Vài giờ sau, bè của tôi cập vào Trại Con Lai. Tôi cũng không hiểu tôi về được đây bằng cách nào nữa. Đang đi trên hồ thì nước hồ biến thành nước biển, rồi bờ biển Long Island quen thuộc hiện ra trước mắt, và một cặp cá mập trắng quen thuộc ngoi lên mặt nước kéo tôi vào bờ.
Khi tôi dừng lại, Trại Con Lai dường như bị bỏ không. Đang là buổi chiều muộn nhưng khu vực bắn cung lại trống huếch. Tường để tập trèo thì dung nham cứ ì èo tuôn chảy một mình. Sảnh đường: chẳng có gì. Các khu nhà: đều trống không. Rồi sau đó tôi để ý thấy có một đám khói đang bốc lên từ phía đài vòng. Còn quá sớm để đốt lửa trại, và tôi không nghĩ là họ đang nướng bánh marshmallow. Tôi bèn chạy về phía đó.
Nhưng trước khi tôi đến được đó, tôi đã nghe thấy tiếng bác Chiron ra thông báo. Khi nghe được những gì bác ấy nói, tôi đứng khựng lại.
“... cho rằng cậu ấy đã chết,” bác Chiron nói. “Sau một thời gian dài im lặng, có lẽ lời cầu nguyện của chúng ta đã không được trả lời. Ta đã nhờ người bạn tốt nhất còn sống của cậu ấy cử hành nghi thức tôn vinh cuối cùng.”
Tôi xuất hiện ở phía sau khán đài, nhưng chẳng ai để ý đến tôi. Họ đều đang nhìn về phía trước, khi Annabeth cầm một tấm vải liệm bằng lụa xanh dài có thêu một cây đinh ba và đặt nó vào trong ngọn lửa. Họ đang đốt vải liệm cho tôi.
Annabeth quay lại phía mọi người. Trông cô ấy thật kinh dị. Mắt cô ấy sưng húp vì khóc, nhưng vẫn cố nói, “Có lẽ cậu ấy là người bạn dũng cảm nhất mà tôi từng có. Cậu ấy...” Rồi cô ấy nhìn thấy tôi. Mặt cô ấy đỏ lựng lên. “Cậu ấy kia kìa!”
Những cái đầu quay lại. Mọi người há hốc mồm nhìn tôi.
“Percy!” Beckendorf cười nhăn nhở. Một đám trẻ khác vây quanh tôi và vỗ vào lưng tôi. Tôi nghe thấy vài câu nguyền rủa từ phía nhà thần Ares, nhưng Clarisse chỉ tròn mắt ngạc nhiên, như thể cô ấy không thể tin được là tôi sống sót. Bác Chiron chạy bay đến và mọi người nhường đường cho bác ấy.
“Được rồi,” bác ấy thở dài như một sự giải thoát không thể tin được là mình lại chưa bao giờ vui hơn thế này khi thấy một trại viên trở về. Nhưng cháu phải kể cho bác nghe...”
“C̣U ĐÃ Ở ĐU THẾ?” Annabeth ngắt lời bác Chiron, gạt hết những trại viên khác ra. Tôi tưởng cô ấy chuẩn bị đấm tôi, nhưng thay vào đó, cô ấy ôm tôi chặt đến nỗi tôi suýt gãy xương sườn. Tất cả các trại viên khác đều im lặng. Rồi sau đó nhận ra những gì mình đang làm, Annabeth đẩy tôi ra và nói: “Tôi... chúng tôi nghĩ cậu đã chết rồi cơ, Óc Tảo Biển!”
“Tớ xin lỗi,” tôi nói. “Tớ đi lạc.”
“ĐI LẠC?” cô ấy hét lớn. “Lạc mà hai tuần hả, Percy? Cậu đã ở chỗ nào...”
“Annabeth,” bác Chiron ngắt lời. “Có lẽ chúng ta nên nói chuyện này ở một nơi nào đó riêng tư hơn, được không. Tất cả mọi người quay lại với công việc hàng ngày đi!”
Không đợi chúng tôi phản kháng, bác Chiron nhấc bổng tôi và Annabeth một cách dễ dàng như thể chúng tôi là những con mèo con, vứt chúng tôi lên lưng và phi nước đại về phía Nhà Lớn.
Tôi đã không kể hết câu chuyện cho họ nghe. Tôi không thể nói về Calypso. Tôi đã giải thích việc mình tạo nên vụ nổ tại núi St. Helens như thế nào, và bị bắn tung ra khỏi núi lửa ra sao. Tôi nói với họ rằng tôi lạc đến một hòn đảo, rồi sau đó thần Hephaestus tìm thấy tôi và nói với tôi rằng tôi có thể rời hòn đảo. Một chiếc bè có phép thuật đã đưa tôi trở lại trại.
Tất cả những chuyện đó đều đúng, nhưng khi kể lại lòng bàn tay tôi vẫn ướt đẫm mồ hôi.
“Cậu đã biến mất hai tuần nay.” Giọng Annabeth đã bình tĩnh hơn, nhưng trông cô ấy vẫn còn khá sốc. “Khi tớ nghe thấy vụ nổ, tớ tưởng...”
“Tớ biết rồi,” tôi nói. “Tớ xin lỗi, nhưng tớ đã biết được cách đi qua Mê Cung rồi. Tớ đã nói chuyện với thần Hephaestus.”
“Ông ấy cho cậu câu trả lời à?”
“Ừ, đại khái ông ấy nói là tớ đã biết câu trả lời. Và đúng là như vậy. Giờ thì tớ đã hiểu.”
Tôi nói cho họ nghe ý tưởng của tôi.
Annabeth há hốc miệng. “Percy, điều đó thật là điên rồ!”
Bác Chiron ngồi lùi lại trong chiếc xe lăn của mình và vuốt râu. “Tuy nhiên luôn có những tiề lệ. Theseus thì có sự giúp đỡ của Ariadne. Harriet Tubman(16), con gái của thần Hermes, cũng đã sử dụng rất nhiều người thường ở Đường Sắt Ngầm chỉ vì lí do này.”
“Nhưng đây là cuộc tìm kiếm của cháu,” Annabeth nói. “Cháu phải là người dẫn đường.”
Bác Chiron trông không được thoải mái cho lắm. “Cháu yêu, đó đúng là cuộc tìm kiếm của cháu. Nhưng cháu cần sự giúp đỡ.”
“Và việc đó được cho là sự giúp đỡ sao? Bác ơi, điều đó hoàn toàn sai. Đó là hèn nhát, đó là...”
