Tôi thức dậy với cảm giác vẫn đang bốc cháy. Da tôi nhức nhối. Cổ họng tôi khô rát.
Tôi thấy bầu trời xanh và cây cối bên trên. Tôi nghe thấy tiếng chảy róc rách của đài phun nước và ngửi thấy mùi cây bách xù và cây tuyết tùng và mùi của một số loài thực vật có mùi ngọt. Tôi cũng nghe thấy cả tiếng sóng nữa, đang vỗ nhẹ nhàng vào bờ đá. Tôi không biết mình đã chết hay chưa, nhưng có một điều tôi biết rõ, đó là tôi đã từng đến Vùng đất Chết, nhưng nơi đó không có bầu trời xanh thế này.
Tôi cố ngồi dậy. Các cơ bắp của tôi như nhão ra.
“Nằm im,” giọng một cô gái vang lên. “Anh còn yếu lắm, không dậy được
Cô ấy đặt một miếng vải lạnh ngang trán tôi. Một chiếc muỗng bằng đồng lơ lửng phía trên và chất lỏng nhỏ từng giọt vào miệng tôi. Thức uống làm cổ họng tôi dịu đi và có vị sô cô la ấm sau khi nuốt. Rượu thánh của các vị thần. Rồi khuôn mặt của cô gái hiện ra phía trên mặt tôi.
Cô ấy có đôi mắt màu quả hạnh và mái tóc màu ca ra men được tết ở một bên vai. Cô ấy khoảng... mười lăm tuổi? Mười sáu? Khó mà đoán được. Khuôn mặt cô ấy thuộc kiểu không thể đoán được tuổi. Cô ấy bắt đầu hát và cơn đau của tôi giảm hẳn đi. Cô ấy đang làm phép thuật. Tôi có thể cảm nhận được tiếng hát thấm vào làn da tôi, chữa lành và tái tạo lại những vết bỏng của tôi.
“Ai vậy?” Tôi rền rĩ.
“Suỵt, chàng trai dũng cảm,” cô ấy nói. “Hãy nghỉ ngơi chờ vết thương lành. Sẽ không có gì làm hại anh được. Tôi là Calypso.”
Lần tiếp theo thức dậy, tôi đang ở trong một hang đá, một hang đá lúc này cũng tốt chán rồi. Trần hang lấp lánh với các tinh thể có màu sắc khác nhau – trắng và đỏ tía và xanh lục, như thể tôi đang ở bên trong một tinh hốc đã được cắt đôi mà bạn nhìn thấy ở các cửa hàng lưu niệm. Tôi đang nằm trên một chiếc giường thoải mái với gối lông vũ và drap trải giường bằng vải cotton trắng. Cái hang được chia ra nhiều phần bởi những tấm rèm lụa màu trắng. Tựa vào một bức tường là một cái khung cửi dệt vải và một cây đàn hạc. Còn ở tường phía đối diện là những chiếc giá, bên trên là các lọ mứt hoa quả được xếp ngay ngắn. Các loại dược thảo khô được treo trên trần nhà: cây hương thảo, cỏ xạ hương, và một bó các loại khác. Nếu là mẹ tôi thì bà có thể đọc được tất cả tên của chúng.
Có một lò sưởi được bên trong thành hang, và một chiếc ấm đang sôi sùng sục phía trên ngọn lửa. Mùi của nó thật tuyệt, giống như món thịt bò hầm vậy.
Tôi ngồi dậy, cố lờ đi cái đầu đang đau nhức. Tôi nhìn hai cánh tay, chắc mẩm chúng phải bị sẹo kinh khủng lắm, nhưng hình như chúng vẫn ổn. Hơi đỏ tấy hơn bình thường một chút, nhưng không đến nỗi tệ. Tôi đang mặc một chiếc áo phông cotton trắng và chiếc quần dải rút, tất cả đều không phải của tôi. Hai chân cũng chẳng có giày. Trong giây phút hốt hoảng, tôi tự hỏi không biết điều gì sẽ xảy ra với thanh Thủy Triều, nhưng tôi cảm giác được cây bút đang nằm trong túi tôi, ở chỗ quen thuộc của nó.
Không chỉ có thế mà cả chiếc còi băng gọi chó cũng quay lại nằm trong túBằng cách nào đó chúng đã đi theo tôi. Nhưng điều đó cũng không thật sự làm tôi yên lòng.
Tôi đứng dậy một cách khó khăn. Nền nhà bằng đá lạnh buốt dưới chân tôi. Tôi quay lại và thấy bóng mình trong một chiếc gương đồng sáng bóng.
“Poseidon thần thánh,” tôi lẩm bẩm. Trông tôi giống như vừa sụt đi chục ký mà trước giờ cố mãi vẫn không giảm được. Đầu tóc tôi trông như tổ quạ. Nó bết vào như bộ râu của thần Hephaestus. Nếu đang đi đến ngã tư mà trông thấy ai đó với bộ mặt này tiến tới xin tiền thì tôi sẽ khóa ngay cửa xe lại.
Tôi ngoảnh mặt đi chỗ khác. Lối vào trong động ở phía bên trái tôi. Tôi đi thẳng về phía có ánh sáng.
