Câu Lạc Bộ Dumas

Chương 2: Chương 2: BÀN TAY NGƯỜI CHẾT




Milady mỉm cười, và d’Artagnan cảm thấy chàng có thể xuống địa ngục rồi từ đó quay về vì nụ cười đó.

A.Dumas, BA NGƯỜI LÍNH NGỰ LÂM.

Có những bà góa không thể an ủi được và cũng có những bà mà bất kỳ người đàn ông nào cũng sẵn lòng đưa ra những lời khuyên thích hợp. Liana Taillefer chắc chắn thuộc loại thứ hai. Cao lớn tóc vàng, làn da trắng xanh, điệu bộ uể oải, ả thuộc loại đàn bà châm thuốc lá lâu ghê gớm và suốt thời gian đó cứ nhìn thẳng vào mắt người đàn ông. Vẻ lạnh lùng cao ngạo đó là kết quả của việc ả biết mình hao hao giống nữ minh tinh Kim Novak dù rằng thân hình hơi quá phì nhiêu, và là người hưởng lợi duy nhất từ ngài Enrique Taillefer quá cố, chủ nhà xuất bản và công ty trách nhiệm hữu hạn có tài khoản nhà băng mà thuật ngữ “có khả năng thanh toán” chỉ là một cách nói mập mờ hoa mỹ mà thôi. Thật đáng ngạc nhiên về số “xiền” một cá nhân có thể kiếm được từ việc xuất bản mấy cuốn sách dạy nấu ăn, thí dụ như Một ngàn món tráng miệng ngon nhất của La Mancha hay mười lăm xuất bản phẩm bán chạy nhất thuộc loại sách cổ điển đó, Bí quyết các món nướng.

Nhà Taillefer sống tại một căn hộ sang trọng ở nơi từng là lâu đài Marqués de Los Alumbres. Về phương diện trang trí, người chủ có vẻ nhiều tiền hơn là khiếu thẩm mỹ. Đó có thể là lý do duy nhất biện minh cho việc đặt thứ đồ sứ khó coi của Lladro – cô bé và con vịt – trong cùng một ngăn tủ với tượng mấy người chăn cừu bé nhỏ của hãng Meissen mà Enrique Taillefer quá cố hoặc bà vợ hẳn đã phải trả một món hậu hĩnh cho một tay buôn đồ cổ ma mãnh đặng mua về, Corso bình thản ghi nhận vậy. Tất nhiên còn có một cái bàn Bierdermeier và một chiếc piano Steinway đặt trên tấm thảm phương Đông quý phái. Và một sofa ấm cúng bọc da màu trắng trên đó Liana Taillefer ngồi vắt tréo đôi chân với những đường nét tuyệt mỹ. Chiếc váy đen dành cho các bà góa sành điệu chỉ che đến trên đầu gối khi ngồi, gợi ý tế nhị tới những đường cong phong nhiêu, bí ẩn và tăm tối ở phía trên, theo lời kể của Corso sau này. Cần nói thêm rằng không nên xem thường bình luận của Corso. Gã giống như một trong những tay đàn ông tư cách đáng ngờ sống với bà mẹ già mà mỗi sớm Chủ nhật đều vá áo rồi mang nước ca cao đến bên giường cho con; cái loại con cái hay xuất hiện trên phim ảnh, mắt đỏ hoe, vừa kéo lê hình hài cô độc theo quan tài dưới trời mưa vừa nức nở tuyệt vọng gọi mẹ, hệt một đứa bé mồ côi không nơi nương tựa. Nhưng cả đời Corso chưa bao giờ cần nhờ ai. Và nếu biết gã rõ hơn, hẳn bạn sẽ nghi ngờ liệu đã khi nào gã có một bà mẹ hay chưa.

“Tôi xin lỗi đã quấy rầy bà vào lúc như thế này,” Corso nói.

Gã ngồi đối diện người đàn bà góa, áo khoác vẫn trên người, cái túi vải trên đầu gối, thân hình vươn thẳng ghé vào mép ghế. Đôi mắt to xanh nhạt lạnh băng của Liana Taillefer chậm rãi quét từ đầu đến chân gã như thể muốn xác định gã thuộc típ đàn ông nào ả từng biết. Gã dám đảm bảo việc đó không dễ tí nào. Lặng lẽ chịu đựng ánh mắt dò xét của ả, gã cố không tạo nên ấn tượng nào đặc biệt. Gã đã quen với trò này và biết rằng lúc đó bà quả phụ Taillefer chẳng hề đánh giá gã cao cho lắm. Dù sao thì điều đó cũng hạn chế bớt việc dò xét bởi thói tò mò không đáng có. Ả đã bắt Corso chờ đợi mười phút sau khi gã cãi lộn với cô hầu phòng cho rằng gã là một tay chào hàng và định sập cửa trước mũi gã. Nhưng giờ tình thế đã thay đổi, người đàn bà góa đang liếc nhìn tập bản thảo bọc nhựa gã moi từ trong túi ra. Về phần gã, qua cặp kính cong queo, Corso buộc mình dõi theo cái nhìn chằm chặp của Liana Taillefer để khỏi bị hút vào những lượn cát nóng bỏng khiến người ta choáng váng ngất ngây kéo dài từ trên ngực (bộ ngực phì nhiêu, từ này mới chuẩn, gã quyết định sau khi đã nghĩ hồi lâu) xuống tận gót dưới chiếc áo len angora bó sát thân hình.

“Sẽ rất có ích cho tôi,” sau cùng gã nói, “nếu bà nói cho tôi những điều bà biết về tài liệu này.”