“Thật khó khi phải thừa nhận rằng chúng ta cần sự giúp đỡ của con người,” tôi nói. “Nhưng đó là sự thật.”
Annabeth liếc nhìn tôi đầy giận dữ: “Cậu là một kẻ phiền nhiễu nhất mà tớ từng gặp đấy!” Nói rồi cô ấy lao ra khỏi phòng.
Tôi đăm chiêu nhìn cửa ra vào. Lúc này tôi chỉ muốn đánh vào cái gì đó. “Quá nhiều cho việc là người bạn dũng cảm nhất mà cô ấy từng có.”
“Con bé sẽ bình tĩnh trở lại thôi,” bác Chiron hứa hẹn. “Nó đang ghen đấy, cháu yêu ạ.”
“Thật là ngu ngốc. Cô ấy không... không phải...”
Bác Chiron cười khúc khích. “Chẳng vấn đề gì đâu. Annabeth rất quan tâm đến bạn bè mình, do cháu không để ý đấy thôi. Con bé đã rất lo lắng cho cháu. Và giờ thì cháu đã trở về, ta nghĩ con bé đang nghi ngờ không biết cháu đã lạc đi đâu.”
Ánh mắt chúng tôi gặp nhau, và tôi biết bác Chiron đã đoán được về Calypso. Thật khó để giấu điều gì với một người từng huấn luyện các anh hùng suốt mấy nghìn năm nay. Bác ấy hiểu quá rõ điều đó.
“Chúng ta không nói đi nói lại mãi về lựa chọn của cháu,” bác Chiron nói. “Cháu đã quay lại. Vấn đề nằm ở đó.”
“Hãy nói với Annabeth điều đó.”
Bác Chiron mỉm cười. “Sáng mai bác sẽ bảo Argus đưa hai cháu đến Manhattan. Cháu có thể qua thăm mẹ nữa Percy ạ. Bà ấy... quẫn trí là điều có thể hiểu được.”
Tim tôi như ngừng một nhịp. Trong suốt thời gian ở trên đảo của Calypso, tôi chưa bao giờ nghĩ về cảm giác của mẹ tôi. Mẹ sẽ nghĩ là tôi đã chết. Mẹ sẽ đau buồn mòn mỏi đến chết mất. Sao tôi lại không hê nghĩ gì đến mẹ mình nhỉ?
“Bác Chiron,” tôi hỏi, “còn Grover và Tyson thì sao? Bác có nghĩ...”
“Bác không biết.” Bác Chiron nhìn vào cái lò sưởi nguội giá. “Juniper khá đau khổ. Tất cả các cành cây của cô ấy đang chuyển sang màu vàng. Hội đồng Trưởng lão Cloven đã thu hồi giấy phép tìm kiếm khi không có sự hiện diện của Grover. Cho dù cậu ấy có còn sống quay trở lại thì họ cũng sẽ ép cậu ấy đi đày trong tủi hổ thôi.” Bác ấy thở dài. “Tuy nhiên Grover và Tyson đều là người tháo vát. Chúng ta vẫn có thể hy vọng.”
“Đáng lẽ cháu không nên để cho họ đi.”
“Grover có số phận riêng của cậu ấy, và Tyson cũng rất dũng cảm khi đi theo Grover. Nếu Grover gặp nguy hiểm nguy đến tính mạng thì cháu phải biết chứ, đúng không?”
“Cháu cho là thế. Sợi dây giao cảm. Nhưng...”
“Có một số việc ta muốn nói với cháu, Percy,” bác ấy nói. “Thực ra là có hai tin không mấy hay ho.”
“Tuyệt.”
“Chris Rodriguez, vị khách của chúng ta...”
Tôi nhớ lại những gì mình đã nhìn thấy ở tầng hầm, Clarisse cố nói chuyện với cậu ấy trong khi cậu lảm nhảm nói về Mê Cung. “Anh ta chết rồi sao?”
“Chưa,” bác Chiron nói một cách dứt khoát. “Nhưng tình hình của cậu ta tồi tệ đi nhiều. Giờ cậu ta đang ở bệnh xá, quá yếu để có thể di chuyển. Bác đã phải ra lệnh Clarisse quay lại với lịch tập hàng ngày, vì con bé suốt ngày quanh quẩn bên giường bệnh. Cậu ta chẳng phản ứng với bất cứ điều gì. Không ăn mà cũng chẳng uống. Chẳng có thuốc nào của ta trị được. Cậu ta đơn giản đã mất hết nghị lực sống rồi.”
Tôi rùng mình. Mặc dù đã cãi lộn với Clarisse nhiều lần nhưng tôi vẫn thấy tội nghiệp cho cô ta. Cô ta đã cố gắng hết sức để giúp Chris. Và sau khi đã vào Mê Cung thì tôi lại càng hiểu tại sao vua Minos có thể dễ dàng làm Chris phát điên lên như vậy. Nếu tôi phải quanh quẩn dưới đó một mình và không được bạn bè giúp đỡ thì có lẽ tôi cũng chẳng bao giờ tìm được đường ra.
“Và ta rất buồn phải thông báo rằng,” bác Chiron tiếp tục, “tin thứ hai còn kinh khủng hơn. Quintus biến mất rồi.”
“Biến mất? Như thế nào ạ?”
“Ba đêm trước ông ta lẻn vào Mê Cung. Juniper là người chứng kiến việc đó. Có lẽ cháu đã nói đúng về hắn.”
“Ông ta là gián điệp cho Luke.” Tôi kể cho bác Chiron về Nông Trại Ba G – việc Quintus đã mua lũ bọ cạp ở đó như thế nào và việc Geryon cung cấp cho quân đội của Kronos những gì. “Không thể trùng hợp như vậy được.”
Bác Chiron thở dài nặng nề. “Quá nhiều kẻ phản bội. Ta đã hy vọng Quintus sẽ chứng minh hắn là bạn của chúng ta. Xem ra nhận định của ta thật là tồi tệ.”
“Còn con O’Leary thì sao?” tôi hỏi.
“Con chó ngao vẫn ở trong trường đấu. Nó chẳng cho ai tới gần cả. Bác không muốn lùa nó vào chuồng... mà cũng không muốn giết nó.”
“Quintus sẽ không bỏ nó như vậy đâu.”
“Bác đã nói rồi, Percy, dường như chúng ta đã nhìn lầm về hắn. Giờ thì cháu phải chuẩn bị cho sáng mai đi. Cháu và Annabeth vẫn còn nhiều việc để làm lắm đấy.”
Tôi để bác ấy lại trên chiếc xe lăn, mắt nhìn mông lung vào lò sưởi. Tôi tự hỏi không biết đã bao nhiêu lần bác ấy ngồi đó và chờ đợi những anh hùng chẳng bao giờ quay lại.
Trước bữa tối, tôi dừng lại một chút ở trường đấu kiếm. Rõ ràng con O’Leary đang cuộn tròn thành một đống đen sì giữa đấu trường và đang miễn cưỡng nằm nhai cái đầu của hình nộm chiến binh.
Khi nhìn thấy tôi, nó sủa và nhảy bổ vào tôi. Tôi đứng đơ ra như khúc thịt. Tôi chỉ có đủ thời gian để nói, “Oa!” trước khi con chó ngao đẩy tôi xuống và liếm lên mặt tôi. Bình thường là con của thần biển Poseidon, tôi chỉ bị ướt người khi nào tôi muốn, nhưng sức mạnh của tôi hình như chẳng có tác dụng gì trước nước dãi của loài chó, vì tôi đang được tắm một trận ra trò.
“Oa, thôi nào!” tôi la nheo nhéo. “Không thở được rồi! Để tao đứng dậy đi chứ!”
Cuối cùng tôi cũng đẩy được nó ra. Tôi gãi gãi tai nó và tìm cho nó một cái bánh quy cực kỳ khổng lồ dành cho chó.
“Chủ của mày đâu?” tôi hỏi nó. “Sao ông ta lại bỏ mày, hả?”
Nó rên rỉ, như thể cũng muốn biết điều đó lắm. Tôi đã hoàn toàn nghĩ rằng Quintus là kẻ thù, nhưng tôi vẫn không hiểu sao ông ta lại để O’Leary ở lại. Điều duy nhất tôi có thể chắc chắn là ông ấy rất yêu con chó siêu bự của mình.
Khi đang vừa nghĩ ngợi lung tung về điều đó vừa lau nước dãi của con chó trên mặt thì tôi nghe thấy một giọng con gái cất lên, “May mà nó không cắn lìa đầu cậu ra đấy.”
Clarisse đang đứng ở đầu kia khán đài với khiên và kiếm trong tay. “Hôm qua đến đây luyện tập,” cô ta gầm gừ. “Con chó đó định nhai sống tớ.”
“Nó là một con chó thông minh,” tôi nói.
“Buồn cười nhỉ.”
Cô ta bước về phía chúng tôi. ConO’Leary gầm gừ, nhưng tôi vỗ vỗ đầu nó để nó bình tĩnh lại.
“Con chó ngao đần độn,” Clarisse nói. “Không ngăn cản tao luyện tập nữa à.”
“Tớ đã nghe chuyện về Chris,” tôi nói. “Tớ rất tiếc.”
Clarisse bước theo vòng tròn trong sân đấu. Khi tới gần hình nộm gần nhất, cô ta tấn công một cách dữ dội, chặt đứt đầu nó chỉ bằng một nhát kiếm và đâm thanh kiếm xuống đến tận ruột của con bù nhìn. Cô ta rút kiếm ra và tiếp tục bước đi.
“Ừ, đúng. Thỉnh thoảng mọi việc vẫn diễn ra theo hướng tồi tệ.” Giọng cô ta run run. “Các anh hùng bị thương. Họ... họ chết, nhưng quái vật thì vẫn sống lại.”
Cô ta nhặt một mũi lao lên và ném nó ngang qua trường đấu. Mũi lao đâm trúng giữa trán hình nộm, giữa hai hốc mắt trên mũ sắt.
Cô ta đã gọi Chris là anh hùng, như thể cậu ta chưa bao giờ đứng về phía các thần Titan. Điều đó làm tôi nhớ đến cái cách mà Annabeth thỉnh thoảng vẫn nói về Luke. Tôi không muốn nhắc thêm chuyện đó nữa.
“Chris rất dũng cảm,” tôi nói. “Hy vọng cậu ta sẽ đỡ hơn.”
Cô ta liếc tôi như thể tôi chuẩn bị là mục tiêu tiếp theo vậy. Cô chó ngao O’Leary tiến lại gầm gừ.
“Hãy giúp tôi một việc,” Clarisse bảo tôi.
“Ừ, chắc chắn rồi.”
“Nếu cậu tìm thấy Daedalus, đừng có tin hắn. Đừng có nhờ hắn giúp đỡ. Cứ giết hắn đi.”
“Clarisse
“Bởi vì đâu có phải người nào cũng có thể làm được cái gì đó như cái Mê Cung đó, Percy? Người đó chỉ là quỷ dữ. Hoàn toàn xấu xa.”
Trong một khoảnh khắc, cô ta làm tôi nhớ đến anh chàng chăn bò Eurytion, người anh em cùng cha khác mẹ với cô ta. Trong mắt cô ta cũng có cái nhìn cứng cỏi, như thể cô ta đã cật lực trong hai nghìn năm qua và đang mệt mỏi vì điều đó. Clarisse tra kiếm vào bao. “Giờ luyện tập đã kết thúc. Từ giờ trở đi, chúng ta sẽ chiến đấu thật.”
Đêm hôm đó, tôi lại được ngủ trên chiếc giường của chính mình, và lần đầu tiên kể từ khi ở đảo của Calypso, những giấc mơ đã tìm đến tôi.
Tôi đang ở trong phòng xử án của nhà vua – một phòng xét xử lớn màu trắng với những chiếc cột ốp đá cẩm thạch và một chiếc ngai bằng gỗ. Ngồi trên đó là một gã béo mập với mái tóc đỏ quăn tít và đội một chiếc vương miện làm từ cành nguyệt quế. Đứng bên cạnh ông ta là ba cô gái, có vẻ là con gái ông. Họ đều thừa kế mái tóc đỏ và đang mặc những chiếc áo đầm dài màu xanh.
Cánh cửa kẽo kẹt mở ra và sứ giả thông báo: “Minos, Vua vùng Crete!”
Tôi căng thẳng, nhưng người đàn ông trên ngai vàng chỉ mỉm cười và nói với các cô con gái. “Ta không thể chờ thêm nữa để xem biểu hiện trên mặt hắn.”
Minos bước vào phòng. Trông hắn cao và uy nghi, khiến cho gã vua còn lại trở nên ngớ ngẩn. Bộ râu nhọn của Minos đã bạc trắng. Trông ông ta gầy hơn lần trước tôi gặp trong mơ, còn đôi xăng đan của ông ta cũng nhoe nhoét bùn đất, nhưng vẫn là ánh mắt độc ác sáng lấp lánh ấy.
Hắn ta cúi chào một cách khó khăn với người đàn ông trên ngai vàng. “Vua Cocalus. Ta nghĩ ngài đã giải được câu đố nhỏ của ta rồi chứ?”