Hang động hướng mặt ra một thảo nguyên xanh ngát. Bên trái là khu rừng tuyết tùng nhỏ và bên phải là một vườn hoa khổng lồ. Tiếng nước chảy róc rách phát ra từ bốn đài phun nước được đặt giữa thảo nguyên, nước được bắn ra từ các ống sáo của tượng thần rừng bằng đá. Trước mặt tôi, thảm cỏ chạy dài xuống một bãi biển lởm chởm đá. Những con sóng từ dưới hồ vỗ lên bờ. Tôi có thể nói đó là một cái hồ vì..., ừm, đơn giản là tôi biết. Nước ngọt. Không phải nước mặn. Ánh mặt trời chiếu xuống mặt nước long lanh, và bầu trời xanh trong trẻo. Nơi này giống như thiên đường vậy, ngay lập tức nó làm tôi lo lắng. Nếu bạn phải đối mặt với những câu chuyện thần thoại hoang đường suốt mấy năm trời thì bạn sẽ hiểu thiên đường chỉ xuất hiện khi bạn đã toi mạng.
Cô gái với mái tóc tết màu caramen, người tự xưng là Calypso, đang đứng chỗ bờ đá và nói chuyện cùng ai đó. Tôi không nhìn rõ anh ta vì ánh sáng hắt lên từ dưới hồ, nhưng hình như họ đang cãi nhau chuyện gì đó. Tôi cố nhớ lại những gì tôi biết về Calypso qua những câu chuyện thần thoại cổ. Tôi đã nghe cái tên này rồi, nhưng... tôi chẳng nhớ gì cả. Cô ta có phải quái vật không nhỉ? Cô ta giăng bẫy các anh hùng và giết họ? Nhưng nếu cô ta là ác quỷ thì tại sao tôi vẫn còn sống?
Tôi chậm rãi bước tới chỗ cô ấy vì chân tôi vẫn còn tê. Khi thảm cỏ đã chuyển thành thảm sỏi, tôi nhìn xuống để giữ thăng bằng, và khi tôi ngẩng lên thì cô gái chỉ có một mình ở đó. Cô ấy mặc một chiếc áo đầm kiểu Hy Lạp không tay màu trắng, đường viền cổ áo tròn thấp được đính vàng. Cô ấy dụi mắt như thể vừa mới khóc xong vậy.
“Ừm,” cô ấy cất tiếng, cố nở một nụ cười, “cuối cùng anh cũng thức giấc rồi.”
“Cô đang nóiai thế?” Giọng tôi nghe như một con ếch đã ngồi vài ngày trong lò vi sóng.
“À... một người đưa tin thôi,” cô ấy nói. “Anh cảm thấy thế nào?”
“Tôi đã ngủ bao lâu rồi?”
“Thời gian,” Calypso đăm chiêu. “Ở đây thời gian là khái niệm khó nắm bắt. Thực sự tôi không biết đâu, Percy.”
“Cô biết tên tôi à?”
“Anh nói mơ trong khi ngủ.”
Tôi đỏ mặt. “À ừ, cũng có người nói với tôi điều đó rồi.”
“Ừ, Annabeth là ai?”
“À, ừm, một người bạn. Chúng tôi đi cùng nhau khi – mà chờ đã, sao tôi đến được đây? Tôi đang ở đâu?”
Calypso với tay vuốt mái tóc bết dính của tôi. Tôi lo lắng lùi lại.
“Tôi xin lỗi,” cô ấy nói. “Tôi đã quen với việc chăm sóc cho anh rồi. Với câu hỏi làm thế nào anh tới được đây, thì anh rơi từ trên trời xuống. Anh rơi xuống nước, ngay chỗ kia kìa.” Cô ấy chỉ ra phía hồ. “Tôi không hiểu sao anh lại sống sót. Dường như nước đã nâng đỡ cho anh khỏi bị thương vì cú ngã. Còn câu hỏi anh đang ở đâu, thì đây là Ogygia.”
Cô ấy phát âm nghe như oh-jee-jee-ah.
“Ở đây có gần núi St. Helens không?” Tôi hỏi, vì kiến thức địa lý của tôi khá tệ.
Calypso cười. Đó là một nụ cười kìm nén, như thể cô ấy nhận ra tôi khá buồn cười nhưng không muốn làm tôi ngượng. Cô ấy cười rất đáng yêu.
“Nó chẳng gần bất cứ nơi nào cả, chàng trai dũng cảm ạ,” cô ấy nói. “Ogygia là hòn đảo bằng ảo ảnh của tôi. Nó tồn tại như chính nó, ở mọi nơi và không đâu cả. Anh có thể an toàn dưỡng thương ở đây. Không phải sợ gì cả.”
“Nhưng các bạn của tôi...”
“Annabeth,” cô ấy nói. “Và Grover và Tyson đúng không?”
“Đúng!” tôi nói. “Tôi phải quay lại với họ. Họ đang gặp nguy hiểm.”
Cô ấy chạm vào mặt tôi, và lần này tôi không lùi lại nữa. “Cứ nghỉ ngơi đi đã. Từ giờ đến khi khỏi hẳn anh sẽ chẳng giúp được gì cho các bạn mình
Khi cô ấy nói vậy tôi mới nhận ra mình đang mệt mỏi như thế nào. “Cô không phải là... cô không phải là một phù thủy độc ác, đúng không?”
Cô ấy e lệ mỉm cười. “Sao anh lại nghĩ vậy?”
“À, vì trước đây tôi đã gặp Circe một lần rồi, bà ta cũng ở trên một hòn đảo cực kỳ xinh đẹp. Chỉ khác một điều là bà ta thích biến đàn ông thành chuột lang.”
Calypso lại cười to. “Tôi hứa sẽ không biến anh thành chuột lang.”
“Hay bất cứ con gì khác?”
“Tôi không phải là một phù thủy độc ác,” Calypso nói. “Và tôi cũng không phải kẻ thù của anh, người anh hùng ạ. Giờ thì nghỉ ngơi đi. Mắt anh díp vào rồi đấy.”
Cô ấy nói đúng. Đầu gối tôi rã rời, và tôi có lẽ đã ngã sấp mặt xuống bãi sỏi nếu Calypso không giữ tôi lại. Tóc cô ấy có mùi quế. Cô ấy rất khỏe, hoặc là tôi quá yếu. Cô ấy dìu tôi quay lại chiếc ghế có lót nệm bên cạnh đài phun nước và giúp tôi nằm xuống.
“Nghỉ ngơi đi,” cô ấy ra lệnh. Và tôi thiếp đi trong âm thanh của các đài phun nước, hương quế và hương bách xù.
Lần thứ hai tôi thức giấc là lúc nửa đêm, nhưng tôi không chắc là đêm hôm đó hay nhiều đêm sau nữa. Tôi đang nằm trên giường bên trong hang động, nhưng tôi bật người dậy, khoác chiếc áo choàng lên người và nhẹ nhàng đi ra ngoài. Những vì sao thật rực rỡ – có hàng ngàn ngôi sao như thế, giống như bạn chỉ có thể nhìn thấy chúng khi ở vùng quê. Tôi có thể kể ra tất cả những chòm sao mà Annabeth đã dạy cho tôi: Ma Kết, Phi Mã, Nhân Mã. Và kia, ở gần đường chân trời phía nam là một chòm sao mới: chòm sao Thợ săn, để tưởng nhớ một người bạn của chúng tôi đã qua đời mùa đông năm ngoái.
“Percy, anh nhìn cái gì thế?”
Mắt tôi quay trở lại với mặt đất. Các chòm sao dù có chói lòa đến đâu cũng không thể sánh với vẻ đẹp rực rỡ của Calypso. Ý tôi là, tôi đã từng tận mắt nhìn thấy nữ thần tình yêu, nữ thần Aphrodite, và tôi sẽ không lớn tiếng nói điều này ra kẻo nữ thần sẽ cho tôi nổ tung thành cát bụi, nhưng quả tình mà nói, Calypso đẹp hơn rất nhiều, bởi cô ấy trông rất tự nhiên, như không hề cố gắng để trở nên xinh đẹp, và cũng chẳng mấy quan tâm điều đó. Cô ấy chỉ là cô ấy mà thôi. Với mái tóc tết gọn và chiếc váy trắng, cô ấy như tỏa sáng trong ánh trăng. Cô ấy đang giữ một ây nhỏ trong tay. Những bông hoa của nó có màu bạc và mỏng manh.
“Tôi chỉ đang nhìn...” tôi nhận ra mình đang nhìn chăm chăm vào mặt cô ấy. “Ừm... tôi quên rồi.”
Cô ấy cười dịu dàng. “Ừ, nhân lúc anh đang thức, hãy giúp tôi trồng các cây này nhé.”
Cô ấy đưa cho tôi một cái cây với một cục đất đang bám trên rễ. Những bông hoa sáng lên khi tôi cầm vào chúng. Calypso nhặt cái mai làm vườn lên và chỉ tôi đi về phía bìa vườn, nơi cô ấy bắt đầu đào đất.
“Đó là Mảnh Trăng,” Calypso giải thích. “Chỉ có thể trồng nó vào ban đêm thôi.”
Tôi quan sát thứ ánh sáng màu bạc đang lấp lánh xung quanh các cánh hoa. “Nó có tác dụng gì?”
“Tác dụng?” Calypso trầm ngâm. “Thực ra nó chẳng có tác dụng gì cả, tôi nghĩ vậy. Nó sống, nó phát sáng, nó đẹp mắt. Còn cần tác dụng gì nữa không?”
“Tôi đoán là không,” tôi trả lời.
Cô ấy nhận lại cái cây, và tay chúng tôi chạm nhau. Những ngón tay của cô ấm áp. Cô ấy trồng Mảnh Trăng và lùi lại vài bước ngắm thành quả của mình. “Tôi yêu khu vườn của mình.”
“Thật tuyệt vời,” tôi đồng ý. Tôi không phải kiểu người thích vườn tược, nhưng Calypso có những lùm cây với sáu loại hoa hồng có màu sắc khác nhau, trên hàng rào mắt cáo là những dây hoa rạng đông, một luống nho với những chùm nho đỏ, tím có thể khiến thần Dionysus phải đứng dậy và cầu xin.
“Ở nhà,” tôi nói, “mẹ tôi lúc nào cũng mong có một khu vườn.”
“Sao bà ấy không thể tự trồng một cây?”
“À, chúng tôi sống ở Manhattan. Trong một căn hộ.”
“Manhattan? Căn hộ?”
Tôi chăm chú nhìn cô ấy. “Cô không hiểu tôi nói gì, đúng không?”
“Tôi sợ là không. Tôi đã không rời Ogygia... từ lâu lắm rồi.”
“Ừm, Manhattan là một thành phố lớn, và chẳng có nhiều không gian cho vườn tược đâu.”
Calypso nhíu mày. “Vậy thì buồn nhỉ. Thần Hermes thỉnh thoảng vẫn tới thăm. Ông ấy nói thế giới bên ngoài đã thay đổi rất nhiều rồi. Tôi không ngờ n thay đổi đến nỗi mọi người không có cả vườn nữa.”
“Sao cô lại không rời hòn đảo của mình?”
Cô ấy nhìn xuống đất. “Đó là hình phạt dành cho tôi.”
“Tại sao? Cô đã làm gì sai?”
“Tôi à? Chẳng làm gì. Nhưng có lẽ cha tôi đã làm nhiều điều sai trái. Tên ông ấy là Atlas.”
Cái tên làm tôi lạnh sống lưng. Tôi đã gặp vị thần Titan tên Atlas vào mùa đông năm ngoái, và đó chẳng phải là quãng thời gian vui vẻ gì. Ông ta đã rắp tâm giết những người mà tôi yêu thương.
“Nhưng,” tôi nói với vẻ do dự, “thật không công bằng khi phạt cô vì những gì cha cô làm. Tôi biết một người con gái khác của Atlas. Tên cô ấy là Zo. Cô ấy là một trong những người dũng cảm nhất mà tôi từng gặp.”
Calypso nhìn tôi một lúc lâu. Đôi mắt cô ấy buồn rười rượi.
“Có chuyện gì thế?” Tôi hỏi.
“Anh... anh đã khỏe hẳn chưa, người anh hùng của tôi? Anh đã sẵn sàng để rời khỏi đây chưa?”
“Gì cơ?” Tôi hỏi lại. “Tôi cũng không biết.” Tôi cử động chân. Chúng vẫn còn tê cứng. Tôi bắt đầu cảm thấy choáng váng đau đầu vì phải đứng quá lâu. “Cô muốn đuổi tôi đi à?”
“Tôi...” Giọng cô ấy nghẹn ngào. “Hẹn gặp anh ngày mai. Ngủ ngon nhé.”
Cô ấy chạy về hướng bờ hồ. Tôi quá bối rối và không biết làm gì ngoài việc đứng nhìn cô ấy cho đến khi bóng cô ấy biến mất trong bóng tối.
Tôi không biết chính xác thời gian đã trôi qua bao lâu. Đúng như Calypso nói, thật khó để nắm bắt thời gian khi ở trên hòn đảo này. Tôi biết tôi cần phải đi. Ít nhất thì các bạn tôi cũng sẽ lo lắng. Và trong tình huống xấu nhất, có thể họ còn đang gặp nguy hiểm. Tôi còn không biết Annabeth đã thoát khỏi núi lửa hay chưa. Tôi cố kết nối đường dây giao cảm với Grover một vài lần, nhưng tôi không thể liên lạc được. Tôi ghét cái cảm giác không biết họ có ổn hay không.
Nhưng mặt khác, tôi vẫn còn đang yếu. Tôi sẽ không thể đứng vững quá một vài giờ. Những gì tôi đã làm trên núi St. Helens đã vắt kiệt sức tôi hơn tất cả những gì tôi từng trải qua.
Tôi không cảm thấy mình giống một tùhay gì cả. Tôi nhớ đến Khách Sạn và Sòng Bài Hoa Sen ở Vegas, nơi tôi bị thôi miên và sa vào một thế giới trò chơi kỳ ảo cho đến khi tôi gần như quên mất mọi thứ tôi phải lo lắng trên đời. Nhưng hòn đảo Ogygia này lại chẳng có gì giống thế. Tôi chẳng bao giờ thôi nghĩ về Annabeth, Grover, và Tyson. Tôi vẫn biết tại sao mình cần rời khỏi đây. Chỉ là tôi... không thể. Khi chỉ có một mình Calypso cô độc sống ở đây.
Cô ấy chẳng bao giờ nói nhiều về mình, nhưng điều đó càng làm tôi muốn biết nhiều hơn. Tôi có thể ngồi trên đồng cỏ, uống rượu thánh, và tôi sẽ cố tập trung vào những bông hoa, những đám mây hay bóng của chúng trong hồ nước. Nhưng không, thực sự tôi chỉ chăm chăm nhìn Calypso khi cô ấy đang làm việc, khi cô ấy ngồi chải mái tóc dài qua vai, và những sợi nhỏ vương trên mặt cô ấy mỗi khi cô ấy quỳ xuống đào hố trồng cây trong vườn. Thỉnh thoảng cô ấy lại giơ tay ra, và lũ chim sẽ bay từ trong rừng ra mà đậu lên tay cô ấy: vẹt, vẹt lorikeet và chim bồ câu. Cô ấy sẽ chào buổi sáng, hỏi chúng xem chiếc tổ thế nào, và chúng sẽ líu lo một hồi rồi bay đi vui vẻ. Mắt Calypso sáng lên. Cô ấy nhìn về phía tôi và chúng tôi cùng cười, nhưng gần như ngay lập tức cô ấy trở lại vẻ mặt buồn rầu và quay đi chỗ khác. Tôi không hiểu điều gì đang làm cô ấy phiền lòng.
Một buổi tối, khi chúng tôi đang ăn tối ở bờ hồ, những người phục vụ tàng hình đã dọn bàn ăn với món thịt bò hầm và nước ép táo. Nghe có vẻ không có gì hấp dẫn, nhưng đó là vì bạn chưa được nếm chúng thôi. Khi mới tới hòn đảo này tôi không mấy để ý đến những người phục vụ vô hình, nhưng sau một thời gian tôi bắt đầu nhận ra giường của tôi vẫn được dọn sạch sẽ, đồ ăn tự nấu, quần áo được giặt và gấp bởi những bàn tay vô hình.
Lúc đó, Calypso và tôi đang dùng bữa, trông cô ấy thật xinh đẹp trong ánh nến. Tôi đang kể cho cô ấy nghe về New York và Trại Con Lai, và sau đó tôi kể cho cô ấy nghe về việc Grover đã ăn mất quả táo khi chúng tôi đang dùng nó để chơi đá cầu. Cô ấy cười vui vẻ, một nụ cười đẹp đến sửng sốt, và chúng tôi bốn mắt nhìn nhau. Sau đó cô ấy lại cụp mắt xuống.
“Lại thế nữa rồi,” tôi nói.
“Cô luôn lẩn tránh, như đang cố gắng không cho mình được vui vẻ vậy.”
Cô ấy không rời mắt khỏi ly nước táo. “Tôi đã nói rồi mà, Percy, tôi đang phải chịu một hình phạt. Một lời nguyền, có thể nói như vậy.”
“Là sao? Kể cho tôi đi. Tôi muốn giúp cô.”
nói thế. Xin anh đừng nói nữa.”
“Kể cho tôi hình phạt đó là gì đi.”
Cô ấy đậy món thịt ăn dở lại bằng một cái khăn ăn, và ngay lập tức một người phục vụ vô hình tới và mang cái tô đi. “Percy, hòn đảo Ogygia này là nhà tôi, là nơi tôi sinh ra. Nhưng đây cũng là nhà tù của tôi nữa. Tôi đang bị... tù giam lỏng, theo ngôn ngữ của anh có lẽ là vậy. Tôi sẽ không bao giờ được tới thăm thành phố Manhattan của anh. Hay bất cứ nơi nào khác. Tôi phải ở đây, một mình.”
“Vì cha cô là Atlas.”
Cô ấy gật đầu. “Các vị thần không tin tưởng bất cứ ai trong gia đình của kẻ thù. Và đúng là như vậy. Tôi không nên phàn nàn về điều đó. Một số nhà tù khác còn chẳng đẹp bằng nơi này của tôi.”
“Nhưng như vậy là không công bằng,” tôi nói. “Cô là con gái ông ta nhưng không có nghĩa là cô theo phe ông ta. Một người con gái khác của ông ta mà tôi biết, Zo Nightshade... cô ấy còn chống lại chính cha mình. Cô ấy có bị cầm tù đâu.”
“Nhưng, Percy,” Calypso nhẹ nhàng nói, “Tôi từng đứng về phe ông ấy trong cuộc chiến thứ nhất. Ông ấy là cha tôi.”
“Tại sao? Nhưng các thần Titan đều xấu xa!”
“Vậy ư? Tất cả bọn họ ư? Và luôn luôn như vậy sao?” Cô ấy mím môi. “Anh thử nói xem, Percy. Tôi chẳng muốn tranh cãi với anh, nhưng anh về phe các vị thần bởi vì họ tốt, hay vì đó là gia đình anh?”
Tôi không trả lời. Cô ấy nói cũng đúng. Mùa đông năm ngoái khi Annabeth và tôi cứu đỉnh Olympus, các vị thần cũng có một cuộc thảo luận xem có nên giết tôi hay không. Như thế cũng đâu thực sự là tốt. Nhưng tôi vẫn muốn ở bên họ vì thần Poseidon là cha tôi.
“Có lẽ trong cuộc chiến đó, tôi đã sai,” Calypso nói. “Và công bằng mà nói, các thần cũng đối xử với tôi rất tốt. Thỉnh thoảng họ lại tới thăm tôi. Họ còn đem tới cho tôi thông tin về thế giới ngoài kia. Nhưng họ có thể đi, còn tôi thì không.”
“Cô không có bạn sao?” Tôi hỏi. “Ý tôi là... không có ai sống ở đây với cô sao? Nơi này rất tuyệt mà.”
Một giọt nước mắt chảy xuống gò má cô gái. “Tôi... tôi đã tự hứa với mình sẽ không nói điều này ra, nhưng...”
Cô ấy bị ngắt lời bởi âm thanh ùng ục từ dưới hồ nước vọng lên. Một quầng sáng xuất hiện phía chân trời. Nó cứ sáng dần, sáng dần, cho đến khi tôi trông thấy một cột lửa chuyển động trên mặt nước, và đang tiến dần về phía chúng tôi.
Tôi đứng dậy và vươn tay cầm lấy thanh kiếm. “Cái gì vậy?”
Calypso thở dài. “Một vị khách.”
Khi cột lửa cập bờ, Calypso đứng dậy và nghiêm nghị cúi chào. Ngọn lửa biến mất và trước mặt chúng tôi là một người đàn ông cao lớn trong bộ đồ bảo hộ lao động màu xám và một chiếc nạng chân bằng kim loại, trên tóc và râu ông ta lửa cháy âm ỉ.
“Ngài Hephaestus,” Calypso nói. “Thật là một vinh dự hiếm có.”
Vị thần lửa lẩm bẩm. “Calypso. Lúc nào cũng xinh đẹp. Cô có thể thứ lỗi cho chúng tôi một chút không? Tôi có vài lời muốn nói với anh bạn trẻ Percy Jackson này.”
Thần Hephaestus vụng về ngồi xuống bàn ăn và gọi một ly Pepsi. Người phục vụ vô hình đem nước cho ông ta, rồi mở nó đột ngột khiến soda bắn tung tóe lên quần áo làm việc của vị thần. Thần Hephaestus gầm lên và nguyền rủa vài câu rồi vứt lon nước sang một bên.
“Bọn hầu ngu độn,” ông ta lầm bầm. “Những con rô bốt thông minh có lẽ cần thiết cho cô ấy hơn. Chúng không bao giờ cư xử lỗ mãng thế này!”
“Thần Hephaestus,” tôi nói, “Có chuyện gì xảy ra sao? Có phải Annabeth đã...”