Gã đưa tập bản thảo cho ả, bất chợt bàn tay gã chạm nhẹ vào những móng tay dài sơn đỏ như máu. Cũng có thể tay ả quệt vào tay gã. Bất kể thế nào, sự đụng chạm này cũng cho thấy mệnh giá của Corso đã tăng lên đáng kể. Gã liền ra cái vẻ bối rối rất chi là thích hợp, vừa đủ để ả thấy rằng quấy quả một góa phụ xinh đẹp không phải là thói quen của gã. Bây giờ thì đôi mắt xanh không còn nhìn vào tập bản thảo nữa, nó nhắm thẳng vào Corso và lóe lên thích thú.

“Tại sao tôi phải biết về nó?” người đàn bà góa hỏi, giọng sâu lắng và hơi khô. Dấu hiệu của một đêm nặng nề. Ả chưa lật xem bản thảo mà vẫn đăm đăm nhìn Corso, như đang chờ điều gì khác trước khi xem bản thảo và thỏa mãn trí tò mò. Gã chỉnh lại cặp kính trên sống mũi và làm bộ nghiêm nghị. Đây là bước giới thiệu theo khuôn phép, vì vậy gã muốn dành “nụ cười thỏ non” cho bước sau.

“Cho đến gần đây nó thuộc về ông nhà.” Gã ngừng một chút. “Cầu cho linh hồn ông ấy bình an.”

Ả chậm rãi gật đầu, tuồng như nói thế là đã rõ, rồi mở tập bản thảo. Corso nhìn lên tường qua vai ả. Ở đó, giữa bức tranh của Tapies và một bức khác mà Corso không nhận ra chữ ký, là một khung tranh thêu với đường nét trẻ thơ có những bông hoa nhỏ nhiều màu sắc, có ký tên và đề ngày tháng: Liana Lasauca, năm học 1970-1971. Corso nghĩ tác phẩm sẽ thành công nếu những bông hoa, mấy con chim thêu và cô bé mang tất ngắn có bím tóc vàng kia thuộc loại có khả năng làm trái tim gã tan chảy. Nhưng chúng lại không được như thế. Vì vậy gã quay sang một bức hình nhỏ trong khung bạc. Trong hình là ngài Taillefer quá cố, ông chủ nhà xuất bản, với cái muỗng thử rượu vang bằng vàng đeo trên cổ, đeo chiếc tạp dề bằng da khiến ông ta trông như một tay thợ nề. Ông ta đang chuẩn bị xẻ thịt một con lợn sữa quay và mỉm cười với ống kính. Một tay cầm cái đĩa, tay kia cầm một trong mấy ấn phẩm thành công. Ông ta nom bình thản, múp míp, bụng phưỡn, hớn hở trước con vật bé nhỏ nằm trên cái đĩa trước mặt. Corso tự nhủ, Taillefer chết sớm thì ít nhất cũng đỡ phải lo lắng về bệnh gút và cholesterol cao. Gã cũng băn khoăn, với bản tính tò mò lạnh lùng nghề nghiệp, không hiểu lúc chồng còn sống Liana Taillefer làm sao để có thể đạt đến cực khoái khi ả cần cực khoái. Nghĩ vậy, gã liếc nhanh bộ ngực và cặp chân người góa phụ và tin là mình đúng. Còn lâu ả mới thỏa mãn với con lợn sữa nọ.

“Đây là của cái ông Dumas ấy,” ả nói và Corso hơi nhổm lên, lanh lợi và nhạy bén. Liana Taillefer gõ gõ móng tay đỏ chót lên cái vỏ nhựa của tập bản thảo. “Cái chương nổi tiếng. Đương nhiên tôi biết.” Mái tóc xõa xuống mặt khi ả nghiêng đầu về phía trước. Nhìn người khách qua suối tóc vàng với vẻ nghi hoặc, Liana hỏi, “Làm sao nó ở trong tay ông?”

“Chồng bà bán đi. Tôi đang cố tìm hiểu xem nó có phải đồ thật hay không.”

Người đàn bà góa nhún vai. “Theo như tôi biết, nó không phải là đồ giả.” Ả thở dai đưa trả lại tập bản thảo. “Ông nói ông ấy bán nó đi ư? Thật lạ.” Ả nghĩ ngợi đôi chút. “Bản thảo này có ý nghĩa với Enrique nhiều lắm.”

“Có thể bà nhớ ông nhà đã mua nó ở đâu.”

“Khó nói lắm. Tôi nghĩ ai đó đã mang đến cho ông ấy.”

“Ông ấy có từng sưu tập những bản thảo gốc không?”

“Theo tôi biết đây là bản duy nhất ông ấy có.”

“Ông nhà có từng nói là định bán nó không?”

“Không. Đây là lần đầu tiên tôi nghe thấy thế. Ai mua nó vậy?”

“Một người buôn sách, khách hàng của tôi. Anh ta sẽ bán ngay sau khi tôi có bản báo cáo về nó.”

Liana Taillefer quyết định chiếu cố tới Corso thêm một chút. Thân giá của gã tăng vọt. Gã tháo kính ra lau bằng cái khăn tay nhàu nát. Không có kính trông gã vụng về yếu ớt hơn, gã biết thế. Khi gã nheo mắt như một con thỏ cận thị, ai cũng cảm thấy mình có nghĩa vụ giúp gã qua đường.

“Đây là nghề của ông à?” ả hỏi. “Chứng thực các bản thảo?”

Gã thoáng gật đầu. Người đàn bà góa trở nên mờ ảo và, thật lạ, gần gũi hơn.

“Đôi khi. Tôi cũng săn lùng sách hiếm, tranh in, những thứ tương tự. Tôi được trả tiền để làm chuyện đó.”

“Bao nhiêu?”

“Cũng tùy.” Gã đeo lại cặp kính và hình bóng Liana rõ nét trở lại. “Đôi khi rất nhiều, đôi khi chẳng đáng gì. Thị trường lên xuống lung tung.”

“Ông là một loại thám tử, đúng không?” ả vui hẳn lên. “Thám tử về sách.”

Đúng là thời điểm để mỉm cười. Gã cười, chìa ra bộ răng cửa, với mức độ khiêm nhường được tính tới từng milimet. Chấp nhận ta đi, nụ cười của gã nói.

