Lang huynh đứng dậy, hướng về phía mặt trời, bộ lông bạc trên mình lấp
lánh nghìn vạn điểm sáng mờ mờ dưới nắng. Nó ngửa đầu, vươn cổ tru,
tiếng tru thật dài vang vọng giữa trời đất. Tôi cũng cất tiếng tru theo
Lang huynh, dang rộng hai tay, tựa như muốn ôm lấy vầng dương mới nhú,
ôm lấy một ngày mới.
Chim trong rừng vỗ cánh nháo nhác bay lên,
kêu thảng thốt lao vút vào bầu trời xanh lam. Trong màn sương mù mỏng
mảnh se lạnh, nắng sớm cùng lá rụng hân hoan nhảy múa trong rừng, áng
mây ngũ sắc cũng theo lũ chim vờn bay trên trời. Tôi cười khanh khách đá Lang huynh một cái: “Xem ai đến suối Nguyệt Nha trước,” chưa dứt tiếng, người đã phóng vọt đi.
Ba năm qua, Lang huynh đã cao ngang eo
tôi. Tôi gọi nó là Lang huynh không phải vì nó lớn hơn tôi, Lang huynh
chỉ là danh xưng tôi thuận miệng đặt cho nó. Thật ra lúc tôi trở về bầy
sói, nó còn chưa đến một tuổi, chỉ là chú sói con mới biết tự mình đi
săn mồi, nhưng giờ nó đã là Lang vương của chúng tôi. Mặc dù khi khuất
mắt bầy sói, tôi thường hay đá đạp Lang huynh, nhưng thật lòng tôi vẫn
rất tôn kính nó.
Như thể cảm nhận được tôi đang nghĩ gì, Lang
huynh bất mãn gừ lên mấy tiếng. Nó vẫn luôn cho rằng mình là anh tuấn
bậc nhất thiên hạ, dũng mãnh có một không hai, sói đực nhìn thấy liền
khuất phục, sói cái nhìn thấy liền xiêu lòng, chẳng ngờ lại chạm trán
một con sói không chịu lép vế nó như tôi đây, chỉ đành cảm thán trời đã
sinh ra nó, sao còn sinh Ngọc Cẩn.
Để dễ phân biệt, tôi cũng từng thử đặt tên cho các con sói lớn sói nhỏ sói đực sói cái khác trong đàn, lần lượt là Lang Nhất, Lang Nhị, Lang Tam… và cứ thế cho đến vô hạn.
Lúc tôi mới đến, chỉ cần đặt đến “Lang Cửu Thập Cửu” là xong, nhưng giờ
đây, theo quá trình vận dụng chiến thuật “xa thân gần đánh” của tôi và
Lang huynh, tôi đã hoàn toàn rối loạn, chỉ nhớ lần gần đây nhất đặt tên
là đã đến “Lang Nhất Vạn Cửu Thiên Cửu Bách Cửu Thập Cửu[1]”, mà đó đã
là chuyện của gần hai năm về trước rồi. Khi nhận ra hễ nhìn một con sói
nào đều phải nghĩ rất lâu mới nhớ ra tên gọi, tôi đành buộc lòng từ bỏ
thử nghiệm đặt tên của mình. Tôi dù gì vẫn là người, khứu giác không
nhạy bén bằng Lang huynh, ghi nhớ diện mạo loài sói thực cũng có đôi
chút khó khăn.
[1] Một vạn chín nghìn chín trăm chín mươi chín.
Năm xưa nhà Tần dựa vào thuật tung hoành “xa thân, gần đánh”, cuối cùng đã
“tập hợp chư hầu, thống nhất thiên hạ,” tôi đoán chừng bá nghiệp “thống
nhất tộc sói” của tôi và Lang huynh cũng chỉ là vấn đề sớm hay muộn.
Nếu cha biết tôi đem thuật quyền mưu ông đã dạy để ứng dụng với bầy sói
trước tiên, không hiểu ông sẽ cười hay mếu đây? Năm đó, nếu tôi có thể
hiểu chuyện sớm hơn một chút, hiểu hết những thứ này sớm hơn một chút,
có thể giúp cha một tay, mọi chuyện liệu có khác đi không?
Lát
sau, tôi và Lang huynh đã chạy đến bên suối Nguyệt Nha. Suối Nguyệt Nha
là một kỳ cảnh trong sa mạc: giữa đại mạc vô biên, một dòng suối trông
tựa mảnh trăng khuyết, bốn phía là núi cát nhấp nhô trải dài, chỉ có
dòng suối xanh biếc như ngọc, lặng lẽ nằm trong vòng tay của núi Minh
Sa, dù bão cát lớn đến đâu, nó vẫn quanh năm không khô cạn, đối với đám
dân du mục, đây chính là kỳ tích của thần.
Trên trời có một vầng trăng
Dưới đất có một con suối
Trăng trên trời chiếu rọi suối dưới đất
Suối dưới đất in bóng trăng trên trời
…
Tôi vừa ngâm nga bài hát ca dao nghe được của những người dân du mục, vừa
lấy mặt nước làm gương, bắt đầu chải tóc. Lang huynh lười biếng nằm bên
cạnh lạnh nhạt lườm tôi một cái, phì mũi một tiếng rõ to rồi khinh
thường nhắm mắt lại, cũng nhưng tôi không cho rằng nó anh võ bất phàm,
Lang huynh chắc chưa bao giờ nghĩ tôi có chút gì xinh đẹp, so với đám
sói cái có bộ lông óng ánh trơn mượt, có khi tôi xấu đến mức khó mà lọt
vào mắt sói.
Tôi hầm hừ trợn mắt nhìn Lang huynh, vừa tết tóc, vừa tiếp tục hát:
Lòng chàng như trăng trên trời
Lòng em tựa suối dưới đất
Trăng chiếu suối, suối chiếu trăng
Lòng chàng lòng em hai mảnh soi nhau
…
Soi mình bên bờ, mặt nước lăn tăn phản chiếu bóng hình xinh xắn. Thời gian
ba năm qua, tiểu cô nương của cha đã trở thành một thiếu nữ yểu điệu,
tuy không thể tự khen là thục nữ, nhưng tôi biết mình xinh đẹp. Tôi nhăn mặt với cái bóng dưới nước, hài lòng gật đầu, hét to một tiếng, ra hiệu với Lang huynh có thể quay về được rồi. Lang huynh vươn mình, đứng dậy
chậm rãi chạy phía trước.
Chúng tôi đứng ở một nơi cao trên núi
Minh Sa, nhìn về hướng một đoàn buôn nhỏ phía xa, trông bộ dạng bọn họ
chắc đang chuẩn bị hạ trại nghỉ ngơi. Nhớ đến số muối sắp dùng hết và bộ váy đã tả tơi, tôi cúi thấp người xuống, trưng ra bộ mặt tươi cười đầy
nịnh nọt nhìn Lang huynh, nhưng Lang huynh không hề tiếp nhận thái độ
lấy lòng của tôi, trái lại còn hoảng hốt như gặp phải quái vật, bước
giật lùi, mặt mày nhăn nhó, trừng mắt nhìn tôi với vẻ bực bội.
Tôi khẽ gầm gừ mấy tiếng, bảo nó quay về trước, tôi định đi trộm đồ của
đoàn buôn. Nó nhìn tôi một lúc với vẻ cam chịu, đoán rằng tôi nhất quyết không chịu nhượng bộ, cuối cùng nó đành tỏ ý sẽ đi cùng. Tôi nhào vào
ôm chầm lấy cổ nó bật cười, nó nhắm mắt lại, làm bộ như đang phải gắng
hết sức chịu đựng tôi, nhưng thân mình thì lại áp chặt vào người tôi.
Từ khi rời xa cha, chưa từng có ai dang rộng tay ôm tôi vào lòng. May mà
còn có Lang huynh, tuy nó không thể ôm tôi, nhưng tôi ôm nó thì cũng
vậy.
Hai chúng tôi lén lút đến gần lều trại của đoàn buôn. Đây là một đoàn buôn rất nhỏ, đoán chừng chỉ khoảng hai mươi người. Tôi thoáng ngạc nhiên, trước đây chưa từng nhìn thấy đoàn buôn nào nhỏ thế này,
bọn họ buôn bán gì vậy nhỉ? Trong lúc tôi mải mê nghĩ ngợi, Lang huynh
đã hơi sốt ruột, khẽ cắn vào mông tôi từ phía sau, tôi vừa thẹn vừa
giận, bèn quay đầu véo tai nó.
Nó thấy tôi thật sự tức giận, liền nghiêng đầu, chớp chớp hai mắt, tỏ vẻ khó hiểu. Tôi bất lực thở dài,
đường đường là Lang vương lại cùng tôi đi trộm gà trộm chó ở đây, tiểu
nữ như tôi không nên so đo với đại lang, bỏ qua cho nó lần này vậy. Tôi
chỉ hung hăng cảnh cáo nó không được phép chạm vào mông tôi, bằng không
sẽ không nướng thịt cho nó nữa, nói xong liền quay đầu lại tiếp tục quan sát đoàn buôn.
Một đại hán mặc đồ đen tay chân nhanh nhẹn nhấc
một chiếc xe lăn đặt xuống đất, một đại hán khác mặc đồ tím khom mình
vén rèm cửa xe ngựa, một vạt áo trắng đập vào mắt tôi.
Màu trắng
ấy không phải trắng sáng như tuyết, mà rất dịu dành, thân thiết, thoải
mái, tựa như vừa đập vỡ sắc trăng đêm thu mà nhuộm nên, trong màu trắng
có ửng chút ánh vàng. Gương mặt người thiếu niên dần dần hiện ra, mặt
mày sáng sủa như hồ nước tĩnh lặng trong veo, dáng người anh tuấn nho
nhã tựa cây ngọc nhành lan. Người ấy chỉ lặng lẽ ngồi, tôi đã cảm thấy
dường như vừa nhìn thấy trăng sáng trên núi Thiên Sơn, gió xuân thổi qua Mạc Bắc.
Hán tử áo tím đưa tay ra định đỡ thiếu niên ngồi trong
xe ngựa xuống, nhìn thiếu niên chỉ bình thản mỉm cười, ôn hòa đẩy tay
người kia ra, tự mình chống hai tay chầm chậm di chuyển từng chút một
trên xe ngựa. Tôi trừng to hai mắt kinh ngạc, phải chăng ông trời luôn
ghen tị với những thứ hoàn mỹ trên nhân gian này?
Lúc chuyển từ
mép khoang xe ngựa xuống xe lăn, xe lăn trượt một đoạn ngắn trên mặt
cát, khiến thiếu niên áo trắng suýt nữa ngã xuống cát, may mà kịp thời
túm vào thanh rui của xe ngựa nên mới trụ vững lại được. Đại hán áo tím
mấy lần định giơ tay ra giúp, nhưng bắt gặp ánh mắt ra hiệu của hán tử
áo đen, nên lại rụt tay lại.
Người bình thường xuống xe ngựa thì
chỉ cần nhảy một cái là xong, còn thiếu niên này mất thời gian đến nửa
tuần trà. Nhưng khóe miệng người ấy từ đầu đến cuối vẫn nở một nụ cười,
động tác vốn nhếch nhác chật vật, người ấy lại làm cho trở nên đẹp mắt
dễ nhìn, ngay cả trong lúc hoảng loạn, vẫn toát ra vẻ bình tĩnh ung
dung.
Thiếu niên ngửa đầu nhìn dãy Minh Sa trùng điệp xung quanh
một lúc, lại chầm chậm đảo mắt hướng sang suối Nguyệt Nha như một mảnh
trăng khuyết nằm yên trong lòng núi cát. Nước suối phản chiếu màu xanh
thẳm của da trời, hắt ánh xanh biếc trong trẻo. Trong mắt người ấy lộ ra vẻ cảm thán, trăm nghìn năm nay, sa mạc cát vàng cuồn cuộn vẫn không
thể nuốt chửng mảnh suối như vầng trăng khuyết này.
Trời xanh,
cát vàng, nước biếc, gió lặng, không một tiếng động, cảnh sắc quạnh quẽ
buồn tẻ tôi nhìn đã quen mắt, lại chỉ vì một vạt áo trắng của người ấy,
mà thêm vẻ ôn hòa, thì ra núi sông cũng biết cô quạnh.
Tôi mải mê nhìn chằm chằm vào người ấy, quên khuấy cả mục đích đến đây. Giật mình
sực nhớ ra lý do mình ở đây, tôi đột nhiên lại thoáng do dự, trộm hay
không trộm? Lập tức cảm thấy có lý do gì mà tôi không trộm? Sự hiện diện của thiếu niên này, ắt hẳn sẽ thu hút sự chú ý của tất cả mọi người, cơ hội tốt như thế sao có thể bỏ qua được?
Đại hán áo đen và đại
hán áo tím như hai toàn tháp đứng sau lưng người thiếu niên không nhúc
nhích. Mấy người đàn ông còn lại đều vội vã bận rộn, dựng lều trại, đốt
lửa nấu cơm. Khi chắc chắn sẽ không ai chú ý đến mình, tôi liền ra hiệu
cho Lang huynh ở đây đợi, còn mình chầm chậm bò về hướng bầy lạc đà của
bọn họ. Trước hết phải tìm hiểu xem rốt cuộc bọn họ bán cái gì, có thứ
nào tôi cần không, còn muối e rằng phải đợi đến khi bọn họ nấu cơm mới
biết được cất ở đâu, nếu không rất khó tìm.
Các đoàn buôn qua lại trên sa mạc Qua Bích đều dựa vào lạc đà chở đồ vượt đường sá xa xôi.
Lạc đà thường ôn hòa ngoan ngoãn, tôi sớm đã nắm rõ tính nết của chúng,
xưa nay chưa từng sẩy tay lần nào. Mà khi ở giữa đàn sói, tôi đã luyện
được cách di chuyển lặng lẽ, con người cũng khó mà phát hiện được, nhưng tôi lại sơ ý quên mất con ngựa kéo xe. Nó đã được tháo dây cương, đang ở cạnh đó thong dong ăn cỏ khô. Tôi vừa tiếp cận được lũ lạc đà thì con
ngựa đáng ghét trông như thể vẫn chưa hề chú ý đến tôi tự nhiên vươn cổ
hí lên một tiếng lanh lảnh. Không ngờ ngựa cũng biết dùng binh pháp, lại hiểu cả phép lừa địch vào sâu để trở tay bắt sống.
Đại hán áo
tím và đại hán áo đen nhanh chóng lấy thân mình che chắn cho thiếu niên
áo trắng, mấy người còn lại thì chạy đến vây quanh tôi. Tôi trừng mắt
nhìn con ngựa xấu xa kia, cảm nhận rõ ràng sự khoái trá trong mắt nó,
nhưng hiện giờ không rảnh tính nợ với nó, phải chạy cho nhanh thôi. Tôi
nhớn nhác lao ra ngoài, Lang huynh bỗng lẳng lặng nhảy bổ tới, giúp tôi
xua hai hán tử tránh ra, ngăn chặn truy binh.
Tôi và Lang huynh
đang định phóng đi thì một giọng nói ôn hòa, có phần thờ ơ vang lên từ
sau lưng: “Nếu cô nương dám chắc mình chạy nhanh hơn cây nỏ bắn liền bảy mũi tên trên tay ta, có thể thử xem.”
Tôi khựng lại, dừng chân.
Lang huynh quay ngoắt lại gầm gừ, hoàn toàn không hiểu tình thế khó khăn mà chúng tôi đang phải đương đầu. Tôi bất đắc dĩ chau mày, xua nó đi
trước, đoạn quay người che chắn cho nó.
Trên tay thiếu niên áo
trắng cầm một chiếc nỏ thép được chế tác tinh xảo. Người ấy thấy tôi
quay lại, bèn hạ chiếc nỏ đang nhằm vào tôi xuống, chăm chú quan sát
tôi. Hắn tử áo tím đứng bên cạnh chỉ vào dấu ấn hình đầu sói trên mông
mấy con lạc đà, cười giễu: “Ngươi mù mắt hay ăn gan hùm mà dám rình mò
bọn ta? Ngay cả bọn trộm cướp trên sa mạc thấy bọn ta cũng phải né càng
xa càng tốt đấy.”
Thấy tôi không chịu theo nó, Lang huynh bắt đầu sốt ruột, nhưng vẫn không chịu rời đi một mình mà tung chân nhảy tới
phía trước tôi, hung hãn trừng mắt nhìn đám người đối diện, sẵn sàng
tung đòn chí mạng bất cứ lúc nào.
Hán tử áo tím liếc nhìn Lang huynh, kinh ngạc kêu lên: “Đây là sói, không phải chó săn!”
Mọi người nghe vậy, liền đổi sắc mặt, căng thẳng nhìn quanh. Sói sa mạc
thường xuất hiện theo bầy, một con thì không đáng sợ, nhưng nếu vô số
con sói tập hợp lại, thậm chí có thể tiêu diệt một đội quân nhỏ. Nhưng
hôm nay họ lo hão rồi, vì tôi sơ suất, nên quanh đây chỉ có tôi và Lang
huynh, muốn gọi các con sói khác đến cũng phải mất một thời gian ngắn.
Thiếu niên áo trắng chĩa nỏ về phía Lang huynh, nhưng ánh mắt vẫn nhìn tôi
chằm chằm. Tôi vội lách người lên chắn trước mặt Lang huynh: “Xin đừng…
làm nó bị thương, là tôi… tôi muốn ăn trộm… đồ của các người, không phải nó.”
Từ khi trở về đàn sói, trừ việc thỉnh thoảng nghe lỏm người trong các đoàn buôn nói chuyện, đã hơn ba năm tôi chưa nói chuyện với
loài người. Tuy thường tự lẩm bẩm một mình với Lang huynh, nhưng không
biết vì căng thẳng hay là gì mà lúc này một câu tôi nói cũng ấp a ấp
úng.
Thiếu niên áo trắng ôn hòa hỏi: “Chỉ có một con sói này thôi chứ?”
Tôi thầm oán thán, nếu còn những con khác, ta có thể để các ngươi hỏi này
hỏi nọ sao? Trong đầu tôi nhanh chóng suy tính, nói thật? Nói dối? Sau
mấy phen cân nhắc, cảm thấy người thiếu niên này không dễ lừa, vả lại
trực giác của phụ nữ mách bảo tôi, thật ra người này sớm đã đoán được
chân tướng, hỏi han như vậy chỉ để trấn an mấy hán tử bên cạnh mà thôi.
“Chỉ có… một con này.”
Tôi vừa buông tiếng, vẻ mặt của đám người kia đều nhẹ nhõm hẳn, sau đấy lại ngạc nhiên nhìn Lang huynh và tôi, chắc không hiểu vì sao tôi có thể đi cùng với sói.
Thiếu niên áo trắng vừa thu chiếc nỏ lại, vừa nói: “Quản con sói chặt vào.”
Tôi gật gật đầu, quay lại dặn Lang huynh rằng, khi nào tôi bảo tấn công thì hãy tấn công. Tôi hỏi thiếu niên: “Các người muốn chặt bàn tay nào của
tôi?” Tôi từng nghe đám lái buôn nói chuyện, kẻ nào mưu đồ ăn trộm mà bị bắt, sẽ bị chặt tay để trừng phạt.
Hán tử áo tím hỏi: “Ngươi muốn trộm gì?”
Tôi cúi đầu nhìn bộ váy tả tơi trên người, nghĩ đến bộ y phục tinh tế của
thiếu niên áo trắng, đột nhiên cảm thấy rất xấu hổ, lúng búng nói: “Tôi
muốn… tôi muốn… trộm một bộ váy.”
Hán tử áo tím ngạc nhiên trợn trừng mắt, hỏi với vẻ khó tin: “Chỉ thế thôi?”
Tôi nói: “Cả muối nữa.”
Hán tử áo tím lạnh lùng nói: “Bọn ta có mấy trăm cách bắt ngươi nói thật, ngươi tốt nhất…”
Thiếu niên áo trắng ngắt lời hắn: “Đi lấy bộ váy Thiện Thiện Hải Tử tặng tới
đây, rồi giữ lại một lượng muối đủ cho chúng ta dùng hôm nay, còn lại
đưa cả cho cô nương này.”
Hán tử áo tím hơi biến sắc mặt, ấp úng: “Cửu gia…”
Thiếu niên liếc mắt nhìn, hắn lập tức cúi đầu ngậm miệng lại. Không lâu sau,
một hán tử bưng chiếc khay đựng tấm váy màu xanh nhạt đưa cho tôi, tôi
ngây người nhận lấy, lại cầm một hũ muối, ngơ ngẩn nhìn thiếu niên áo
trắng.
Thiếu niên áo trắng khẽ cười: “Bọn ta đều là nam nhân,
không có y phục phụ nữ, chỉ có bộ này, là lúc đi qua Lâu Lan, một người
bạn tặng ta, hi vọng cô nương thích.” Tôi sờ lớp vải trơn mềm như mỡ dê
trong tay, đoán đây là loại tơ lụa quý báu nhất, cảm thấy món quà này
quá đỗi đắt giá, đã định từ chối, nhưng cuối cùng vẫn không kìm được bị
mê hoặc, đành ngượng ngùng khẽ gật gật đầu.
Thiếu niên khẽ gật đầu: “Cô nương có thể đi rồi.” Tôi ngẩn người một lúc, hành lễ với người ấy, rồi gọi Lang huynh rời đi.
Có tiếng ngựa hí từ sau lưng truyền đến, tôi quay người bực bội trừng mắt
nhìn con ngựa kia, nhưng lại há miệng mắc quai, bây giờ còn chủ nhân nó ở đây, không thể so đo tính toán với nó được. Nhưng Lang huynh chẳng thèm để ý chuyện nhân tình thể diện gì, đột nhiên quay ngoắt lại, lông lá
khắp thân dựng đứng lên, ngẩng đầu tru một tiếng thật dài, tiếng tru
chưa dứt, mấy con lạc đà đã mềm nhũn chân ngã xuống cát, con ngựa kia
tuy không ngã xuống, song bốn chân cũng run bần bật.
Tôi không
nén được bật cười thành tiếng, không cho ngươi biết uy của sói, ngươi
còn tưởng rằng mình là đại vương trong sa mạc chắc? Lang vương thống
lĩnh mấy vạn con sói, làm sao ngươi chọc vào nổi? Chừng như kinh ngạc vì tiếng cười khanh khách không chút ngại ngùng của tôi, thiếu niên áo
trắng lộ vẻ sửng sốt, nhìn tôi chằm chằm, tôi bị người ấy nhìn đỏ cả
mặt, vội tắt hẳn tiếng cười. Thiếu niên cũng lập tức dịch chuyển tầm
mắt, nhìn Lang huynh với vẻ tán thưởng: “Con ngựa này tuy không phải hãn huyết bảo mã[2], nhưng cũng là giống tốt vạn con chọn một, nghe nói có
thể một mình đấu lại hổ báo, xem ra toàn bịa đặt cả.”
[2] Hãn huyết bảo mã có nguồn gốc từ Turkmenistan, dai sức và có mồ hôi đỏ như máu.
Tôi áy náy nói: “Chưa chắc đã là bịa đặt đâu, hổ báo bình thường không thể
so sánh với Lang huynh của tôi được.” Nói xong, tôi vội vã giục Lang
huynh đi, tôi thấy bộ dạng nó có vẻ rất hứng thú với con ngựa tốt chọn
trong vạn con kia, nếu không đi không biết sẽ còn gây ra tai họa gì nữa.
Đi xa rồi, quay đầu lại nhìn bọn họ, chỉ thấy tà áo trắng bên cạnh cát
vàng nước biếc kia dường như cũng trở thành một cảnh sắc khó quên trong
sa mạc. Tôi không biết liệu người ta có nhìn thấy mình không, nhưng vẫn
ra sức vẫy vẫy tay về phía người ấy, đoạn đi khuất vào núi cát.
Bên đống lửa chỉ có tôi và Lang huynh, những con sói khác đều sợ lửa nên đã tránh ra xa. Lang huynh lúc đầu cũng sợ lửa, về sau tôi đã dạy nó từ từ thích ứng với lửa, nhưng những con sói còn lại thì không có dũng khí
thế này. Tôi bắt bọn Lang Nhất, Lang Nhị nằm xuống bên đống lửa, chẳng
những chưa từng thành công, ngược lại hành vi đày đọa sói của tôi còn
được lưu truyền rộng rãi trong đàn, tôi đã trở thành một thứ bảo bối độc nhất vô nhị mà lũ sói mẹ dùng để dọa sói con không chịu đi ngủ buổi
tối, hễ nhắc đến việc giao chúng cho tôi, đám sói con dù bướng bỉnh,
nghịch ngợm đến đâu cũng lập tức sợ hãi mà ngoan ngoãn nằm xuống.
Tôi trải bộ váy ra, cẩn thận ngắm nghía. Không biết phải nhuộm bằng thứ cây gì mới có được một màu xanh lam mơ mộng thế này. Tay nghề thợ may cực
kỳ tinh tế, bên tay áo còn thêu những áng mây dày đặc. Đai lưng đính tua rua chân trâu, nếu cài vào, lúc đi lại, những tua ngọc ấy chắc chắn sẽ
tôn lên dáng eo yểu điệu. Phụ nữ Lâu Lan phải đeo mạng quanh năm, cho
nên bộ váy còn kèm theo một mảnh khăn che mặt bằng sa mỏng đồng màu, góc khăn có một chuỗi chân trâu to tròn. Lúc đeo khăn che mặt lên, chuỗi
trân châu vừa hay sẽ cố định trên tóc, tự nhiên lại thành chiếc bờm. Lúc ở nhà không cần đeo mạng, thì chiếc khăn được buông ra sau đầu, sẽ tôn
thêm mái tóc đen nhánh, kết hợp với chuỗi trân chân trên đỉnh đầu, lại
thành một món trang sức độc đáo.
Tôi nghiêng đầu nhìn Lang huynh, hỏi: “Bộ váy này có phải quý giá quá không? Ngươi nói xem vị Cửu gia
kia vì sao lại tặng cho người lạ một thứ quý giá thế này? Bao nhiêu năm
nay, ta vẫn không sửa được tật xấu vừa nhìn thấy thứ gì xinh đẹp là
không có cách nào từ chối…” Lang huynh sớm đã quen với thói lải nhải
luôn miệng này, tiếp tục nhắm mắt ngủ một cách thản nhiên, không để ý
đến sự tồn tại của tôi.
Tôi túm lấy tai nó, nhưng Lang huynh vẫn
không thèm cử động, tôi đành thôi huyên thuyên, dựa vào mình nó chầm
chậm chìm vào giấc mơ.
* * *
©STE.NT
Lại đến một ngày trăng rằm.
Tôi vẫn luôn thắc mắc trước tình cảm của sói đối với ánh trăng. Hễ tới ngày này là chúng lại đặc biệt kích động, có con thậm chí còn ngửa mặt nhìn
trăng tru lên suốt cả đêm. Vì thế, khắp sa mạc hiện giờ đều vang tiếng
sói tru quỷ khóc. Những kẻ lữ hành nhát gan chỉ sợ sẽ mất ngủ cả đêm
nay.
Màn đêm thăm thẳm, ánh trăng dào dạt như nước trải dài trên
sa mạc mênh mông nhấp nhô, ánh lên sắc trắng bạc êm đềm. Tôi mặc bộ váy
quý trong nhất của mình, cùng Lang huynh thẩn thơ rảo bước trong sa mạc.
Tà váy xanh lam dập dềnh phiêu đãng theo bước chân tôi. Muôn ngàn sợi tóc
xanh được buộc lại sau gáy bằng dây trâu châu, lất phất tung bay trong
gió cùng chiếc mạng che. Tôi tháo giày ra, để chân trần giẫm lên mặt cát mịn vẫn còn chút hơi ấm, cảm giác ấm áp từ lòng bàn chân lan đến tận
trong tim. Trải hết tầm mắt có thể thấy bầu trời vô tận, trong khoảnh
khắc ấy, tôi có cảm giác trời đất này dường như đều thuộc về tôi, tôi có thể tự do bay lượn trong đấy. Tôi không nhịn được ngẩng đầu hướng về
ánh trăng sáng cất tiếng tru, Lang huynh lập tức hòa theo, trong màn đêm mênh mông, vô số con sói cũng cất cao tiếng tru đáp lại.
Tôi
nghĩ, mình phần nào đã hiểu được sự khác thường của lũ sói trong đêm
nay, trăng sáng thuộc về chúng tôi, sa mạc thuộc về chúng tôi, nỗi cô
độc, vẻ kiêu ngạo, nét bi thương, sự cô quạnh đều nằm trong từng tiếng
từng tiếng tru dài hướng về ánh trăng kia.
Tôi và Lang huynh leo
lên một gò đất cao đã bị phong hóa xói mòn ra hàng trăm nghìn lỗ hổng.
Lang huynh đứng hiên ngang, đưa mắt nhìn xuống toàn bộ sa mạc. Là vương
giả của mảnh đất này, nó đang duyệt qua mọi thứ thuộc về mình. Tuy tôi
đang bồi hồi cảm khái, nhưng cũng không muốn làm phiền nó lúc này, nên
chỉ lặng lẽ đứng đằng sau, ngẩng đầu thưởng thức ánh trăng.
Nghe
Lang huynh thấp giọng gọi một tiếng, tôi vội đảo mắt nhìn ra phía xa,
nhưng thị lực của tôi không bằng nó, thính lực cũng không bằng, nhìn
không thấy, nghe không nổi những thứ bất thường nó đã phát hiện, ngoài
tiếng tru truyền tin của đàn sói, với tôi, đó vẫn là một màn đêm yên
tĩnh tuyệt đẹp.
Một lúc lâu sau, tôi dần nghe được những âm thanh ẩn giấu trong màn đêm.
Càng lúc càng gần, hình như có đến hàng nghìn con ngựa đang phi nước đại.
Lang huynh cười giễu bảo, không nhiều như tôi đoán đâu. Lại một lúc nữa, tôi dần nhìn rõ, quả như lời nó, trong màn đêm một đội thương nhân khoảng
mười mấy người đang phi nhanh phía trước, đằng sau là một toán chừng một hai trăm người đang đuổi theo, nhìn có vẻ không phải quân đội, chắc là
sa tặc.
Cát vàng bốc mù trời, vó ngựa lộp cộp, ánh trăng cũng
nhạt nhòa hẳn đi. Lang huynh hiển nhiên rất ghét đám người phía xa kia,
vì bọn họ đã phá hỏng màn đêm tĩnh lặng chỉ thuộc về loài sói hôm nay,
nhưng vì không muốn tranh đấu, nó chỉ lắc đầu một cái, nằm rạp xuống.
Bầy sói có quy tắc sinh tồn của bầy sói, một trong các quy tắc đó là nếu không thiếu thức ăn đến cùng cực, hoặc vì tự bảo vệ mình, chúng sẽ cố
gắng tránh tấn công con người, không phải chúng sợ, chỉ là chúng muốn
bớt phiền phức.
Tôi đi giày, cài khăn che mặt lên, ngồi xuống,
quan sát cuộc chém giết sớm đã định sẵn kết cục ở đằng xa. Tương truyền, sa tặc đã nhằm vào ai thì không chết không thôi, huống hồ lực lượng hai bên lại chênh lệch thế này. Trong đội thương nhân đằng trước đã có hai
người bị chém rơi khỏi ngựa, những thớt ngựa đằng xa lập tức đạp lên xác bọn họ, tiếp tục hí vang lao lên.
Đột nhiên một con ngựa bị đám
sa tặc ném đao ra chém đứt chân, máu tươi bắn tung tóe, nó lảo đảo, bổ
nhào về phía trước, ngã chúi xuống. Người ngồi trên lưng ngựa cũng văng
xuống đất, mắt thấy sắp bị vó ngựa phía sau giẫm chết, bỗng nhiên một
người ở đằng trước ghìm ngựa quay lại, kéo kẻ ngã ngựa dưới đất lên,
tiếp tục lao nhanh về phía trước, nhưng tốc độ đã chậm hẳn lại. Người
được kéo lên giãy giụa toan nhảy xuống, nhưng người cứu hắn cơ hồ đã hết kiên nhẫn, vung tay chặt vào sau gáy hắn một cái, hắn lập tức ngất xỉu, mềm oặt người rũ trên lưng ngựa.
Trước mắt tôi như phủ mờ một
màn máu mờ mịt, mũi tựa hồ còn ngửi thấy mùi tanh lờ lợ. Tiếng vó ngựa
dậy đất ba năm trước một lần nữa văng vẳng bên tai. Tôi thình lình đứng
bật dậy, thất thần nhìn xuống phía dưới.
…
Ư Thiền và tôi
cưỡi con ngựa tốt nhất của bộ tộc Hung Nô, tháo chạy hai ngày hai đêm,
nhưng vẫn chưa đến được Hán triều, chưa thoát khỏi truy binh. Hộ vệ của Ư Thiền lần lượt từng người một chết đi, cuối cùng chỉ còn lại chúng tôi. Tôi hoảng sợ thầm nghĩ, chúng tôi chắc cũng sắp rơi khỏi lưng ngựa,
không biết những vó ngựa kia giẫm lên người có đau không. Y Trĩ Tà huynh thật sự muốn giết cha và bọn muội sao? Nếu huynh giết cha, muội sẽ hận
huynh!
“Ngọc Cẩn, ta sắp đâm dao vào mông ngựa, nó sẽ chạy rất
nhanh. Khi nào chúng ta bỏ xa được truy binh, ta sẽ để ngươi xuống ngựa, ngươi tự mình chạy đi. Lúc còn bé không phải ngươi đã từng làm sói giữa hoang mạc này sao? Lần này ngươi lại làm sói nữa đi, nhất định phải
thoát khỏi tay đám thợ săn sau lưng kia nhé!”
“Ngươi thì sao? Cha nói chúng ta cùng nhau chạy đến Trung Nguyên cơ mà.”
“Ta có ngựa mà! Chắc chắn là chạy nhanh hơn ngươi, khi nào ngươi đến Trung
Nguyên, ta sẽ đến đón ngươi.” Nụ cười của Ư Thiền vẫn rạng rỡ, tôi nhìn
nụ cười của gã, bỗng cảm thấy sợ hãi, vội lắc đầu lia lịa.
Ư Thiền ép tôi xuống ngựa, tôi chạy đuổi theo gã trong sa mạc, khóc nức nở: “Đừng bỏ rơi ta, chúng ta cùng nhau chạy.”
Ư Thiền quay người cầu xin: “Ngọc Cẩn, nghe lời ta một lần này được
không? Chỉ một lần này thôi, ta nhất định sẽ đến đón ngươi, mau chạy
đi!”
Tôi ngơ ngẩn nhìn gã trong khoảnh khắc ấy, hít một hơi thật
sâu, ra sức gật gật đầu, rồi quay người chạy như điên, Ư Thiền ở sau
lưng thúc ngựa chạy ngược hướng với tôi. Lúc quay đầu lại, chỉ nhìn thấy dưới màn đếm mênh mang mù mịt, hai người cách nhau càng ngày càng xa,
gã quay người nhìn về phía tôi, cười vẫy vẫy tay, cuối cùng chúng tôi
đều biến mất giữa sa mạc.
Tôi chỉ nhớ ngựa chạy rất nhanh, nhưng
quên mất nó đã chạy hai ngày hai đêm, trên mông ngựa lại không ngừng
chảy máu, liệu còn cầm cự được bao lâu? Lại còn mùi máu tươi đó, khiến
đám truy binh không biết tôi đã bỏ chạy một mình ắt hẳn sẽ chỉ đuổi theo gã.
…
Bọn sa tặc hình như càng lúc càng hứng thú với trò
chơi đuổi bắt này, không thèm chém giết nữa, chỉ chậm rãi từ hai bên
nhao ra, bắt đầu bao vây đoàn buôn.
Mắt thấy vòng vây từ từ khép
lại, tôi bỗng nhiên đưa ra quyết định, lần này tôi phải xoay chuyển số
mệnh ông trời đã định. Liếc nhìn Lang huynh, tôi hướng về phía trước,
tru lên một tiếng. Lang huynh rùng mình, chầm chậm đứng lên, hơi ngửa
cổ, tiếng tru lớn dần, nó đang triệu hoán con dân của mình.
Trong nháy mắt, giữa chốn hoang dã mênh mông tiếng sói tru lũ lượt vọng lên,
vô số con sói xuất hiện trên các ụ cát cao thấp, những mảng tường vỡ.
Càng lúc càng nhiều, càng lúc càng đông, trong màn đêm, những cặp mắt
lấp lánh ánh sáng xanh tựa hồ thắp lên những ngọn đèn dẫn đường thông
thẳng đến cửa Địa Ngục.
Không biết đám sa tặc là người tộc nào,
chúng gào to những tiếng tôi nghe không hiểu. Bọn chúng thôi không truy
kích đoàn buôn nữa, bắt đầu nhanh chóng tụ tập lại, hơn một trăm người
quây thành một đội ngũ, tìm đường tháo chạy, nhưng bốn bề toàn là sói,
chẳng có chỗ nào ít hơn chỗ nào. Bầy sói trừng mắt nhìn bọn chúng từ xa, bọn chúng cũng không dám mạo phạm tấn công bầy sói. Sa tặc trong sa mạc còn được gọi là Lang tặc, hẳn rất hiểu một cuộc suổi bắt bất tận đáng
sợ nhường nào.
Đoàn buôn kia cũng nhanh chóng co cụm lại, tuy yếu ớt, nhưng bọn họ đều có ý chí cầu sinh cực kỳ kiên cường. Tôi bắt đầu
hoài nghi phán đoán của mình, một bên là sa tặc khiến khiến người ta
nghe tiếng là mất vía, xung quanh là hàng vạn con sói đang bao vây, một
đoàn buôn bình thường đối diện với tình hình đó mà vẫn có thể giữ đội
ngủ chỉnh tề như vậy ư?
Tiếng tru của bầy sói đã ngừng, đám sa
tặc cũng không gào thét ầm ĩ nữa, màn đêm yên tĩnh chợt toát lên vẻ gì
đó tức cười, mới đây mà đám sa tặc đã từ thợ săn biến thành con mồi, đời người quả là vô thường! Tôi đoán chừng bọn chúng muốn dùng lửa, đáng
tiếc xung quanh không có cây, cho dù chúng có mang theo đuốc thì mấy đốm sáng như đom đóm đó cũng không dọa được bầy sói.
Cuối cùng bọn
sa tặc cũng châm được đuốc, tôi vỗ vỗ Lang huynh: ‘Chắc chúng không còn
hứng thú truy sát người khác nữa rồi, để bầy sói tản ra tránh đường cho
bọn chúng đi.” Lang huynh đã thể hiện đủ uy phong, cảm giác khó chịu vì
lũ khách không mời nãy giờ cũng đã tiêu tan, nên không phản đối gì, liền cất tiếng tru, lệnh cho bầy sói tránh đường.
Từ lúc hỗn loạn ban đầu đến giờ, vẫn không ai chú ý đến những kẻ ẩn mình ở trên cao như
chúng tôi, lúc này tiếng tru của Lang huynh bỗng nhiên vang lên giữa
khung cảnh tĩnh mịch, mọi người lập tức lần theo âm thanh nhìn về phía
chúng tôi. Lang huynh nghênh ngang bước lên mấy bước, đứng trên vách đá
cao, ngạo nghễ nhìn xuống đám người phía dưới, những chiếc lông bạc nhọn hoắt như kim, dưới ánh trăng tỏa ra ánh sáng bàng bạc, khí thế phi
phàm.
Tôi bực mình đá cho nó một cước, lại bắt đầu khoe khoang
rồi. Trời ơi! Đêm nay không biết lại có bao nhiêu sói cái ôm trái tim
thiếu nữ hồn nhiên tan vỡ nơi đây.
Lúc này, bầy sói đã tránh ra
tạo thành một con đường. Lũ sa tặc ngơ ngẩn sững sờ, hết ngẩng đầu lên
nhìn về phía chúng tôi, rồi lại nhìn chằm chằm vào con đường không có
sói, không biết đang nghĩ về tôi và Lang huynh, hay đang suy đoán liệu
con đường kia có an toàn hay không.
Tôi nóng ruột đứng dậy, mặc
kệ bọn chúng có hiểu tiếng Hán không, quát to: “Đã cho các ngươi đường
sống rồi, các ngươi còn chưa đi?” Đám sa tặc yên lặng giây lát, rồi bỗng nhiên khua mã tấu reo hò, nhảy xuống ngựa, hướng về phía chúng tôi quỳ
vái. Tôi ngẩn người, nhưng rồi lập tức hiểu ra. Sa tặc tuy sợ sói, nhưng chúng đồng thời sùng bái sức mạnh cùng sự tàn nhẫn và kiên nhẫn của
loài sói, bọn chúng tự xưng là Lang tặc, sói chính là vật tổ của chúng,
đêm nay náo loạn một trận thế này, không khéo bọn chúng đã coi tôi là
Lang thần rồi cũng nên.
Lũ sa tặc dập đầu vái lạy xong, nhanh chóng nhảy lên ngựa, men theo con đường không có sói tháo chạy thật xa.
Đợi khi bụi mù cuồn cuộn tan đi, tôi bèn hú một tiếng dài bảo bầy sói bên
dưới cần làm gì thì đi làm nấy, vẫn chưa đến nửa đêm, đứa nào bi thương
tiếp tục bi thương, vui vẻ thì tiếp tục vui vẻ, muốn yêu đương gì thì
cũng tiếp tục đi, coi như ta chưa làm phiền gì đến các ngươi. Bầy sói
không khách sáo với tôi như với Lang huynh, nhất tề gừ gừ một tiếng, lại nhe răng trợn mắt với tôi, rồi mới lần lượt tản đi. Những âm thanh ấy
lọt vào tai con người, lại thành một phen quỷ khóc sói gào nữa.
Đoàn buôn phía dưới cũng đều ngửa mặt lên, thảng thốt nhìn tôi. Tôi liếc bọn họ, cũng chẳng có tâm trạng chuyện trò, bèn kêu Lang huynh bỏ đi. Chúng tôi vừa nhảy xuống khỏi gò đất, chưa đi được bao xa, đã nghe tiếng vó
ngựa gấp rút vang lên đằng sau: “Đa tạ ơn cứu mạng của cô nương.”
Tôi quay người khẽ gật đầu, nhưng chân vẫn rảo chạy nhanh, muốn bỏ bọn họ lại phía sau.
“Cô nương, làm ơn đợi đã! Trong lúc bị bọn sa tặc truy đuổi, chúng ta đã mất phương hướng, xin cô nương chỉ giúp một con đường.”
Bọn họ đã nói như thế, tôi đành bảo Lang huynh dừng lại. Ngựa của họ còn
cách Lang huynh một quãng xa đã giậm vó hí vang, sống chết không chịu
bước thêm nữa. Tôi bảo Lang huynh đứng nguyên tại chỗ, thu bớt bá khí
ngùn ngụt trên mình, bản thân tôi cũng thu lại hơi sói trên người mình,
tiến về phía bọn họ, bọn họ lập tức nhao nhao xuống ngựa. Có lẽ tôi đang mặc váy kiểu Lâu Lan, để biểu thị sự tôn kính với tôi, họ cũng hành lễ
kiểu Lâu Lan, lại dùng tiếng Lâu Lan chào tôi.
Tôi kéo khăn che mặt xuống: “Tuy ta mặc y phục của Lâu Lan, nhưng không phải người Lâu Lan, các ngươi nói gì ta không hiểu.”
Một người đàn ông hỏi: “Cô nương là người Hán?”
Tôi hơi phân vân, tôi có phải không? Mặc dù tôi chưa từng đến Hán triều,
nhưng cha tôi từng nói con gái của cha dĩ nhiên là người Hán, thế nên
tôi chắc là người Hán rồi, nghĩ đoạn, bèn gật gật đầu.
Một giọng
nói vang lên từ phía sau đám người: “Bọn ta là đoàn buôn từ thành Trường An qua đây mua hương liệu, không biết cô nương từ đâu đến?” Nhìn về
hướng có tiếng nói, tôi nhận ra hắn chính là kẻ cứu người ban nãy.
Không ngờ đó chỉ là một thiếu niên khoảng mười sáu, mười bảy tuổi, dáng người thẳng tắp như tùng xanh, khí thế mạnh mẽ tựa ánh nắng gay gắt, dưới cặp mày kiếm là một đôi mắt sáng rực như sao đêm, đang chằm chằm nhìn tôi
đầy vẻ dò xét, nụ cười trên mặt đầy vẻ bất cần. Tôi né tránh ánh mắt sắc bén như lưỡi đao của hắn, cúi đầu nhìn xuống đất.
Hắn cảm nhận
được tôi không hài lòng, nhưng vẫn chẳng hề để tâm, cứ nhìn tôi chằm
chằm. Một hán tử trung niên bên cạnh hắn vội tiến lên mấy bước, cười
trừ: “Đại ân khó nói lời cảm tạ, cô nương trang phục lộng lẫy, phong
thái siêu phàm thoát tục, vốn không dám dùng vật thế tục khinh nhờn,
nhưng vừa may chúng ta có một đôi khuyên tai trân châu, hết sức hài hòa
với bộ váy của cô nương, mong cô nương vui lòng nhận cho.” Vừa dứt lời,
hai tay đã bưng một chiếc hộp gấm nhỏ, đưa đến trước mặt tôi.
Tôi lắc lắc đầu: “Ta lấy cái này cũng vô dụng, các người nếu có váy áo nữ
tử thì cho ta một bộ.” Mấy gã đàn ông ngơ ngác nhìn nhau.
Tôi nói: “Không có thì thôi, các người muốn đi đâu?”
Người trung niên nói: “Bọn ta muốn đến Đôn Hoàng, từ đó quay lại Trường An.”
Tôi thoáng trầm ngâm: “Từ đây đến núi Minh Sa suối Nguyệt Nha mất bốn ngày đường, ta chỉ có thể dẫn các người đến đấy thôi.”
Đám người nghe thấy thế đều lộ vẻ lo lắng, chỉ có thiếu niên kia vẫn mỉm
cười như không hề để tâm. Người trung niên hỏi: “Có đường gần hơn không? Lạc đà của bọn ta đã bị giết hết lúc bọn sa tặc truy kích rồi, đa số
lương thực và nước cũng mất theo, nếu không đi nhanh hơn, ta sợ bọn ta
không đủ nước để cầm cự đến suối Nguyệt Nha đâu.”
Tôi đáp: “Ta
nói thế là tính theo tốc độ của mình, các ngươi có ngựa, chắc có thể đến sớm hơn một hai ngày.” Bọn họ nghe thấy thế, sắc mặt lập tức dịu đi
nhiều.
Bọn họ quyết định trước hết nghỉ ngơi ăn uống, khôi phục
thể lực vừa bị sa tặc truy đuổi suốt một ngày một đêm rồi sẽ lên đường.
Lúc họ hỏi ý kiến, tôi nói: “Ta suốt ngày lang thang trong sa mạc, cũng
chẳng có việc gì cả, tùy các người thu xếp.” Trong lòng tôi thầm kinh
ngạc, chỉ có mấy người thế này mà có thể chạy trốn dưới sự truy đuổi của sa tặc suốt một ngày một đêm, nếu không phải sa tặc chiếm ưu thế về địa bàn, hai bên cũng thật khó nói ai thắng ai thua.
Tôi bảo Lang
huynh về trước, nhưng đồng ý cho nó phái vài con sói kín đáo đi theo.
Lang huynh vẫn thắc mắc về mối quan hệ rắc rối giữa tôi với loài người,
nhưng chỉ liếm liếm tay tôi, rồi ung dung rời đi.
Đoàn buôn lấy
đồ ăn và nước ra ngồi xuống, tôi cách bọn họ một khoảng, bó gối ngồi
trên đụn cát. Người tuy nhiều, nhưng bầu không khí vẫn trầm mặc ngượng
ngập, tôi đoán bọn họ không phải đoàn buôn bình thường, nhưng chẳng liên quan gì tới mình, nên cũng lười chẳng muốn thăm dò xem bọn họ rốt cuộc
là hạng người gì. Mà bọn họ cũng hết sức kiêng dè tôi, không biết vì tôi đi chung với lũ sói, hay vì thân phận tôi đáng nghi, một nữ tử xuất
hiện ở Tây Vực, mặc bộ phục sức Lâu Lan quý giá, lại tự xưng là người
Hán, mà không nói ra mình đến từ đâu.
Người trung niên lúc trước
muốn tặng tôi khuyên tai trân châu cười cười, đi đến trước mặt, đưa tôi
một chiếc bánh. Ngửi thấy mùi thơm của thì là[3], tôi không kìm được
nuốt nước miếng, ngại ngần nhận lấy: “Cảm ơn đại thúc.”
[3] Một loại hương liệu của vùng Trung Á, Đông Ấn, không giống thì là như ở Việt Nam.
Người trung niên cười nói: “Chúng ta mới phải nói cảm ơn, gọi ta là Trần thúc là được rồi.” Rồi chỉ vào từng người một giới thiệu với tôi: “Đây là
Vương bá, đây là Thổ Trụ Tử, đây là…” Trần thúc lần lượt giới thiệu mọi
người với tôi, cuối cùng mới nhìn về phía người thiếu niên trầm lặng
đang ngồi phía trước đám người, thoáng vẻ do dự. Tôi băn khoăn nhìn gã
thiếu niên, đột nhiên khóe miệng hắn lộ ra nét cười, nói: “Gọi ta là
Tiểu Hoắc.”
Tôi thấy bọn họ đều nheo mắt nhìn tôi, thì nghiêng
đầu nghĩ ngợi rồi nói: “Ta tên là Ngọc… tên là Kim Ngọc, mọi người có
thể gọi ta là A Ngọc.” Ngoại trừ vị Cửu gia tình cờ gặp gỡ bên suối
Nguyệt Nha, ba năm rồi tôi chưa giao tiếp với loài người. Trong khoảnh
khắc buột miệng nói tên, tôi chợt quyết định đặt cho mình một cái tên
mới, từ giờ trở đi không còn Ngọc Cẩn, chỉ có Cẩn Ngọc, Kim Ngọc[4].
[4] Trong tiếng Trung, chữ Cẩn và Kim cùng đọc là jin.
Sau khi nghỉ ngơi, đoàn buôn chuẩn bị lên đường, bọn họ để hai người thân
hình tương đối nhỏ cùng cưỡi một con ngựa, chừa lại một con cho tôi. Tôi nói: “Ta không biết cưỡi ngựa.” Mười mấy người nghe vậy đều im lặng
nhìn tôi. Tiểu Hoắc nghĩ ngợi giây lát, đoạn hờ hững nói: “Cô nương và
ta cưỡi chung một con ngựa vậy!” Hắn vừa nói dứt lời, đám người bỗng
căng thẳng nhìn tôi chằm chằm.
Tôi hơi do dự, gật gật đầu. Vẻ
nặng nề trên mặt bọn họ bấy giờ mới tan đi, ai nấy vui vẻ nhìn nhau, rồi ngay sau đó lại nghĩ đến tôi, họ nhìn tôi với vẻ áy náy. Dân tình Tây
Vực tuy cởi mở, nhưng nam nữ xa lạ cưỡi chung một ngựa vẫn là hiếm thấy. Tiểu Hoắc vẫn thản nhiên, chỉ cười cười hành lễ với tôi: “Đa tạ A Ngọc
cô nương!”
Tiểu Hoắc lên ngựa, giơ tay kéo tôi. Tôi nắm tay hắn,
lòng thầm nghĩ, đây là bàn tay quanh năm cầm dây cương và binh khí, chai tay thô ráp, toát lên sự cứng cỏi dũng mãnh, hơn nữa xét từ vị trí vết
chai tay, hắn chắc hẳn đã luyện bắn cung rất nhiều năm rồi. Tôi ngồi sau hắn, hai người đều ưỡn thẳng lưng, con ngựa không hề nhúc nhích, những
người khác len lén liếc chúng tôi, lại không tiện giục giã, chỉ chầm
chậm ruổi ngựa đằng trước.
Tiểu Hoắc nói: “Chúng ta thế này không được, ta thúc ngựa một cái, cô nương sẽ ngã mất.” Giọng hắn tuy thoải
mái, nhưng tấm lưng cứng đơ đã bán đứng hắn, nó toát lên vẻ căng thẳng.
Tôi thầm tức cười, cảm giác không thoải mái trong lòng đã biến thành
giễu cợt, hóa ra ngươi đâu có trấn tĩnh như vẻ bề ngoài. Tôi khẽ dịch
người về phía trước, giơ tay túm lấy vạt áo hai bên eo hắn: “Được rồi.”
Hắn lập tức thúc ngựa xông lên, đám người vội vã ruổi theo. Chạy được một
lúc, hắn bỗng thấp giọng nói: “Cô nương phải nghĩ ra cách khác thôi, y
phục của ta cứ bị cô nương giằng thế này, e rằng ta phải cởi trần vào
thành Đôn Hoàng mất.”
Thật ra tôi sớm đã nhận thấy y phục của hắn bị tôi kéo gần tuột ra đến nơi, nhưng muốn xem xem hắn định thế nào,
nên chỉ âm thầm đề phòng ngộ nhỡ bị hất xuống nhựa. Tôi cố nhịn cười
nói: “Sao lại muốn ta nghĩ? Vì sao ngươi không nghĩ đi?”
Hắn cười khẽ: “Ta đương nhiên có cách, nhưng nói ra lại có vẻ như ta bắt nạt cô
nương, cho nên để xem cô nương có cách nào tốt hơn không.”
Tôi
nói: “Ta không có ý nào cả, ngươi nói thử xem cách của ngươi đi, nếu
được dĩ nhiên sẽ làm theo, nếu không được thì ngươi cứ ở trần thôi!”
Hắn không nói câu nào, đột nhiên vươn tay ra túm lấy cánh tay của tôi, kéo
giằng tới vòng quanh eo hắn. Tôi không quen tính ngựa, không dám giãy
giụa mạnh, bị hắn kéo cho cả người nghiêng về phía trước, áp chặt vào
lưng hắn. Lúc này, một cánh tay bị hắn kéo lấy, vẫn ôm eo hắn, nghiêng
ngả lắc lư theo đà phi của ngựa, cơ thể cọ xát vào nhau, tư thế hai
người trông vô cùng mờ ám.
Vành tai nóng bừng, tôi vừa ngượng,
vừa giận, vịn vào eo hắn rồi ngồi thẳng dậy: “Người Trường An các ngươi
đối xử với ân nhân cứu mạng thế này à?”
Hắn hờ hững nói: “Vẫn tốt hơn để cô nương ngã ngựa nhiều.”
Tôi muốn phản bác lại hắn, nhưng không tìm được lý do nào thích hợp, đành
lạnh lùng “hừ” một tiếng, ngồi im, ôm cục tức trong lòng. Tay không nhịn được hung hăng cấu mạnh vào eo hắn, nhưng hắn lại vẫn như không thấy
gì, chỉ chuyên tâm thúc ngựa. Tôi phồng má nghĩ thầm, kẻ này không ngờ
rất giỏi chịu đau. Hồi lâu sau, bản thân tôi dần dần cảm thấy hơi ngài
ngại, lại từ từ thả lỏng ra.
Một lần nữa cưỡi chung một ngựa với
người khác, tâm tư tôi thoáng ngơ ngẩn, cả đêm không ngủ, thời gian kéo
dài, không ngờ lại như thuở bé, vô thức ôm lấy eo Tiểu Hoắc, dựa vào
lưng hắn mơ mơ hồ hồ ngủ thiếp đi. Lúc giật mình tỉnh dậy, trong khoảnh
khắc từ gò má đến cổ tôi đều nóng bừng lên, tôi lập tức thẳng lưng lại,
toan buông hắn ra. Tiểu Hoắc tựa như đoán được tâm tư tôi, liền giữ tay
tôi bảo: “Cẩn thận kẻo ngã.” Tôi ra sức dằn nỗi ngượng ngùng xuống, giả
bộ thản nhiên, vịn hờ vào eo hắn, trong lòng nổi lên những cảm xúc khó
tả.
Phi ngựa gần một ngày trời, trong lúc dừng lại để nghỉ ngơi,
Tiểu Hoắc thấy tôi cúi đầu một mực không nói gì, bèn ngồi xuống bên cạnh tôi thấp giọng cười nói: “Ta thấy cô nương rất cảnh giác, sao lúc cưỡi
ngựa lại tin tưởng ta thế? Không sợ ta đem cô nương đi bán à?”
Mặt tôi đột nhiên lại nóng bừng lên, tôi trừng mắt với hắn một cái, đứng
dậy bỏ đi, tìm một chỗ khác ngồi. Nói ra cũng thấy lạ, mặc dù biết rõ
thân phận của hắn có vấn đề, nhưng tôi lại vẫn cảm thấy hắn sẽ không làm hại tôi, luôn cảm thấy với sự cao ngạo ấy, con người này chắc chắn sẽ
coi thường dùng những thủ đoạn đê tiện.
Hắn mang đồ ăn lại ngồi
xuống bên cạnh tôi, lặng lẽ đưa tôi vài miếng bánh được chia phần. Tôi
liếc hắn, lặng lẽ nhận lấy, không biết lúc nào, mấy phần cảnh giác trong mắt hắn đều đã biến mất, lúc này chỉ còn lại nét cười.
Có lẽ do
nhớ nhà, người trong đoàn buôn bắt đầu kể chuyện thành Trường An, miêu
tả tỉ mỉ sự phồn hoa thịnh vượng của thành Trường An, đường phố nơi đó
rộng rãi, sạch sẽ biết bao, phòng ốc nơi đó được xây dựng khéo léo tuyệt vời nhường nào, chợ phiên nơi đó náo nhiệt và thú vị ra sao, nơi đó còn có những tài tử tài hoa nhất, ca kỹ xinh đẹp mê hồn nhất, tướng quân
anh dũng nhất, những mỹ nữ cao quý nhất, loại rượu thơm nhất, đồ ăn ngon nhất, những thứ tốt đẹp nhất trên đời đều có thể tìm thấy ở đó, nơi đó
gần như có mọi thứ mà người ta muốn.
Tôi ngơ ngẩn lắng nghe, tâm
trạng phức tạp lạ thường, mọi thứ ở đó với tôi mà nói, vừa quen thuộc
vừa lạ lẫm. Nếu mọi chuyện diễn ra như cha mong đợi, có lẽ bây giờ tôi
đã cùng cha ở thành Trường An, chứ không phải đơn độc lang thang giữa sa mạc Qua Bích này.
Lúc đông người, Tiểu Hoắc rất ít nói, chỉ trầm mặc nghe những người khác thao thao bất tuyệt, cuối cùng hai người ở
trên lưng ngựa, hắn mới nói riêng với tôi: “Những chuyện bọn họ kể chỉ
là vẻ bề ngoài tươi sáng đẹp đẽ của Trường An thôi, không phải người nào cũng được hưởng thụ mọi thứ họ nói đến đâu.”
Tôi “ừ” một tiếng, ra ý đã hiểu.
Hai ngày sau, chúng tôi vẫy tay tạm biệt bên suối Nguyệt Nha. Vì đã có chủ ý mới, nên khi họ cảm ơn tôi lần nữa, tôi thẳng thắn nói nếu họ có nhiều
lộ phí, thì cứ cho tôi một ít tiền coi như quà cảm ơn tôi đã dẫn đường.
Tiểu Hoắc hơi ngẩn ra, rồi nhướn mày bật cười, đưa tôi một túi tiền, do dự
muốn nói gì đó, cuối cùng lại thôi, khuyên nhủ bằng giọng chân thành:
“Đối với cô nương thì Trường An không bằng Tây Vực đâu, cô nương nên cẩn thận mọi chuyện.” Tôi gật gật đầu, nhận món tiền mới kiếm được rời đi.
Đi một quãng xa, cuối cùng vẫn không kìm được, tôi ngoảnh đầu nhìn lại.
Vốn tưởng rằng chỉ có thể nhìn thấy bóng lưng đã xa dần, không ngờ hắn
vẫn chưa bỏ đi, cứ ngồi ngây trên lưng ngựa, tiễn tôi bằng ánh mắt từ
đằng xa. Bất chợt, ánh mắt hai người chạm nhau, gương mặt hắn thoáng
hiện lên nét mừng rỡ pha lẫn kinh ngạc, trái tim tôi run lên, vội vàng
quay đầu, cuống quýt chạy về phía trước.
* * *
Sau khi
chia tay đoàn buôn của Tiểu Hoắc, tôi cùng đàn sói đi từ Qua Bích đến
thảo nguyên, từ thảo nguyên đến sa mạc, đêm xuống lại nhấc túi tiền ra
ngây người ngắm.
Tôi lưu luyến Lang huynh và đàn sói, cũng không
nỡ rời xa sa mạc cát vàng, cỏ xanh và rừng hồ dương. Nhưng chẳng lẽ tôi
sