủ kính trưng bày hỏi.
"Không, cám ơn chị. Tôi chỉ muốn đi xem vòng vòng một chút." Không cần phải nói với bà ấy rằng cô đang tìm một chiếc áo khoác chỉ với mười hai đô la trong ví. Bà ấy cười chết.
Cô đi khắp cửa tiệm, vờ như đang quan sát những bộ đồ đẹp đẽ. Abby chỉ một váy dạ hội màu xanh lông công. "Cái váy đó mẹ mặc sẽ đẹp lắm đó." Cô khẽ vuốt mái tóc nâu mềm mượt của con gái, in hệt mái tóc của cô, và mỉm cười. Cuối cùng hai mẹ con ra đến phía sau của cửa hiệu và cô quay lại, chuẩn bị bỏ cuộc. Cô thở ra thất vọng. Nhưng nằm trong góc là một cái kệ trên bày nhiều thứ hàng khác nhau, tấm biển phía trên đề chữ: "Hạ giá". Cô liếc mắt nhìn lên kệ và có cái vật gì đó màu đỏ khiến cô chú ý. Hóa ra là một chiếc áo len có màu đỏ rất đáng yêu, đúng màu đỏ sẫm.
Cô cẩn thận lấy chiếc áo ra khỏi móc và săm soi tìm bảng giá. Chắc chắn là dù có hạ giá đi nữa thì cái áo này cũng vẫn rất đắt đây.
"Mẹ ơi, bảng giá đề mười hai đô la!" Abby vui mừng đưa cái ống tay áo có đính bảng giá màu vàng sáng lên. "Mẹ có thể mua nó đó! Giá này vừa đủ luôn."
"Ồ, chắc không đúng đâu. Nó đẹp quá mà. Chắc người ta để nhầm giá rồi."
"Thử đi mẹ. Mình xem xem nó có vừa không." Abby giật mạnh cái ống tay áo khoác cũ của cô.
"Có khả năng nó không vừa kích cỡ của mẹ đâu." Nói thế nhưng cô cũng cởi áo cũ của mình ra và tròng chiếc áo khoác đỏ vào. Cô không thể giải thích được tại sao chiếc áo tạo cảm giác như mật ngọt vậy. Trông nó ngon lành làm sao.
"Vừa quá mẹ ơi. Nó lại còn đẹp nữa! Mẹ trông như một công chúa vậy." Abby đẩy cô lại phía cái gương. Trông đẹp thật, quá đẹp nữa là đằng khác. Và có lẽ cái màu đỏ ấy, dù rất xinh, nhưng quá sáng đối với một phụ nữ ba mươi tuổi. Cô treo chiếc áo lại kệ nhưng tay vẫn giữ lấy chiếc áo và ngắm ngía nó lần nữa. Nó được thiết kế thật đẹp, khuy nút được may viền và những chiếc cúc áo lớn bằng xà cừ. Lớp vải lót là sa tanh nặng, mềm mại - đó là lý do tại sao nó tạo cảm giác như mật.
"Mẹ sẽ mua nó chứ?"
"Mẹ không biết Abby à. Mẹ nghĩ có sự nhầm lẫn nào đó. Đây là một chiếc áo khoác được may rất đẹp. Bảng giá đề không đúng đâu. Những cái áo khoác như thế này không thể có kết thúc là nằm trên kệ hàng hạ giá được, nhất là vào tháng Mười Một."
"Bảng giá ghi là mười hai đô la; nó phải đúng là mười hai đô chứ." Abby khoanh tay lại, đôi chân nhỏ giậm giậm mất kiên nhẫn. "Ba nói mẹ định mua một cái áo khoác mà. Giờ mẹ lấy nó đi."
Cô nhìn Abby mỉm cười rồi lấy chiếc áo vắt ngang cánh tay và đi về phía quầy tính tiền. Một phụ nữ có tuổi đang đứng chờ tính tiền tại quầy. Người bán hàng cẩn thận đặt một chiếc mũ nỉ màu nâu gắn một sợi lông vũ đen vào trong một chiếc hộp đựng mũ và ghi giá.
"Ba mươi hai đô la," người bán hàng thông báo, và người phụ nữ viết một tấm ngân phiếu mà thậm chí không hề chớp mắt. Bà nhấc cái hộp xinh xắn của bà lên và chúc người bán một ngày tốt lành.
"Tôi có thể giúp được gì cho chị không?" Người bán dịu dàng hỏi. Bàn tay cô ấy chìa ra định đỡ lấy chiếc áo khoác.
"Không, tôi, ơ, tôi nghĩ tôi muốn đi xem thêm chút nữa." Cô bước ra sau và săm soi lại chiếc áo. Bảng giá đề lầm rồi. Nếu một chiếc nón trông bờm xờm có giá những ba mươi hai đô la thì làm sao mà chiếc áo khoác xinh đẹp này lại chỉ có mười hai đô la thôi?
"Mẹ làm gì vậy mẹ?" Abby càu nhàu khi nó theo cô đi ra lại kệ bán hàng giảm giá.
"Cưng à, mẹ biết là có nhầm lẫn rồi. Con không thể mua một chiếc áo khoác như thế này với chỉ mười hai đô la. Không cần phải hỏi nữa. Mẹ con mình mà hỏi thì ê lắm."
"Nhưng cái bảng giá đề là..."
"Suỵt, con à, đừng ồn ào nữa." Cô nhìn quanh.
Có một vài khách mua hàng khác đang đến gần. Cô nhận ra Lily Andrews. Cô này mới đến thị trấn này, chồng cô ấy là một bác sĩ. Andrews nhìn về phía hai mẹ con cô mỉm cười và thẳng hướng về phía kệ hàng giảm giá. Trông có vẻ lạ khi một người khá giả như thế lại quan tâm đến những thứ hàng giảm giá.Tay cô ấy dừng lại nơi chiếc áo khoác đỏ và cô ấy lấy nó ra khỏi mắc áo.
"Tôi có thể giúp được gì cho chị?" Người bán hỏi.
"Chiếc áo khoác này thật đẹp. Chỉ với giá mười hai đô la thôi ư?"
"Đúng vậy. Nó tồn lại từ năm ngoái; một người đã trả lại nó vào tháng Bảy, thật đấy. Một bà đã giữ nó suốt cả mùa đông và chẳng bao giờ mặc nó. Thậm chí bà ấy còn không gỡ bảng giá, nhãn hiệu ra nữa. Chủ tiệm chỉ muốn tống nó đi vì nó không ăn rơ với những hàng mới ở phía trước. Nó quả là một món hời..."
Cô không còn có thể nghe thấy gì nữa. Cô nắm lấy tay Abby rồi nhanh chóng bỏ ra.
"Nhưng mẹ ơi, đó là áo của m..."
"Suỵt."
Nước mắt ứa ra làm cay mắt cô khi gió bên ngoài mỗi lúc thổi lạnh hơn. Vẫn còn quá sớm, chuyến xe buýt đi về vẫn chưa đến, nhưng hai mẹ con vẫn ngồi sát vào nhau cho ấm trên băng ghế chờ xe buýt.
"Tại sao mẹ lại không lấy cái áo khoác của mẹ?" Giọng Abby nghe thật buồn.
"Mẹ không biết, cưng à."
Làm sao cô có thể nói với con là bởi vì cô ngu ngốc? Không chỉ ngu ngốc không thôi, cô còn quá sĩ diện không chịu đi hỏi nữa. Cô giải thích ra sao với John rằng con gái tám tuổi của họ còn nhạy hơn mẹ nó. Cô run rẩy. Cô lại phải tiếp tục một mùa đông nữa trong chiếc áo khoác sờn cũ. Điều đó sẽ dạy cho cô một bài học!
"Chị ơi," một giọng nói gọi cô. Cô nhìn lên và thấy Lily Andrews.
"Vâng?"
"Tôi biết điều mình sắp nói ra đây nghe có vẻ kỳ lạ. Hãy tin tôi, tôi không thường làm những điều như thế này, tôi có một cảm giác mãnh liệt là muốn tặng nó cho chị. Tôi cũng chẳng biết tại sao nữa." Cô ấy chìa gói đồ về phía hai mẹ con.
"Tôi không hiểu..."
"Tôi cũng vậy. Nhưng cứ như thể Chúa bảo tôi phải làm thế. Tôi biết nghe rất lạ; chị có thể nghĩ chắc là tôi điên rồi."
"Lạ thật." Cô thò tay vào túi. "Tôi suýt nữa đã mua chiếc áo khoác này cách đây vài phút. Hãy để tôi gửi lại tiền cho chị." Cô vội lục tìm cái ví.
"Đừng làm thế. Tôi có ấn tượng mình phải tặng nó cho chị. Chị không cần phải trả tôi tiền. Tôi xin lỗi. Hẳn tôi trông như bà khùng..." Mặt cô đỏ lự, và mắt mọng nước.
"Nhưng tôi không thể lấy nó được; giống như từ thiện vậy."
"Không, đây không phải là từ thiện. Cứ đi đi và cho số tiền ấy cho ai cần đến nó nếu như chị muốn. Nhưng tôi biết tôi phải tặng cho chị cái áo này. Tôi xin lỗi nếu như tôi hành động như khùng; nhưng đây là lần đầu tiên tôi nghĩ là mình đã nghe thấy Chúa bảo tôi làm một điều gì đó. Chị hãy để cho tôi được làm điều này. Cứ nghĩ đây là một món quà của Chúa."
Đã hơn bốn thập niên trôi qua. Bà đã mặc cái áo khoác ấy suốt nhiều mùa đông. Cuối cùng nó lỗi thời đến mức Abby phải kêu bà bỏ nó đi, nhưng bà không đành lòng lìa xa nó. Nó được gói cất trong một cái rương trong nhiều năm, và bà chỉ nghĩ đến nó vào tuần trước, khi bác sĩ Andrews qua đời và bà muốn làm một điều gì đó đặc biệt cho bà bạn Lily của bà. Giờ đây bà đang cẩn thận cắt những miếng vải may thành một tấm chăn cho người bạn tốt của bà. Bà hy vọng rằng nó sẽ là một nguồn an ủi và một thứ nhắc nhở rằng niềm tin có thể được tìm thấy trong những thứ nho nhỏ như những chiếc áo khoác len màu đỏ... và củng cố tình bạn.
MELODY CARLSON