“Phải . Tôi nghĩ bà có thể gọi như vậy.”

“Và khách hàng của ông kêu ông tới gặp tôi?”

“Đúng thế.” Lúc này gã có thể cho phép mình trông đáng tin cậy hơn, vì vậy gã gõ gõ mấy đốt ngón tay lên tập bản thảo. “Nói cho cùng thì tập bản thảo này từ đây mà ra. Từ nhà bà.”

Góa phụ chậm rãi gật đầu, mắt nhìn tập bản thảo, như đang nghĩ gì đó. “Thật là kỳ,” ả nói. “Tôi không tưởng tượng là Enrique lại đem bán bản thảo này. Mặc dầu mấy ngày cuối cùng hành vi của ông ấy khá lạ lùng… Ông nói tên người buôn sách đó là gì nhỉ? Người chủ mới ấy.”

“Tôi chưa nói.”

Ả ngạc nhiên song bình thản nhìn gã từ trên xuống dưới. Có vẻ ả không quen chờ đợi quá ba giây để khiến một người đàn ông bất kỳ làm theo ý mình.

“Vậy thì nói đi.”

Corso đợi một lát, đủ để Liana Taillefer bắt đầu sốt ruột gõ móng tay lên thành ghế sofa.

“Tên hắn là La Ponte,” sau cùng gã đáp. Đây là một mánh khóe của gã: nhượng bộ ít nhưng đủ khiến người khác cảm thấy thắng lợi. “Bà biết hắn?”

“Tất nhiên. Anh ta cung cấp sách cho chồng tôi.” Ả cau mày. “Anh ta thường lượn qua lượn lại mang tới cho ông ấy những tờ báo đăng những câu chuyện nhiều kỳ ngu ngốc. Tôi nghĩ anh ta có một tờ phiếu thu. Tôi muốn có một bản copy tờ phiếu đó, nếu anh ta không phiền.”

Corso khẽ gật và hơi nghiêng mình về phía ả. “Chồng bà rất hâm mộ Alexandre Dumas phải không?”

“Dumas á?” Liana Taillefer mỉm cười rũ lại mái tóc, mắt lóe lên vẻ giễu cợt. “Theo tôi.”

Ả đứng dậy, khoan thai, chậm rãi vuốt váy cho phẳng, nhìn quanh như thể chợt quên mất mình đứng lên làm gì. Ngay cả khi không mang giày cao gót ả cũng cao hơn Corso nhiều. Corso theo Liana Taillefer sang phòng làm việc kế bên. Theo sau ả, gã để ý tấm lưng rộng cùng cái eo chắc lẳn của ả, như của một vận động viên bơi lội. Gã đoán ả chừng ba mươi. Ả có nhiều tiềm năng trở thành một người phu nữ Bắc Âu với bộ hông không biết nghỉ ngơi được tạo nên để cho ra đời những chú Erik và Siegfried tóc vàng.

“Tôi ước chúng đều là của Dumas,” ả trỏ những thứ trong phòng và nói. “Xem đi.”

Corso đưa mắt nhìn. Những bức tường phủ kín các giá sách oằn mình dưới sức nặng của những tập sách dày. Bản năng chuyên nghiệp khiến gã ứa nước miếng. Bước vài bước về phía trước, Corso sửa lại kính. Bá tước de Charny, Alexandre Dumas, tám tập, bộ sưu tập tiểu thuyết có hình minh họa do Vicente Blasco Ibanez biên tập. Hai nàng Diana, A. Dumas, ba tập. Ba người lính ngự lâm, A. Dumas, bốn tập, nhà xuất bản Miguel Guijarro, tranh khắc của Ortega. Bá tước Monte Cristo, A. Dumas, bốn tập của nhà xuất bản Juan Ros, tranh khắc của A. Gil. Cả bốn mươi tập Rocambole của Ponson du Terrail. Toàn tập Pardellanes của Zevaco. Lại Dumas nữa, ngoài ra còn có chín tập Victor Hugo và cũng ngần ấy cuốn của Paul Feval, có một cuốn Thằng gù[1] đóng bìa sang trọng bằng da Maroc màu đỏ viền vàng. Và The Pickwicj Papers của Dickens được Benito Pérez Galdós dịch sang tiếng Tây Ban Nha, cùng với mấy tập của Barbey d’Aurevilly và Bí mật thành Paris của Eugène Sue. Còn đây nữa Dumas – Bốn mươi lăm người lính cận vệ, Chuỗi hạt của Nữ hoàng, Các bạn đồng hành của Jehu rồi cuốn Cuộc báo thù ở đảo Corso của Mérimée. Mười lăm tập Sabatini, một số cuốn của Ortega y Frías, Conan Doyle, Manuel Fernández y González, Maye Reid, Patricio de la Escosura…

[1] Thằng gù: truyện phiêu lưu lịch sử của Paul Féval (1816-1887), xuất bản năm 1858 ở Paris.

“Hết sức ấn tượng,” Corso đánh giá. “Ở đây có bao nhiêu cuốn sách?”

“Không biết. Chừng hai ngàn. Hầu hết là ấn bản lần đầu theo xê ri, vì được đóng bìa theo từng kỳ. Một số có minh họa. Chồng tôi là một người sưu tầm nhiều tham vọng, ông ấy có thể trả bất cứ giá nào.”

“Xem ở đây thì thấy ông nhà đúng là một người đầy nhiệt huyết.”

“Nhiệt huyết?” Liana Taillefer mỉm cười ngỡ ngàng. “Đó thực sự là một niềm say mê.”