Cocalus mỉm cười. “Không nhỏ đâu, Minos. Đặc biệt khi ngài quảng bá khắp thế giới rằng ngài sẵn sàng trả một ngàn talăng vàng cho người nào có thể giải được câu đố đó. Lời đề nghị liệu có chính xác không?”
Minos vỗ tay. Hai tên lính gác bước vào, cố gắng di chuyển một cái thùng gỗ lớn. Họ đặt nó dưới chân Cocalus và mở ra. Hàng chồng, hàng chồng những thanh vàng sáng lấp lánh. Chúng phải trị giá đến nhiều triệu đô la.
Cocalus huýt sáo cảm kích. “Ngài chắc phải làm phá sản cả vương quốc để có được món quà này ấy nhỉ, bạn
“Ngươi không cần phải quan tâm điều đó.”
Cocalus nhún vai. “Thực ra câu hỏi đó khá đơn giản. Một trong các tùy tùng của ta đã giải được nó đấy.”
“Cha,” một trong những cô con gái nhắc nhở. Có vẻ cô ta là con cả – cao hơn hai cô còn lại một chút.
Cocalus lờ cô ta đi. Ông ta cầm một cái vỏ ốc xoắn từ trong tay áo ra. Một sợi dây bạc đã được xuyên qua nó, vì thế nó được treo giống cái hạt lớn trên chuỗi hạt đeo cổ.
Minos bước lên phía trước và cầm lấy cái vỏ sò. “Ngài nói là một trong số các người tùy tùng của mình sao? Làm sao hắn có thể luồn dây mà không làm vỡ vỏ sò?”
“Hắn đã dùng một con kiến, nếu ngươi tin điều đó. Buộc một sợi lụa vào con vật nhỏ, dụ nó đi xuyên qua cái vỏ sò bằng cách đặt mật ong ở đầu bên kia.”
“Thật là thông minh,” Minos nói.
“Ồ, đúng vậy. Đó là gia sư của các con gái của ta. Bọn chúng đều rất thích ông ta.”
Mắt Minos trở nên sắc lạnh. “Ta sẽ cảnh giác điều đó.”
Tôi muốn cảnh báo cho Cocalus: Đừng tin gã này! Ném hắn vào ngục tối với mấy con sư tử ăn thịt người hoặc các con gì đó tương tự! Nhưng vị vua đầu đỏ chỉ cười khùng khục. “Đừng lo, Minos. Các con gái ta đều thông minh trước tuổi. Thế còn bây giờ, vàng của ta...”
“Vâng,” Minos said. “Nhưng ngài thấy đấy, vàng này là dành cho người giải được câu đố. Và chỉ có người được nhận mà thôi. Ngài đang che giấu Daedalus.”
Cocalus xoay người khó chịu trên chiếc ngai của hắn ta. “Sao ngài biết tên ông ta?”
“Hắn là một tên trộm,” Minos nói. “Hắn từng làm việc cho ta, Cocalus. Hắn làm cho con gái ta chống lại ta. Hắn giúp một kẻ tiếm quyền biến ta thành trò hề ngay trong cung điện của ta. Và rồi hắn bỏ trốn. Ta đã tìm kiếm hắn suốt mười năm nay.”
“Ta không biết gì về chuyện này cả. Nhưng ta đã hứa bảo hộ ông ta. Ông ta là một trong những cận thần đắc lực...”
“Ta cho ngài một lựa chọn,” Minos nói. “Giao tên phản bội cho ta, và số vàng này là của ngài. Hoặc là liều mạng biến ta thành kẻ thù. Chắc ngài không muốn Crete là kẻ thù của chứ.”
Mặt Cocalus biến sắc. Tôi nghĩ ông ta thật ngu ngốc khi tỏ ra sợ hãi như vậy ở giữa cung điện của chính mình. Đáng lẽ ông ta phải triệu tập quân đội ngay lập tức, hoặc làm gì đó. Minos chỉ đem theo mỗi hai tên lính gác. Nhưng Cocalus chỉ ngồi đó và toát mồ hôi.
“Cha,” cô con gái cả nói, “cha không thể...”
“Im lặng, Aelia.” Cocalus xoắn xoắn râu mình. Ông ta nhìn chỗ vàng đang sáng lấp lánh một lần nữa. “Điều này khiến ta thật đau lòng, Minos. Các vị thần không thích những người không tôn trọng lòng hiếu khách của họ đâu.”
“Họ cũng không thích những người chứa chấp tội phạm đâu.”
Cocalus gật đầu. “Tốt lắm. Ta sẽ trả gã đó cho ngài.”
“Cha!” Aelia nói một lần nữa. Rồi sực nhớ ra điều gì, cô gái đổi sang một giọng nói ấm áp hơn. “Ít... ít nhất thì cũng để chúng con tiếp đãi vị khách của chúng ta đã. Sau chuyến đi dài, chắc ngài ấy sẽ cần tắm nước nóng, thay quần áo mới và một bữa ăn tươm tất. Con sẽ rất vinh hạnh nếu được chuẩn bị nước nóng cho ngài tắm.”
Cô ấy mỉm cười tươi tắn với Minos, và vị vua già lẩm bẩm. “Có lẽ đi tắm cũng không phải là việc gì xấu xa.” Ông ta nhìn Cocalus. “Ta sẽ gặp ngài vào bữa tối. Cùng với tên tù binh nữa.”
“Đường này, thưa Bệ hạ,” Aelia nói. Cô cùng hai người em gái dẫn Minos ra khỏi khán phòng.
Tôi đi theo họ vào một phòng tắm trang trí bằng đá khảm. Hơi nước bốc mù mịt trong không khí. Nước nóng từ một chiếc vòi chảy vào bồn. Aelia và các em thả cánh hoa hồng và cái gì đó như “sản phẩm tạo bọt” của Hy Lạp Cổ đại, vì ngay lập tức một lớp bọt đầy màu sắc đã phủ đầy bồn nước. Các cô gái quay đi để Minos cởi áo choàng và bước vào bồn tắm.
“Ahh.” Hắn ta mỉm cười. “Thật tuyệt vời. Cảm ơn các quý cô nhé. Quả là ta đã có một hành trình dài.”
“Ngài đã đuổi theo kẻ phản bội đó suốt mười năm ư, thưa Bệ hạ?” Aelia chớp chớp mắt hỏi, “Chắc hẳn ngài phải quyết tâm lắm nhỉ?”
“Nợ ta thì ta không bao giờ quên.” Minos cười ha hả. “Cha các cô đồng ý với yêu cầu của ta là thông minh đấy.”
“Ôi, thưa Bệ hạ, quả là như vậy!” Aelia nói. Tôi thấy rõ ràng là cô ta đang niợ, nhưng lão vua già vẫn cứ điềm nhiên nhận nó. Các em của Aelia xức dầu thơm lên đầu nhà vua.
“Ngài biết không, Bệ hạ,” Aelia nói, “Daedalus đã nghĩ rằng ngài sẽ đến. Ông ấy nghi câu đố ngài đưa ra là một cái bẫy, nhưng ông ấy không thể không giải câu đố đó.”
Minos nhíu mày. “Daedalus nói với các cô về ta sao?”
“Vâng, thưa Bệ hạ.”
“Hắn là một gã tồi, công chúa ạ. Chính con gái ta cũng bị bùa chú của hắn làm hại. Đừng có nghe hắn.”
“Ông ấy là một thiên tài,” Aelia nói. “Ông ấy tin rằng phụ nữ cũng thông minh giống đàn ông. Ông ấy là người đầu tiên đã dạy chúng tôi như thể chúng tôi có suy nghĩ riêng của chính mình! Và có lẽ con gái ngài cũng có cảm giác như vậy.”
Minos cố ngồi thẳng lên, nhưng các em của Aelia đã ấn hắn xuống nước. Aelia xuất hiện đằng sau hắn. Cô gái cầm ba quả cầu nhỏ trong tay. Ban đầu, tôi nghĩ đó là những viên dầu tắm, nhưng khi cô gái ném chúng xuống bồn nước, chúng mọc lên thành những sợi dây đồng cuốn chặt lấy vị vua, trói cổ chân hắn lại, buộc hai tay hắn vào cạnh sườn và quấn quanh cổ hắn. Mặc dù tôi ghét Minos nhưng chứng kiến cảnh này cũng khiến tôi kinh hãi. Hắn vùng vẫy kêu gào, nhưng các cô gái đó còn mạnh hơn nhiều. Chẳng mấy chốc hắn trở nên bất lực, nằm im trong nước và chỉ nhô từ cằm trở lên. Những sợi dây đồng vẫn cuốn lấy hắn như cái kén, càng ngày càng siết chặt hơn.
“Các ngươi muốn gì?” Minos gặng hỏi. “Tại sao các ngươi làm thế này?”
Aelia mỉm cười. “Daedalus đã rất tốt với chúng tôi, thưa Bệ hạ. Và tôi không thích cái cách ông dọa nạt cha chúng tôi.”
“Ngươi hãy nói với Daedalus,” Minos gầm lên. “Nói với hắn là đến chết ta cũng theo hắn! Nếu Địa Ngục vẫn còn công lý thì linh hồn ta sẽ ám hắn suốt đời!”
“Những từ ngữ thật dũng cảm, Bệ hạ,” Aelia nói. “Chúc ngài tìm được công lý dưới Địa Ngục nhé.”
Và cùng lúc đó, những sợi dây đồng cuốn quanh mặt Minos, biến hắn thành một xác ướp bằng đồng.
Cửa nhà tắm bật mở. Daedalus bước vào, đem theo một chiếc túi du lịch.
Ông ta đã tỉa thành tóc ngắn. Râu của ông ta trắng tinh. Trông ông buồn bã và yếu ớt, rồi ông cúi xuống và chạm vào trán cái xác ướp. Những sợi dây lỏng ra và chìm xuống đáy bồn. Chẳng có gì trong đó cả. Giống như vua Minos đã tan biến hoàn toàn.
“Một cái chết không đau đớn,” Daedalus trầm ngâm. “Thế là nhẹ nhàng cho hắn rồi. Cảm ơn các công chúa của ta.”
Aelia ôm lấy ông. “Thầy không thể ở đây nữa, thầy giáo! Khi cha ta phát hiện ra...”
“Vâng,” Daedalus nói. “Ta cảm giác mình đã đem rắc rối cho các cô.”
“Ồ, đừng lo cho chúng tôi. Cha cầm được đống vàng của lão già đó chắc vui lắm rồi. Và Crete cũng ở xa lắm. Nhưng cha ta sẽ đổ lỗi cho thầy về việc đã hại chết Minos. Thầy phải tới một nơi nào đó an toàn mới được”
“Nơi nào đó an toàn,” người đàn ông già lẩm bẩm. “Suốt những năm qua ta đã lang bạt hết vương quốc này đến vương quốc khác nhằm tìm một nơi nào đó an toàn. Ta sợ điều Minos nói là sự thật. Cái chết cũng sẽ không khiến hắn buông tha ta. Không một nơi nào dưới ánh mặt trời có thể che giấu ta một khi vụ giết người này bị bại lộ.”
“Vậy thì thầy sẽ đi đâu?” Aelia hỏi.
“Một nơi mà ta đã thề là không bao giờ tới nữa,” Daedalus nói. “Nhà tù có lẽ là nơi trú ẩn duy nhất của ta.”
“Ta không hiểu,” Aelia nói.
“Cô không hiểu thì tốt hơn.”
“Thế còn Địa Ngục thì sao?” một trong hai cô em lên tiếng. “Những lời phán quyết khủng khiếp đang đợi thầy! Con người đều phải chết mà.”
“Có thể,” Daedalus nói. Sau đó ông lôi trong túi du lịch của mình ra một cuộn giấy – giống như cuộn lần trước tôi đã nhìn thấy trong giấc mơ, với những dòng chữ của cháu ông ta. “Hoặc có thể không.”
Ông vỗ vai Aelia, rồi sau đó chúc phúc cho các chị em cô. Một lần nữa ông nhìn xuống những vòng dây đồng đang sáng lấp lánh dưới đáy bồn tắm. “Cứ tìm tao nếu mày dám, vua của những con ma ạ.”
Ông ấy quay về phía bức tường khảm và chạm vào một viên đá. Một cái dấu phát sáng xuất hiện – một dấu của Hy Lạp – và bức tường mở về hai phía. Các cô công chúa há hốc miệng vì ngạc nhiên.
“Thầy chưa bao giờ nói với chúng tôi về những lối đi bí mật!” Aelia nói. “Thầrất bận rộn.”
“Mê Cung này mới bận rộn,” Daedalus chữa lại. “Đừng đi theo tôi nhé các cô gái, nếu các cô còn minh mẫn.”
Tôi lại chuyển sang một giấc mơ khác. Tôi đang ở trong một căn phòng đá dưới mặt đất. Luke và một chiến binh á thần nữa đang đọc một tấm bản đồ bằng ánh sáng đèn pin.
Luke chửi thề. “Đáng lẽ đó phải là chỗ rẽ cuối cùng rồi chứ.” Hắn ta vò nhàu tấm bản đồ và vứt qua một bên.
“Thưa ngài!” người đi cùng hắn ta lên tiếng.
“Bản đồ cũng vô dụng ở đây,” Luke nói. “Đừng lo. Ta sẽ tìm thấy nó.”
“Thưa ngài, có đúng là nhóm càng đông...”
“Thì càng dễ lạc chứ gì? Đúng vậy đấy. Thế ngươi nghĩ tại sao chúng ta lại cho từng người đơn lẻ đi thám thính đầu tiên chứ? Nhưng đừng lo, ngay khi có được sợi dây, chúng ta sẽ có thể đưa nguyên một đội quân tiên phong đi qua.”
“Nhưng làm thế nào để chúng ta có được sợi dây?”
Luke đứng dậy, bẻ các ngón tay. “À, Quintus sẽ tới đây. Và tất cả những gì chúng ta phải làm là tới trường đấu, đó là điểm gặp gỡ. Chúng ta không thể đi đến bất cứ đâu nếu không đi xuyên qua chỗ này. Đó là lý do tại sao chúng ta phải thỏa hiệp với chủ nhân của nó. Chúng ta phải sống sót cho tới khi...”
“Thưa ngài!” một giọng lạ phát ra từ phía hành lang. Một gã trong bộ giáp Hy Lạp chạy tới, cầm theo một ngọn đuốc. “Dracaenae tìm thấy một con lai!”
Luke quắc mắt: “Một mình? Lang thang trong mê cung sao?”
“Vâng thưa ngài! Ngài hãy tới nhanh đi. Họ đang ở phòng kế bên. Họ đang dồn hắn vào chân tường rồi.”
“Ai thế?”
“Tôi chưa từng gặp người này.”
Luke gật đầu. “Một đặc ân từ chúa tể Kronos. Có thể chúng ta sẽ dùng được tên con lai này. Đi thôi!”
Họ chạy về cuối theo hành lang, và lúc đó tôi tỉnh giấc, mắt nhìn đăm đăm vào bóng tối. Một con lai đang lang thang một mình trong mê cung. Phải mất một lúc lâu tôi mới ngủ trở lại được.
Buổi sáng hôm sau tôi phải đa bảo có đủ bánh bích quy dành cho chó đem cho con O’Leary. Tôi nhờ Beckendorf để mắt trông chừng nó. Chắc cậu ta cũng chẳng vui sướng gì với việc này. Sau đó tôi đi bộ về phía Đồi Con Lai và gặp Annabeth cùng Argus ở trên đường.
Annabeth và tôi không nói chuyện nhiều khi ngồi trên xe. Còn Argus thì chẳng bao giờ mở miệng, có lẽ vì anh ấy có mắt ở khắp người, thậm chí – theo như tôi được biết – cả ở trên lưỡi nữa, và anh ấy không muốn khoe nó ra.
Annabeth trông cau có khó chịu, như thể giấc ngủ tối qua của cô ấy còn tệ hơn cả tôi.
“Ác mộng à?” cuối cùng tôi cũng lên tiếng.
Cô ấy lắc đầu. “Một thông điệp Iris từ Eurytion.”
“Eurytion ư! Nico có chuyện gì à?”
“Thằng bé bỏ đi tối qua rồi, nó quay lại mê cung.”
“Cái gì? Eurytion không ngăn nó lại à?”
“Nico bỏ đi trước khi Eurytion tỉnh dậy. Con Orthus lần theo mùi của thằng bé đến lưới ngăn gia súc. Eurytion nói mấy đêm vừa rồi vẫn thấy Nico tự nói chuyện một mình. Đến giờ anh ta mới hiểu có lẽ Nico lại nói chuyện với hồn ma, Minos.”
“Thằng bé đang gặp nguy hiểm,” tôi nói.
“Đúng vậy. Minos là một trong những kẻ phán xét cái chết, hắn là kẻ xấu xa. Tớ không biết hắn muốn gì ở Nico, nhưng...”
“Ý tớ không phải vậy,” tôi nói. “Đêm qua tớ đã mơ thấy chuyện này...” Tôi kể cho cô ấy nghe về Luke, hắn đã nhắc tới Quintus như thế nào, và người của hắn tìm thấy một con lai lang thang trong mê cung một mình ra sao.
Annabeth há hốc miệng. “Thật là quá, quá tệ!”
“Vậy chúng ta làm gì bây giờ?”
Cô ấy nhướn mày. “Ít ra cậu cũng có một kế hoạch để chúng ta đi theo, đúng không?”
Hôm đó là thứ Bảy, và giao thông vào thành phố tắc nghẽn. Chúng tôi tới căn hộ của mẹ tôi vào khoảng buổi trưa. Khi vừa mở cửa, bà đã dành cho tôi một cái ôm mạnh mẽ chẳng kém khi một con chó ngao nhảy bổ lên người bạn là mấy.
“Mẹ đã nói với họ là con không sao,” tuy nói vậy nhưng nghe giọng bà giống như vừa trút được một gánh nặng bằng cả bvai – và tin tôi đi – tôi trực tiếp biết quá rõ sức nặng đó là thế nào.
Bà để chúng tôi ngồi ở bàn bếp và bắt chúng tôi ăn món bánh quy xanh phủ sôcôla đặc biệt của bà, trong khi chúng tôi kể cho bà nghe về nhiệm vụ lần này. Như thường lệ, tôi cố gắng làm giảm nhẹ những phần kinh khủng (thực ra là tất cả các phần), nhưng chẳng hiểu thế nào việc đó lại làm cho câu chuyện càng thêm nguy hiểm.
Khi tôi kể đến đoạn Geryon và cái chuồng ngựa, mẹ tôi giả vờ như chuẩn bị siết lấy cổ tôi: “Tôi bắt nó dọn phòng thì không được, thế mà nó lại dọn được cả tấn phân ngựa trong chuồng của một con quái vật vớ vẩn nào đó sao?”
Annabeth cười lớn. Suốt một thời gian dài đây là lần đầu tiên tôi thấy cô ấy cười, thật vui làm sao.
“Vậy là,” mẹ tôi nói sau khi tôi kể xong câu chuyện, “con đã tàn phá cả Đảo Alcatraz, làm nổ tung núi St. Helens và khiến cả nửa triệu người phải sơ tán, nhưng ít nhất thì con cũng an toàn.” Mẹ tôi là thế đấy, lúc nào cũng nhìn đời tích cực.
“Vâng,” tôi đồng ý. “Như vậy cũng đủ rồi.”
“Ước gì Paul ở đây,” bà gần như nói một mình. “Ông ấy muốn nói chuyện với con.”
“Ồ đúng rồi, trường học.”
Quá nhiều việc đã xảy ra khiến tôi suýt nữa thì quên khuấy mất buổi học định hướng ở trường Goode – rằng tôi đã rời hội trường trong biển lửa và bạn trai của mẹ tôi đã nhìn thấy tôi nhảy qua cửa sổ như một tên đào tẩu.
“Mẹ nói gì với ông ấy?” Tôi hỏi.
Mẹ tôi lắc đầu. “Mẹ nói gì được? Ông ấy biết có gì đó đặc biệt ở con, Percy. Ông ấy thông minh lắm. Ông ấy tin con không phải là người xấu. Ông ấy không biết có chuyện gì xảy ra, nhưng trường học đang gây áp lực với ông ấy. Ông ấy đã cố gắng để con được nhận vào đó học. Và ông ấy cần phải thuyết phục họ rằng vụ cháy không phải là lỗi của con. Nhưng vì con chạy mất nên mọi việc có vẻ tồi tệ.”
Annabeth nhìn tôi chăm chú. Trông cô ấy có vẻ rất thông cảm. Tôi biết cô ấy từng ở vào trường hợp tương tự. Cuộc sống của con lai ở thế giới của người trần thật không đơn giản.
“Con sẽ nói chuyện với ông ấy,” tôi hứa hẹn. “Sau khi chúng con xong nhiệm vụ. Con sẽ kể cho ông ấy sự thật nếu mẹ muốn.
Mẹ tôi đặt tay lên vai tôi. “Con sẽ làm vậy sao?”
“Ừm, vâng, có lẽ ông ấy sẽ nghĩ chúng ta bị điên.”
“Ông ấy đã nghĩ thế rồi mà.”
“Vậy thì còn gì để mất đâu.”
“Cảm ơn con, Percy. Mẹ sẽ nói với ông ấy là con sẽ trở về...” Bà cau mày. “Khi nào nhỉ? Bây giờ thì thế nào?”
Annabeth bẻ đôi chiếc bánh quy. “Percy có một kế hoạch thế này ạ.”
Tôi ngần ngại kể cho mẹ tôi nghe.
Bà chậm rãi gật đầu. “Nghe có vẻ nguy hiểm. Nhưng có thể có tác dụng đấy.”
“Mẹ cũng có các khả năng đó đúng không?” Tôi hỏi. “Mẹ có thể nhìn thấu Màn Sương Mù.”
Mẹ tôi thở dài. “Giờ thì không được nhiều nữa. Lúc mẹ còn trẻ thì dễ hơn. Nhưng đúng, mẹ lúc nào cũng nhìn được nhiều hơn mức bình thường. Đó là một trong những điều khiến cha con chú ý đến khi chúng ta mới gặp nhau. Hãy cẩn thận nhé. Hứa với mẹ là con sẽ an toàn nhé.”
“Chúng cháu sẽ cố gắng, cô Jackson ạ,” Annabeth nói. “Nhưng để bảo vệ con trai cô an toàn là việc khá khó khăn đấy.” Bà khoanh tay và nhìn ra ngoài cửa sổ. Tôi lau miệng và cố gắng không nói gì cả.
Mẹ tôi nhíu mày. “Hai đứa con có chuyện gì sao? Vừa cãi nhau à?”
Chúng tôi không nói gì cả.
“Mẹ hiểu rồi,” mẹ tôi gật gù, và tôi đang nghĩ có lẽ khả năng của bà ấy còn hơn cả mức nhìn thấu sự việc. Mẹ tôi nói như thể bà hiểu chuyện gì đang xảy ra với tôi và Annabeth, trong khi tôi chắc chắn là chả biết gì. “Thôi, nhớ này,” bà nói, “Grover và Tyson đang dựa vào hai con đấy.”
“Con biết,” Annabeth và tôi đồng thanh nói, làm tôi lại càng thêm lúng túng.
Mẹ tôi cười mỉm. “Percy, tốt nhất con nên dùng điện thoại ở hành lang. Chúc may mắn.”
Tôi ra khỏi bếp mà thở phào nhẹ nhõm, mặc dù tôi vẫn lo lắng về những việc tôi chuẩn bị làm. Tôi tới chỗ cái điện thoại và gọi. Số điện thoại đã trôi sạch khỏi tay tôi từ lâu, nhưng không sao. Mặc dù không cố ý nhưng tôi vẫn nhớ no
Chúng tôi sắp xếp gặp nhau ở Quảng trường Thời Đại. Chúng tôi tìm thấy Rachel Elizabeth Dare ở trước khách sạn Marriott Marquis, và cả người cô ấy đều phủ một lớp vàng.
Ý tôi là mặt, tóc, quần áo... của cô ấy – tất tần tật mọi thứ. Trông cô ấy như vừa bị Vua Midas chạm vào vậy. Cô ấy đang đứng như tượng với năm đứa nhóc khác được sơn màu kim loại: đồng đỏ, đồng thau và bạc. Họ đứng không nhúc nhích trong các tư thế khác nhau trong khi các du khách lượn lờ xung quanh hoặc dừng lại để ngắm nhìn. Một số người qua đường còn ném tiền lên tấm vải dầu trên vỉa hè.
Tấm biển dưới chân Rachel ghi: NGHỆ THỤT ĐƯỜNG PHỐ CHO TRẺ EM, khuyến khích quyên góp ủng hộ.
Annabeth và tôi đứng đó khoảng năm phút, nhìn chằm chằm vào Rachel, nhưng nếu cô ấy nhìn thấy chúng tôi chắc cô ấy không để chúng tôi làm vậy. Rachel không động đậy, mà thậm chí tôi còn chẳng thấy cô ấy chớp mắt. Một đứa bị chứng tăng động như tôi thì chẳng thể nào làm như vậy được. Đứng im cả tiếng đồng hồ như thế sẽ khiến tôi phát điên lên mất. Mà nhìn Rachel phủ lớp vàng lên người cũng thật là kỳ cục. Cô ấy giống như bức tượng một người nổi tiếng, một diễn viên hay gì đó. Chỉ có mắt cô ấy là vẫn màu xanh lá bình thường.
“Hay chúng ta đẩy cô ta một cái nhỉ,” Annabeth gợi ý.
Tôi thấy trò đó hơi xấu tính, nhưng Rachel chẳng thèm phản ứng. Vài phút sau, một đứa nhóc sơn màu bạc bước tới, sau khi đã kịp nghỉ ngơi tại bãi đỗ taxi trước khách sạn. Cậu nhóc đứng cạnh Rachel trong tư thế như đang diễn thuyết trước đám đông. Rachel thả lỏng và bước ra khỏi tấm vải dầu.
“Chào Percy.” Cô ấy cười toe toét. “Đến đúng lúc đấy. Đi uống café đi.”
Chúng tôi đi bộ tới một nơi gọi là Java Moose tại số 43 phố West. Rachel gọi một ly Espresso Extreme, thứ mà Grover vẫn thích. Annabeth và tôi gọi sinh tố và ngồi ở chiếc bàn ngay bên dưới con nai nhồi bông. Chẳng ai buồn nhìn Rachel đến lần thứ hai trong cái bộ trang phục vàng của cô ấy.
“Vậy,” Rachel nói. “Đây là Annabell, đúng không?”
“Annabeth,” Annabeth sửa lại. “Cô lúc nào cũng mặc đồ vàng lè thế này à?”
“Không,” Rachel nói. “Chúng tôi đang quyên góp tiền cho nhóm. Chúng tôi đang tình nguyện làm những dự án nghệ thuật cho bọn trẻ tiểu học, vì ở trường học người ta đang bỏ môn Nghệ thuật. Chúng tôi biểu diễn mỗi tháng một lần, cuối tuần nào được được thì kiếm khoảng năm trăm đôla. Nhưng tôi đoán các cậu không muốn nói về chủ đề đó. Cậu cũng là con lai à?”
“Suỵt!” Annabeth nhìn quanh cẩn trọng. “Cậu định thông báo cho cả thế giới biết hay sao?”
“Được rồi.” Rachel đứng dậy và thực sự gào lớn, “Này mọi người! Hai đứa này không phải là người! Chúng là các á thần Hy Lạp!”
Chẳng ai thèm nhìn chúng tôi lấy một cái. Rachel nhún vai và ngồi xuống. “Hình như bọn họ không quan tâm thì phải.”
“Chẳng có gì buồn cười cả,” Annabeth nói. “Đây không phải trò đùa đâu, cô gái thường ạ.”
“Nào nào, hai cô,” tôi nói. “Bình tĩnh đi nào.”
“Tôi bình tĩnh mà,” Rachel nhấn mạnh. “Lần nào tôi ở cạnh cậu cũng có con quái vật nào đó tấn công. Có gì phải lo lắng đâu?”
“Nghe này,” tôi nói. “Tớ xin lỗi về chuyện phòng nhạc. Hy vọng là họ không đuổi cậu ra khỏi trường hoặc gì đó tương tự.”
“Này. Họ hỏi tôi rất nhiều điều về cậu. Tôi đành giả ngu vậy.”
“Có khó khăn lắm không?” Annabeth hỏi.
“Được rồi, dừng lại!” Tôi chen vào. “Rachel, chúng tôi gặp rắc rối. Và chúng tôi cần cậu giúp.”
Rachel nheo nheo mắt nhìn Annabeth. “Cậu cần tôi giúp đỡ?”
Annabeth khuấy khuấy chiếc ống hút trong cốc. “À,” cô ấy rầu rĩ nói. “Có thể.”
Tôi kể với Rachel về Mê Cung, và chúng tôi cần phải tìm Daedalus như thế nào. Tôi kể cho cô ấy về những gì đã xảy ra trong một vài lần trước đây khi chúng tôi vào trong đó.
“Vậy các cậu muốn tôi dẫn đường,” cô ấy nói. “Đi qua một nơi tôi chưa bao giờ tới.”
“Cậu có thể nhìn thấu Màn Sương Mù,” tôi nói. “Giống như Ariadne. Tớ cá là cậu sẽ nhìn được đúng đường đi. Cái Mê Cung đó làm sao có thể qua mặt cậu dễ dàng thế được.”
“Vậy nếu cậu sai thì sao?”
“Thì chúng ta sẽ bị lạc. Nói cách khác, việc đó sẽ râ nguy hiểm. Vô cùng, vô cùng nguy hiểm.”
“Tôi có thể chết?”
“Đúng.”
“Tôi tưởng cậu nói lũ quái vật không quan tâm đến người thường. Thanh kiếm đó của cậu...”
“Đúng thế,” tôi nói. “Thanh kiếm đồng celestial không tổn thương con người. Hầu hết lũ quái vật sẽ bỏ qua cậu. Nhưng Luke... hắn ta không quan tâm. Hắn sẽ sử dụng quái vật, á thần, con người, bất cứ cái gì. Và hắn sẽ giết bất kỳ ai cản đường hắn.”
“Một chàng trai tốt bụng đấy,” Rachel nói.
“Anh ấy đang bị một Titan kiểm soát,” Annabeth bảo vệ Luke. “Anh ấy bị lừa dối thôi.”
Rachel hết nhìn tôi rồi lại nhìn Annabeth. “Được rồi, tôi sẽ tham gia.”
Tôi chớp chớp mắt. Tôi không nghĩ là thuyết phục cô ấy lại dễ dàng đến thế. “Cậu chắc không đấy?”
“Này, kỳ nghỉ hè của tôi sẽ rất nhàm chán. Đây lại là lời mời thú vị nhất đối với tôi. Vậy tôi còn phải mong đợi gì nữa nhỉ?”
“Chúng ta phải tìm được đường vào Mê Cung,” Annabeth nói. “Có một lối vào ở Trại Con Lai, nhưng cậu không thể tới đó. Chỗ ấy cấm người thường.”
Cô ấy nói người thường như thể đang nhắc đến một giống gì kinh khủng lắm vậy, nhưng Rachel chỉ gật đầu. “Được rồi. Vậy lối vào Mê Cung trông thế nào?”
“Nó có thể là bất cứ cái gì,” Annabeth nói. “Một đoạn tường. Một tảng đá. Một cánh cửa. Một cái nắp cống. Nhưng nó phải có dấu của Daedalus trên đó. Một chữ Delta Hy Lạp phát sáng màu xanh.”
“Như thế này à?” Rachel vẽ một dấu bằng nước lên trên mặt bàn.
“Chính nó,” Annabeth nói tiếp. “Cậu biết tiếng Hy Lạp?”
“Không,” Rachel trả lời. Rồi cô ấy rút từ trong túi ra một chiếc lược nhựa màu xanh và bắt đầu chải hết sơn vàng bám trên tóc của cô ấy. “Chờ tôi thay đồ. Tốt nhất các cậu hãy đi với tôi đến chỗ khách sạn Marriott.”
“Tại sao?” Annabeth hỏi.
“Vì có một lối vào giống như thế này ở tầng hầm khách sạn, nơi chúng tôi để phục traNó có dấu của Daedalus trên đó.”