“Cô bé ổn,” ông ấy nói. “Đó là một cô gái tháo vát. Cô bé tự tìm được đường trở về và kể cho ta đầu đuôi câu chuyện. Cô bé đang lo đến phát ốm, ngươi biết đấy.”
“Ngài không nói với cô ấy là tôi vẫn ổn à?”
“Cái đó ta không được nói,” thần Hephaestus trả lời. “Mọi người đều nghĩ là ngươi đã chết. Ta phải chắc chắn rằng ngươi sẽ quay về trước khi ta nói với mọi người rằng ngươi đang ở đâu chứ!”
“Ngài nói thế là sao? Tất nhiên là tôi sẽ trở về rồi!”
Thần Hephaestus nhìn tôi nghi ngại. Ông ấy rút cái gì đó ra khỏi túi – một vật dẹt bằng kim loại kích cỡ khoảng bằng chiếc iPod. Ông ấy bấm nút trên đó và nó mở rộng ra thành một chiếc ti vi nhỏ bằng đồng. Trên màn hình là bản tin về ở núi St. Helens, một cột lửa và bụi lớn đang phụt lên trời.
“Vẫn chưa liệu núi lửa có tiếp tục phun hay không,” phát thanh viên nói. “Các quan chức đã yêu cầu di tản gần nửa triệu người để đề phòng núi lửa tiếp tục phun trào. Trong thời gian đó, tro đã bay tới tận hồ Tahoe và Vancouver, và cấm các phương tiện giao thông qua lại ở khu vực núi St. Helens trong bán kính một trăm dặm. Tuy chưa có thiệt hại nào về người được thông báo nhưng cũng có những người bị thương nhẹ và bệnh tật bao gồm...”
Thần Hephaestus tắt ti vi. “Ngươi vừa tạo ra một vụ nổ khá lớn đấy.”
Tôi nhìn đăm đăm vào cái màn hình bằng đồng trống rỗng. Một nửa triệu người phải sơ tán? Bị thương. Bệnh tật. Tôi đã làm gì thế này?
“Lũ telekhine đã tháo chạy tán loạn,” vị thần bảo tôi. “Một số đã bốc hơi. Còn một số bỏ đi, chắc chắn là vậy. Ta không nghĩ chúng sẽ quay lại dùng lò rèn của ta trong thời gian tới đâu. Mà cả ta cũng thế. Vụ nổ vừa rồi khuấy động giấc ngủ của Typhon. Chúng ta sẽ phải chờ xem thế nào...”
“Tôi không thể thả hắn ra được, đúng không? Ý tôi là, tôi không mạnh đến thế!”
Vị thần lẩm bẩm. “Không mạnh đến thế ấy hả? Ngươi lừa ta à. Ngươi là con trai của vị thần chuyên gây động đất, chàng trai ạ. Ngươi không biết rõ sức mạnh của chính mình.”
Đó là điều cuối cùng tôi muốn ông ấy nói. Tôi đã không kiểm soát được bản thân khi ở trên ngọn núi đó. Tôi đã sử dụng quá nhiều năng lượng đến nỗi suýt làm bốc hơi cả chính mình, vắt kiệt sự sống của chính bản thân. Giờ thì tôi hiểu tôi suýt phá hủy cả vùng Tây Bắc nước Mỹ và suýt nữa thì đánh thức cả một con quái vật cực kỳ nguy hiểm mà các vị thần lâu nay vẫn giam cầm. Có lẽ tôi đã quá nguy hiểm. Có lẽ tốt hơn đối với các bạn tôi khi để họ nghĩ rằng tôi đã chết.
“Còn Grover và Tyson thì sao?” tôi hỏi.
Thần Hephaestus lắc đầu. “Chẳng có tin tức gì, ta e là vậy. Ta nghĩ bọn họ đang ở trong Mê Cung.”
“Vậy tôi phải làm sao đây?”
Thần Hephaestus nhăn mặt. “Đừng bao giờ xin lời khuyên từ một người què già cả, anh bạn. Nhưng để ta nói cho ngươi cái này. Ngươi đã gặp vợ ta à?”
“Nữ thần Aphrodite.”
“Đúng, chính cô ta. Cô ta xảo quyệt lắm đấy. Hãy cẩn thận với tình yêu. Nó sẽ khiến cho não của ngươi x vòng, khiến ngươi tưởng trên là dưới, đúng là sai.”
Tôi nghĩ về cuộc gặp của tôi với nữ thần Aphrodite, ở ghế sau của một chiếc xe Cadillac trắng trên sa mạc hồi năm ngoái. Bà ấy đã nói với tôi rằng rất chú ý đến tôi, và sẽ làm cho con đường tình cảm của tôi gặp nhiều trắc trở, chỉ vì bà ấy thích tôi.
“Đây có phải một phần của kế hoạch đó không?” tôi hỏi. “Chính bà ấy cho tôi rơi xuống đây à?”
“Có thể. Không thể nói chắc chắn đó là cô ta. Nhưng nếu ngươi quyết định rời khỏi nơi này – ta không nói cái gì đúng, cái gì sai nhé – thì ta hứa sẽ đưa cho ngươi đáp án cho cuộc tìm kiếm của ngươi. Ta hứa sẽ chỉ cho ngươi đường tới chỗ Daedalus. Và đây mới là vấn đề. Chuyện này chẳng có liên quan gì đến sợi dây của Ariadne. Không hề. Tất nhiên là sợi dây vẫn hoạt động. Đó là những gì quân đội của các Titan theo đuổi. Nhưng cách tốt nhất để đi qua được mê cung là... Theseus đã có được sự giúp đỡ của công chúa. Và công chúa là một người bình thường chính hiệu. Chẳng có giọt máu thần linh nào chảy trong cô ấy cả. Nhưng cô ấy rất thông minh, và cô ấy có thể nhìn thấy, chàng trai ạ. Cô ấy có thể nhìn thấy rất rõ. Nên những gì ta nói... ta nghĩ ngươi biết phải làm thế nào để ra khỏi rắc rối rồi đấy.”
Cuối cùng tôi đã hiểu. Tại sao tôi không thấy điều đó sớm hơn nhỉ? Nữ thần Hera nói đúng. Câu trả lời đã ở đó từ rất lâu rồi.
“Đúng,” tôi nói. “Đúng vậy, tôi biết.”
“Thế nên ngươi sẽ phải quyết định là có rời khỏi đây hay không.”
“Tôi...” Tôi rất muốn nói có. Tất nhiên là tôi sẽ rời khỏi đây. Nhưng tiếng cứ nghẹn lại trong cổ tôi. Tôi thấy mình đang nhìn ra hồ, và đột nhiên câu nói sẽ rời khỏi nơi đây dường như trở nên rất khó khăn.
“Đừng quyết định vội,” thần Hephaestus khuyên. “Chờ đến khi trời sáng đi. Bình minh là lúc tốt nhất để đưa quyết định đấy.”
“Liệu Daedalus có giúp chúng tôi không?” tôi hỏi. “Ý tôi là, nếu ông ta cho Luke một con đường để thoát khỏi Mê Cung thì chúng tôi sẽ chết. Trong mơ tôi thấy... Daedalus giết cháu ruột của mình. Ông ta trở nên cay độc, tức giận và...”
“Trở thành một nhà phát minh đại tài chẳng phải dễ dàng,” thần Hephaestus lầm bầm. “Lúc nào cũng cô độc. Lúc nào cũng bị hiểu lầm. Dễ trở nên cay độc, và gây ra những tội lỗi kinh hoàng. La việc với con người khó hơn với các cỗ máy nhiều. Và khi làm hại một con người thì không thể sửa lại được.”
Thần Hephaestus giũ những giọt Pepsi cuối cùng ra khỏi áo. “Daedalus đã khởi đầu rất tốt. Ông ta đã giúp công chúa Ariadne và Theseus vì ông ta thấy thương cảm với họ. Ông ta cố gắng rất nhiều để làm việc tốt. Và cuộc đời ông ta trở nên tồi tệ cũng vì điều đó. Như thế liệu có công bằng không?” Vị thần nhún vai. “Ta không biết liệu Daedalus có giúp các ngươi không, anh bạn trẻ ạ, nhưng đừng vội phán xét về ai đó nếu chưa thử ở vào hoàn cảnh của họ, hiểu chưa?”
“Tôi sẽ cố gắng.”
Thần Hephaestus đứng dậy. “Tạm biệt chàng trai. Ngươi đã làm rất tốt, tiêu diệt bọn telekhine. Ta sẽ luôn nhớ ngươi vì điều đó.”
Nghe đúng là một lời tạm biệt, một lời kết thúc. Sau đó ông ta biến thành một cột lửa và di chuyển ra phía hồ, quay trở lại với thế giới bên ngoài.
Tôi đi bộ dọc bờ nước đến vài giờ. Khi tôi quay lại thảm cỏ thì đã rất muộn, có lẽ là bốn hay năm giờ sáng, nhưng Calypso vẫn đang trong vườn và chăm sóc những đóa hoa bằng ánh sao. Cây Mảnh Trăng của cô phát ra màu sáng bạc, và những loài cây khác cũng hưởng ứng thứ phép thuật đó, phát ánh sáng màu đỏ, vàng và xanh.
“Ông ta yêu cầu anh trở về đúng không?” Calypso đoán.
“À, không phải yêu cầu. Mà ông ấy cho tôi sự lựa chọn.”
Cô ấy nhìn vào mắt tôi. “Tôi hứa sẽ không mời mọc anh.”
“Mời mọc?”
“Mời anh ở lại.”
“Ở lại,” tôi nói. “Ở lại... mãi mãi ấy à?”
“Ở trên hòn đảo này anh sẽ trở thành bất tử,” cô ấy nói nhẹ nhàng. “Anh sẽ không bao giờ già, không bao giờ chết. Anh có thể để trận chiến đó cho người khác, Percy Jackson. Anh có thể tránh được Lời Sấm Truyền về mình.”
Tôi nhìn cô ấy chăm chăm, sửng sốt. “Chỉ như vậy sao?”
Cô ấy gật đầu. “Chỉ như vậy.”
“Nhưng... các bạn của tôi?”
Calypso đứng dậy và nắm lấy tay tôi, khiến tôi cảm thấy vô cùng ấm áp. “Anh hỏi tôi về lời nguyền, Percy. Tôi đã không muốn kể cho anh. Sự thật là các vị thần thỉnh thoảng vẫn gửi cho tôi những người bạn đồng hành. Cứ khoảng một nghìn năm, họ lại cho một anh hùng trôi dạt đến đây, một người cần sự giúp đỡ của tôi. Tôi sẽ chăm nom, săn sóc người đó và trở thành bạn bè, nhưng điều này không phải ngẫu nhiên. Ba vị Thần Mệnh đã định đoạt rằng người hùng mà họ gửi tới cho tôi là người...”
Giọng cô ấy run run, và cô dừng lại.
Tôi nắm tay cô ấy chặt hơn. “Sao vậy? Tôi đã làm điều gì khiến cô buồn hay sao?”
“Họ đem tới một người nhưng người đó lại không thể ở lại đây,” cô ấy thì thầm. “Một người chỉ có thể làm bạn với tôi trong một thời gian ngắn ngủi. Họ đem tới cho tôi một người hùng mà tôi không thể... một kiểu người tôi không thể không yêu.”
Màn đêm tĩnh lặng, chỉ trừ tiếng nước róc rách chảy ra từ đài phun nước và những con sóng vỗ bờ. Phải mất một lúc lâu tôi mới hiểu ra những gì mà Calypso đang nói.
“Tôi sao?” Tôi hỏi.
“Nếu anh tự nhìn thấy khuôn mặt của mình.” Cô ấy cố nén lại một nụ cười, mặc dù trên mắt cô ấy vẫn đang ươn ướt nước. “Tất nhiên là anh rồi.”
“Đó là lý do tại sao cô luôn phải kiềm chế sao?”
“Tôi đã rất cố gắng, nhưng tôi không thể. Ba vị Thần Mệnh thật ác nghiệt. Họ đem anh tới đây, người hùng của tôi, mặc dù họ biết anh sẽ làm tim tôi tan nát.”
“Nhưng... tôi chỉ... ý tôi là tôi chỉ là tôi.”
“Vậy là đủ rồi,” Calypso hứa hẹn. “Tôi đã tự nhủ sẽ không bao giờ nói đến chuyện này. Tôi sẽ để anh đi, và không níu kéo gì cả. Nhưng tôi không thể. Có lẽ Ba vị Thần Mệnh cũng biết điều này. Anh có thể ở lại mà, Percy. E rằng đó là việc duy nhất anh có thể giúp tôi.”
Tôi nhìn về phía chân trời. Những tia sáng màu đỏ đầu tiên của bình minh đang ló rạng trên bầu trời. Tôi có thể ở đây, mãi mãi, biến mất khỏi trái đất. Tôi có thể sống cùng Calypso, với những người hầu vô hình làm bất cứ những gì mà tôi yêu cầu họ. Chúng tôi có thể trồng hoa trong vườn và nói chuyện với lũ chim, đi dạo trên bãi biển dưới bầu trời xanh trong trẻo. Không chiến tranh. Không có Lời Sấm Truyền nào cả. Không còn cần phải chọn lựa phe để ủng hộ.
“Tô không thể,” tôi trả lời.
Cô ấy buồn bã cúi xuống.
“Tôi sẽ không bao giờ làm điều gì để khiến cô đau khổ,” tôi nói, “nhưng bạn bè đang cần tôi. Giờ tôi biết làm thế nào để giúp họ rồi. Tôi phải quay về thôi.”
Cô ấy ngắt một bông hoa từ trong vườn – một cành hoa Mảnh Trăng bằng bạc. Ánh hào quang của nó tắt dần khi mặt trời mọc. Bình minh là thời điểm tốt nhất để đưa ra quyết định. Thần Hephaestus đã nói vậy. Calypso nhét bông hoa vào túi áo phông của tôi.
Cô ấy kiễng chân hôn lên trán tôi, như một lời cầu nguyện. “Vậy hãy tiến về phía bờ nước đi. Và tôi sẽ giúp anh quay về nhà.”
Một chiếc bè được tạo thành từ những thanh gỗ ghép vào và rộng khoảng ba mét vuông, cột buồm làm bằng một cây sào và trên đó treo một mảnh vải trắng làm buồm trông cực kỳ đơn giản. Trông nó không thể đi biển được, hoặc không thể đi hồ được.
“Nó sẽ giúp anh đến bất cứ nơi nào anh muốn,” Calypso nói. “Và nó cũng rất an toàn.”
Tôi nắm lấy tay cô ấy, nhưng cô ấy rụt tay lại.
“Có thể tôi sẽ lại tới thăm cô,” tôi nói.
Cô ấy lắc đầu. “Chẳng ai tìm được đảo Ogygia đến hai lần, Percy. Khi anh đi nghĩa là tôi sẽ chẳng bao giờ được gặp lại anh nữa.”
“Đi đi, tôi xin anh đấy.” Giọng cô ấy nghẹn ngào. “Ba vị Thần Mệnh thật ác nghiệt, Percy. Chỉ cần anh nhớ tới tôi thôi.” Rồi một nụ cười cũng nở trên môi cô ấy. “Hãy trồng nó trong vườn ở Manhattan vì tôi nhé?”
“Tôi hứa.” Tôi bước lên chiếc bè và ngay lập tức nó rời bờ.
Khi chiếc bè ra đến giữa hồ, tôi mới thực sự nhận ra Ba vị Thần Mệnh đã ác nghiệt đến thế nào. Họ đưa đến cho Calypso một người mà cô ấy không thể không yêu... nhưng lần này nó đã tác động hai chiều. Đến hết cuộc đời này, tôi sẽ mãi nhớ cô ấy. Và cô gái ấy mãi là một chữ NẾU NHƯ lớn nhất của tôi.
Chỉ trong vài phút đảo Ogygia đã biến mất trong màn sương. Tôi đang một mình giữa hồ và bơi về phía mặt trời.
Rồi sau đó tôi bảo cái bè phải làm gì. Tôi nói cho nó nơi duy nhất tôi nghĩ đến, vì tôi cần sự an ủi và cần những người bạn của tôi.
“Trại Con Lai,” tôi nói. “Đưa ta về nhà.”