“Tôi muốn nói tới nghệ thuật ẩm thực…”

“Mấy cuốn sách dạy nấu ăn hoàn toàn chỉ là phương tiện kiếm tiền. Enrique có bàn tay vàng: trong tay ông ấy một cuốn sách dạy nấu ăn rẻ tiền cũng trở thành hàng bán chạy nhất. Nhưng đây mới là thứ ông ấy yêu quý thực sự. Ông ấy thích nhốt mình ở đây lật lật những tập sách cũ này. Chúng thường được in trên giấy xấu và ông ấy bị ám ảnh với ý nghĩ mình phải bảo vệ chúng. Ông có thấy cái nhiệt kế và cái đầu đo độ ẩm không? Ông ấy có thể đọc thuộc lòng tất cả các trang trong mấy cuốn ưa thích. Thỉnh thoảng lại thốt lên ‘lạy Chúa’ hay ‘úi dà’ v.v. Mấy tháng cuối cùng ông ấy viết.”

“Một thiên tiểu thuyết lịch sử?”

“Truyện nhiều kỳ. Tất nhiên, sao mà khác được.” Liana lại gần giá sách, lấy xuống một bản thảo viết tay dày, các trang được khâu vào nhau bằng tay. Nét chữ tròn và to. “Ông nghĩ gì về tựa đề của nó?”

“Bàn tay người chết hay tiểu sử Nữ hoàng Anne nước Áo[2],” Corso đọc. “Ồ, quả thực…” Gã đặt một ngón tay lên hàng lông mày để tìm từ chính xác. “Rất có ý nghĩa.”

[2] Anne Nữ hoàng nước Áo (1601-1666), đương kim Nữ hoàng nước Pháp và xứ Narva, nhiếp chính thay cho con trai Louis 14. Trong thời bà trị vì (1643-1651), Hồng y giáo chủ Mazarin giữ chức Thủ tướng. Là một nhân vật trung tâm trong Ba người lính ngự lâm của Dumas.

“Và chán ngắt,” ả tiếp lời, xếp lại tập bản thảo. “Hoàn toàn lỗi thời. Đúng là ngu ngốc, bảo đảm thế. Tin tôi đi, tôi biết mình nói gì. Mỗi lần viết xong một phần, ông ấy lại bắt tôi nghe từng trang, từ đầu chí cuối.” Ả cay đắng gõ lên dòng tựa đề được viết chữ hoa. “Trời ạ, tôi căm ghét mụ nữ hoàng ngu ngốc và cuốn tiểu sử này quá chừng.”

“Ông nhà dự định sẽ xuất bản chứ?”

“Phải, tất nhiên. Ký tên giả. Có lẽ ông ấy sẽ chọn cái tên gì đấy như Tristan de Longueville hay Paulo Florentini. Đó là tính cách rất điển hình của ông ấy.”

“Còn về chuyện tự treo cổ? Có phải cũng là tính cách của ông ấy không?”

Liana Taillefer lặng im chăm chú nhìn những bức tường với các đường viền bằng sách. Một sự im lặng khó chịu, Corso nghĩ, mặc dù hơi miễn cưỡng. Có vẻ ả đang làm bộ đắm mình trong suy nghĩ, giống như một diễn viên ngừng lại trước khi tiếp tục đoạn đối thoại để tăng tính thuyết phục.

“Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra,” ả đáp sau khi đã hoàn toàn trấn tĩnh lại. “Trong tuần cuối cùng ông ấy tỏ ra thù địch và phiền muộn. Hiếm khi rời khỏi chỗ này. Rồi một chiều ông ấy ra ngoài và sập cửa lại. Sớm tinh mơ trở về. Tôi đang nằm trên giường thì nghe thấy tiếng đóng cửa. Sáng ra tôi bị tiếng rú của chị giúp việc đánh thức. Enrique tự treo cổ trên cái giá đèn.”

Đến đây ả nhìn Corso, quan sát hiệu quả lời nói của mình. Ả không có vẻ suy sụp, gã nghĩ, nhớ lại bức ảnh có cái tạp dề và con lợn sữa. Thậm chí gã còn thấy ả chớp mắt, như thể muốn ngăn một giọt nước mắt rơi xuống, nhưng cặp mắt ráo hoảnh. Tất nhiên cái đó chẳng có nghĩa gì. Hàng trăm thứ mỹ phẩm có thể bị nước mắt làm cho nhoe nhoét đã dạy cho phụ nữ biết cách kiểm soát tình cảm của mình. Và lớp phấn bóng mờ Liana Taillefer dùng để tôn đôi mắt vẫn còn hoàn hảo.

“Ông nhà có để lại bức thư nào không?” Corso hỏi. “Những người tự tử thường làm vậy.”

“Ông ấy quyết định miễn cho mình không phải phí sức làm chuyện ấy. Không giải thích, dù chỉ vài chữ. Không gì hết. Chính thói ích kỷ của ông ấy bắt tôi phải trả lời hàng đống câu hỏi của nhân viên điều tra và cảnh sát. Rất mất hứng, tin tôi đi.

“Tôi hiểu.”

“Phải, tôi chắc chắn là ông hiểu.”

Liana Taillefer ra hiệu buổi gặp gỡ đã tới lúc kết thúc. Ả tiễn ra cửa rồi chìa tay cho gã. Tập bản thảo trên tay và cái túi đeo vai, Corso bắt tay ả và cảm thấy cái bắt tay siết chặt từ phía đối phương. Trong thâm tâm, gã đánh giá cao màn diễn của ả. Không giống một góa phụ vui sướng, cũng không suy sụp vì đau buồn; cũng không tỏ ra lạnh lùng Tôi thật mừng vì tên ngốc đó đã ra đi hoặc Rốt cuộc cũng còn lại mình ta hay Giờ thì có thể ra khỏi tủ áo rồi cưng à. Nếu có ai đó từ trong tủ chui ra thì cũng chẳng phải việc của Corso. Kể cả chuyện Enrique Taillefer tự sát, dù có kỳ quái đến đâu đi nữa – mà đúng là kỳ quái thật, Chúa phù hộ chúng con, với toàn bộ câu chuyện về Nữ hoàng và tập bản thảo thất lạc kia. Hiện giờ thì cả người chết lẫn bà quả phụ xinh đẹp đều chẳng có gì liên quan tới gã. Hiện giờ thì vậy.

Gã nhìn ả. Mình khoái biết kẻ nào sẽ có được cưng, gã nghĩ với sự tò mò lạnh lùng. Gã hình dung người đó trong đầu: đẹp trai, lão luyện, học thức, giàu. Gã gần như chắc trăm phần trăm đó là một người bạn của ông chồng quá cố. Gã cũng tự hỏi không hiểu việc gã chủ nhà xuất bản tự tử có gì liên quan đến chuyện đó không, rồi bực tức thôi không nghĩ nữa. Chẳng biết có phải do thói quen nghề nghiệp hay không, đôi khi thật buồn cười là gã đâm ra suy luận giống như một tay cớm. Gã ngấm ngầm run lên. Ai biết được sự tha hóa, sự ngu xuẩn ẩn giấu sâu đến đâu trong tâm hồn chúng ta?

“Tôi muốn cảm ơn bà đã dành thời gian tiếp tôi,” gã nói, chọn nụ cười khả ái nhất trong kho nụ cười của mình khiến gã trông giống như một con thỏ dễ thương.

Chẳng có phản ứng gì. Ả đang nhìn bản thảo của Dumas.

“Không cần cảm ơn. Tôi chỉ tự nhiên muốn biết những chuyện này kết thúc như thế nào thôi.”

“Tôi sẽ cho bà biết nó tiến triển thế nào. À, còn một chuyện nữa. Bà định giữ lại bộ sưu tập của ông nhà hay bán đi?”

Ả ngẩn người nhìn gã. Theo kinh nghiệm, Corso biết rằng khi nhà sưu tầm sách chết đi, thông thường những cuốn sách sẽ theo người chết ra khỏi nhà trong vòng một ngày. Thực ngạc nhiên là cho đến giờ những đồng nghiệp kẻ cướp của gã chưa ai xuất hiện. Nói gì thì nói, như chính ả thừa nhận, Liana Taillefer không hề chia sẻ sở thích văn học với ông chồng.

“Sự thực là tôi chưa có lúc nào nghĩ đến chuyện đó… Ông muốn nói ông quan tâm tới đám sách cũ này?”

“Có lẽ.”

Ả do dự một chút. Có vẻ lâu hơn cần thiết vài giây. “Chuyện xảy ra mới quá,” sau cùng ả thở dài hợp cách và trả lời. “Có thể vài ngày tới.”

Corso vịn tay vào lan can bắt đầu đi xuống thang. Gã chậm chạp đặt mấy bước đầu tiên với cảm giác không thoải mái, như thể để quên thứ gì đó ở phía sau mà không sao nhớ ra đó là cái gì. Gã chắc mình không quên gì. Tới chỗ chiếu nghỉ đầu tiên, gã ngẩng đầu lên thì thấy Liana Taillefer đứng bên cạnh cửa nhìn gã. Ả có vẻ vừa tò mò vừa bối rối. Corso tiếp tục bước xuống thang, khung nhìn của mắt gã giống như một chiếc camera chầm chậm quét dọc thân hình ả. Rời khỏi đôi mắt xanh dò hỏi, gã lướt qua bộ ngực, vòng hông, rồi tới đôi chân rắn chắc với màu da trắng xanh hơi choãi ra, vững chãi như những cây cột trong đền thờ, khơi gợi và khiêu khích.

Đầu óc vẫn chuếch choáng, Corso xuyên qua sảnh lớn của tòa nhà rồi bước ra đường. Gã có ít nhất năm nghi vấn chưa có lời giải và cần phải sắp xếp chúng theo thứ tự mức độ quan trọng. Dừng lại trước hàng rào chắn công viên El Retiro, gã nhìn ngẫu nhiên sang bên trái chờ một chiếc taxi. Một chiếc Jaguar to tướng đậu cách đó vài mét. Tay lái xe mặc đồng phục xám sẫm gần như đen đang tì tay vào nắp ca pô đọc báo. Đúng lúc ấy, hắn nhìn lên và ánh mắt hai người gặp nhau trong một giây. Rồi gã kia lại cúi xuống đọc báo. Hắn có làn da ngăm đen, để ria, một vết sẹo trắng bợt ở một bên má kéo dài từ trên xuống dưới. Corso có cảm giác trông tay tài xế quen quen, rõ ràng nhắc gã nhớ tới ai đấy. Đúng là thằng cha cao lớn chơi máy giật xèng ở quán bar của Makarova. Nhưng còn có gì đấy khác nữa. Khuôn mặt đó gợi về một ký ức xa xăm mơ hồ. Tuy nhiên, một chiếc taxi trống xuất hiện trước khi Corso kịp nghĩ ngợi thêm. Một người đàn ông mặc áo khoác xanh sẫm mang theo chiếc cặp có tay xách từ bên kia đường ra hiệu cho xe dừng lại, nhưng người lái đang nhìn về hướng Coros. Coros thấy hết nên nhanh chóng rời khỏi hàng rào tiến tới giành chiếc taxi ngay trước mũi người đàn ông nọ.

Gã bảo lái xe tắt radio, rồi thả mình khoan khoái trên ghế sau, nhìn dòng xe cộ bên ngoài, nhưng tâm trí lại để tận đâu đâu. Gã xưa nay luôn thích cảm giác bình an trong xe taxi. Đó là khoảnh khắc gần gũi nhất với sự thư thái không phải đối diện với thế giới bên ngoài: suốt chuyến đi, mọi thứ đều treo lơ lửng, tạm dừng ở bên kia khung kính. Gã ngả đầu ra sau ghế ngắm nhìn cảnh vật.

Giờ là lúc nghĩ đến những chuyện nghiêm túc. Ví dụ như Cuốn sách về chín cánh cửa và chuyến đi Bồ Đào Nha, bước đầu tiên của công việc này. Nhưng gã không vội. Cuộc gặp gỡ Liana Taillefer đặt ra quá nhiều câu hỏi khiến gã bức bối lạ thường. Có những thứ không sao chạm tới được, giống như ngắm một cảnh đẹp dưới góc nhìn sai. Và còn nữa: sau mấy lần dừng xe trước đèn giao thông gã mới nhận ra rằng người lái chiếc Jaguar cứ trở đi trở lại trong tâm trí. Điều đó khiến gã bối rối. Chắc chắn là chưa bao giờ gặp hắn trước lần ở quán bar của Makarova. Nhưng một hồi ức phi lý cứ trở lại. Tao biết mày, gã thầm nhủ, bảo đảm thế. Lâu lắm rồi, có lần tao đụng phải một thằng giống như mày. Và tao biết mày từ đâu chường mặt ra đó. Từ miền tối mịt mù trong ký ức của tao.

GROUCHY[3] KHÔNG THẤY ĐU NỮA, nhưng điều đó chẳng còn ý nghĩa gì. Quân Phổ của Bulow rút lui khỏi những cao điểm ở nhà thờ St. Lambert, đang bị quân khinh kỵ của Sumont và Subervie bám sát. Chẳng có vấn đề gì bên sườn trái. Đám bộ binh Xcốtlen áo đỏ đã bị trọng kỵ binh Pháp bắt kịp và nghiền nát. Ở giữa, sư đoàn Jerome rốt cuộc cũng đã chiếm được Hougoumont. Ở hướng Bắc về phía Mont St. Jean, đội quân áo xanh của đoàn Cựu vệ binh dũng mãnh đang hội quân, chậm chạp nhưng đầy nhiệt huyết, cùng quân của Wellington đang nhốn nháo lui về ngôi làng nhỏ Waterloo. Chỉ còn chờ một đòn ân huệ giáng xuống nữa thôi.

[3] Emmanuel de Grouchy: Hầu tước, Thống chế Pháp (1766-1847). Chỉ huy kỵ binh trong chiến dịch Waterloo.

Lucas Corso quan sát bãi chiến trường. Giải pháp tất nhiên phải là Ney, người dũng cảm nhất trong những người dũng cảm. Gã đặt ông ta phía trước, cùng với sư đoàn Erlon và Jerome, đúng ra là phần còn lại của nó, và cho họ tiến lên bảo vệ con đường Brussels. Khi họ tiếp xúc với quân Anh, Coros nín thở ngả người ra sau một chút, cảm nhận rõ hơn ý nghĩa hành động của mình: trong một vài giây gã đã ra quyết định vận mệnh của hai mươi ngàn con người. Đắm mình trong cảm giác này, gã âu yếm duyệt qua những hàng lính xanh và đỏ chen chúc nhau, cánh rừng Soignes màu xanh lục nhạt, những ngọn đồi xám nâu. Lạy Chúa, thật là một trận đánh đẹp mắt.

Cú đòn giáng vào họ thật nặng nề, thật đáng thương. Quân đoàn Erlon bị đánh tan thành từng mảnh tả tơi, nhưng phòng tuyến của Ney và Jerome vẫn tồn tại. Đoàn Cựu vệ binh tiến lên, chà nát mọi thứ trên đường tiến. Đội hình quân Anh lần lượt biến khỏi bản đồ. Wellington không còn cách nào khác hơn là rút lui và Corso dùng kỵ binh Pháp dự phòng quây ông ta ở Brussels. Rồi, chậm rãi và thận trọng, gã tung đòn tối hậu. Tóm Ney bằng hai ngón tay, gã đẩy ông ta lên trước ba khối binh lính Pháp. Gã so sánh lực lượng, nghiên cứu tình thế: quân Anh đông hơn với tỷ lệ tám trên ba. Wellington đã bị hủy hoại. Nhưng vẫn còn một cơ hội nhỏ. Gã xem xét lại các biến số và thấy rẳng khả năng gã cần số 3. Cảm giác lo âu thắt lòng xuất hiện khi gã tung con xúc xắc để xác định tỷ lệ may mắn. Việc mất Ney ở phút cuối cùng khiến cho chiến dịch dù thắng lợi thì cũng chỉ đủ để an ủi những người hâm mộ. Cuối cùng gã lấy hệ số là 5. Gã ngoác miệng cười rồi âu yếm gõ nhẹ lên tấm thẻ màu xanh đại diện cho Napoléon. Tôi hiểu ông có cảm giác gì, ông bạn. Wellington và năm ngàn quân bất hạnh còn sót lại của ông ta hoặc chết hoặc bị bắt làm tù binh, và hoàng đế thắng trận Waterloo. Tiến lên, những người con của đất Mẹ! Đám sách lịch sử, vứt cha nó hết đi.

Gã ngáp. Trên bàn, cạnh tấm bảng mô phỏng chiến trường theo tỷ lệ một trên năm ngàn, giữa những cuốn sách tham khảo, những biểu đồ, cốc cà phê và cái gạt tàn đầy mẩu thuốc lá, cái đồng hồ đeo tay của gã cho biết đã ba giờ sáng. Trong tủ rượu bên cạnh, trên cái hộp bìa đỏ Red Label, Johnny Walker khoác áo choàng đi săn dấn bước với vẻ mặt tinh quái. Một thằng cha nhỏ thó má cà chua, Coros nghĩ thầm. Walker mặc kệ thây mấy ngàn người đồng hương mới vừa thảm bại ở xứ Flandre.

Coros quay lưng về phía người Anh và chú mục vào chai gin Bols chưa mở nắp trên cái kệ nằm giữa hai tập Hồi ký đảo Sainte Hélène và cuốn Đỏ và Đen tiếng Pháp mà gã đặt trên bàn trước mặt. Gã mở nút chai rồi đọc lướt qua cuốn truyện của Stendhal trong lúc tự rót cho mình một ly.

“Xưng tội” của Rousseau là cuốn sách duy nhất trong đó trí tưởng tượng của ông hình dung ra thế giới. Bộ sưu tập những bản tin về Đoàn quân Vĩ đại và hai tập “Hồi ký đảo Sainte Hélène” là phần cuối làm cho bộ thánh thư của ông thành trọn vẹn. Hẳn ông sẵn sàng chết vì ba cuốn đó. Ông không tin gì khác nữa.

Gã cứ đứng đó uống gin và duỗi thẳng chân tay lạnh cứng. Liếc nhìn chiến trường một lần cuối nơi những tiếng gầm gào bé dần đi sau trận tàn sát, gã nốc cạn ly rượu, cảm thấy mình như một vị thần say túy lúy đang đùa bỡn với những sinh mệnh như thể chúng chỉ là những chú lính chì bé nhỏ. Gã hình dung cảnh Huân tước Arthur Wellsley, Công tước Wellington trao kiếm cho Ney. Những người lính trẻ vùi thây trong bùn tối, những con ngựa không người cưỡi nhởn nhơ trên đồng cỏ, xác một vị sĩ quan trong đoàn quân Xcốtlen áo xám nằm dưới khẩu pháo tan nát, bàn tay vấy máu nắm chặt một trái tim bằng vàng mang chân dung một phụ nữ và lọn tóc vàng hoe. Từ bên ngoài vùng tối đang bao trùm gã, Corso nghe thấy tiếng phách nhịp của điệu van cuối cùng. Và người vũ nữ mảnh khảnh trên kệ nhìn gã, những miếng trang sức hình tròn trên trán nàng lấp lánh phản chiếu ngọn lửa trong lò sưởi. Chừng như nàng sắp ngả vào vòng tay ân ái của cái túi thuốc lá. Hoặc của gã chủ quán trong góc nhà.

Waterloo, nơi yên nghỉ nắm xương của cụ tổ gã, người lính cận vệ năm xưa. Gã mường tượng ông cụ trong hàng ngũ áo xanh trên bảng dọc theo con đường màu nâu sẫm dẫn tới Brussels. Khuôn mặt đen sạm, bộ râu cháy sém vì thuốc pháo, người cận vệ già tiến lên, giọng nói khản đặc và bồn chồn sau ba ngày chiến đấu bằng lưỡi lê, vẻ mặt thẫn thờ đúng như Corso hình dung về tất cả những người có mặt trọng mọi cuộc chiến. Sức cùng lực kiệt, ông quơ chiếc mũ da gấu thủng lỗ chỗ trên đầu ngọn súng trường về phía đồng đội. Hoàng đế muôn năm. Linh hồn nhỏ bé cô đơn mang chứng ung thư của Bonaparte đã được rửa hận. Xin cho ngài bình an. Hoan hô.

Gã rót thêm cho mình một ly Bols rồi hướng, vào thanh kiếm cong trên tường nâng cốc chúc mừng người lính già Jean-Pax Corso, 1770-1851, Bắc đẩu Bội tinh, Huân chương hiệp sĩ Sainte Hélène, tín đồ trung thành suốt đời của Bonaparte, chấp chính quan Pháp ở thành phố Địa Trung Hải nơi đứa chắt của ông ra đời một thế kỷ sau. Hương rượu gin ngạt ngào trong miệng, Corso khe khẽ ngâm nga những vần thơ truyền qua hàng thế kỷ, của cải duy nhất gã thừa hưởng từ cụ tổ.

Những chiến binh đầy mình nhiệt huyết,

Nguyện hy sinh theo Hoàng đế xông pha,

Xin giã từ cánh đồng quê yêu dấu,

Theo chân Người đâu quản ngại phong ba.

Gã tự cười mình trong khi nhấc điện thoại, quay số gọi La Ponte. Ổ đĩa quay trong máy phát ra chuỗi âm thanh rành rọt trong đêm vắng. Những quyển sách trên tường; bên ngoài trời tối đen, mưa đêm tưới đẫm mái nhà. Cảnh quan không lấy gì làm đẹp, ngoại trừ luồng hơi nóng của bộ tản nhiệt máy điều hòa và qua lớp bụi đường, nhuốm màu đỏ son, hệt như một bức mành dày bén lửa. Cái bàn, máy tính và tấm bảng trình diễn trận Waterloo đặt hướng ra ngoài, bên cái cửa sổ ngăn dòng nước mưa đêm ấy. Trên tường không có tranh ảnh hay kỷ vật gì. Chỉ có thanh kiếm cong của người lính già nằm trong bao da nạm đồng. Khách tới thăm đều ngạc nhiên vì không thấy dấu vết cuộc sống riêng của gã, không có những thứ ràng buộc với quá khứ thường được giữ lại theo bản năng, ngoài thanh kiếm và những cuốn sách. Như thể từng có những đồ vật vắng mặt trong căn nhà này, cái thế giới sinh ra Lucas Corso hồ như đã tàn lụi và biến mất từ lâu. Chẳng có một khuôn mặt buồn bã nào đôi khi xuất hiện trong ký ức sẽ nhận ra gã nếu như có khi nào họ quay lại với cuộc sống. Có lẽ thế tốt hơn. Như thể gã chưa bao giờ có một cái gì, chưa bao giờ bỏ đi một cái gì. Như thể gã luôn tự thấy riêng mình là đủ cho mình, chẳng cần gì ngoài quần áo trên người, một kẻ thiên kinh vạn quyển, một kẻ lang bạt chốn thị thành mang trong túi quần túi áo tất tật những món mình sở hữu trên cõi trần tục. Thế nhưng với một vài người gã cho phép gặp gỡ trong những buổi chiểu đông màu đỏ ấy, khi gã ngồi bên cửa sổ rực ánh tà dương, mắt mờ hơi rượu gin, đều nói rằng dáng vẻ ấy – dáng vẻ con thỏ yếu đuối vụng về khi ấy – mới có vẻ là đích thực.

La Ponte trả lời điện thoại với giọng ngái ngủ.

“Tôi vừa nghiền nát Wellington,” Corso thông báo.

Sau một phút lặng im bối rối, La Ponte nói hắn rất mừng cho gã. Perfidious Albion – bánh nướng nhân thịt bò và bầu dục, đồng hồ ga trong những buồng khách sạn tồi tàn. Kipling. Balaclava, Trafalgar, đảo Falkland và mọi thứ. Và hắn muốn nhắc nhở Corso – đường dây lặng đi khi La Ponte dò dẫm tìm đồng hồ - rằng đã ba giờ sáng rồi. Rồi lầu bầu điều gì không biết, chỉ nghe rõ mấy tiếng chửi thế, “mẹ kiếp” và “chó đẻ”.

Corsi cười khùng khục khi gác máy. Một lần từ phòng đấu giá ở Buenos Aires, gã điện thoại cho La Ponte và để hắn trả tiền, chỉ để bông đùa về một gã điếm xấu điên tới nỗi cho tới khi chết vẫn còn trinh nữ. Ha, ha, quá vui. Tôi sẽ khiến cậu nuốt nghẹn hóa đơn điện thoại khi định trả đũa, đồ ngốc. Hồi ấy, cách nhiều năm rồi, đôi khi gã tỉnh dậy trong vòng tay Nikon, việc đầu tiên là phôn cho La Ponte để cho hắn biết là gã gặp một người đẹp và rất giống như là gã đang yêu. Bất cứ khi nào muốn, Corso cũng có thể nhắm mắt và thấy Nikon chầm chậm thức dậy, tóc xõa dài trên gối. Gã miêu tả nàng cho La Ponte qua điện thoại, cảm nhận nỗi xúc động kỳ lạ, một sự dịu dàng không quen, khó lòng giải thích được khi gã nói, nàng nghe và lặng lẽ nhìn gã. Và gã biết từ đầu bên kia đường dây – Tôi mừng cho anh, Corso, đúng lúc rồi. Thực sự mừng cho anh, bạn của tôi – La Ponte thành thật chia sẻ sự tỉnh thức của gã, thắng lợi của gã, niềm hân hoan vui sướng của gã. Buổi sáng ấy, gã yêu La Ponte không kém gì yêu nàng. Mà cũng có thể là ngược lại.

Nhưng chuyện đó qua lâu rồi. Corso tắt đèn. Bên ngoài trời vẫn mưa. Trong phòng ngủ, gã đốt điếu thuốc cuối cùng, ngồi im trong bóng tối bên mép giường, lắng nghe tiếng vọng từ hơi thở nay đã vắng của nàng. Đoạn gã chìa tay khẽ vuốt mái tóc nàng không còn xòa bên gối. Nikon là nỗi ân hận duy nhất trong đời gã. Mưa càng thêm nặng hạt, những giọt mưa đập vào cửa sổ xé tan luồng sáng yếu ớt bên ngoài, biến nó thành những vụn sáng tả tơi bay múa trên ga trải giường như những điểm li ti dao động, những vệt đen, những quầng tối nhỏ xíu chìm vào bốn xung quanh, giống như những mảnh vỡ của cuộc đời.

“Lucas.”

Gã gọi to tên mình, như nàng vẫn gọi. Chỉ có nàng gọi gã như vậy. Cái tên này tượng trưng cho cái tổ ấm, cái xứ sở hai người từng chia sẻ nay đã tan vỡ. Corso đăm đăm nhìn điếu thuốc lóe sáng trong đêm. Gã từng nghĩ là mình thực sự yêu Nikon. Khi ấy gã thấy nàng đẹp và thông minh, chuẩn mực và nồng nàn, giống như trong những tấm ảnh đen trắng của nàng: những đứa trẻ mắt to, những người già, những con chó với cái nhìn đầy vẻ trung thành. Khi ấy gã quan sát nàng bảo vệ tự do của mọi người và ký vào những bản thỉnh nguyện đòi phóng thích các vị nhân sĩ trí thức bị tù, những người thiểu số bị áp bức… Và những giấy đảm bảo. Gã nhỏm dậy từ từ để khỏi đánh thức linh hồn ngủ yên bên cạnh, lắng nghe âm thanh từ hơi thở nàng. Đôi lần dường như gã nghe thấy. Anh cũng thiếu sức sống như những cuốn sách của anh, Corso. Anh chưa bao giờ biết yêu. Lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng nàng từ chối trao thân cho gã, trước khi bỏ gã mà đi vĩnh viễn. Để tìm kiếm đứa con gã không muốn có.

Gã mở cửa sổ và cảm thấy hơi ẩm của cơn mưa đêm ập vào mặt. Rít nốt hơi thuốc cuối cùng, gã vứt nó qua cửa sổ, đốm lửa ở đầu điếu thuốc vẽ nên một đường cong, nhỏ dần rồi vỡ vụn hoặc bị giấu biến đi trong bóng đêm.

Đêm đó, ở một nơi khác mưa cũng rơi. Trên dấu chân Nikon để lại. Trên cánh đồng Waterloo, mưa rơi xuống thân hình cụ tổ Corso và đồng đội của ông. Mưa trên nấm mồ đỏ và đen của Julien Sorel, kẻ bị chém đầu vì tin rằng với cái chết của Bonaparte những pho tượng đồng ngả mình hấp hối trên những nẻo đường bị quên lãng. Một lỗi lầm ngu ngốc. Lucas Corso biết rõ hơn ai hết rằng một người lính năng động và nhạy bén vẫn có thể chọn chiến trường cho mình và kiếm được đồng lương trong khi canh giữ những linh hồn bằng giấy và da, giữa tàn tích của hàng ngàn thất bại.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.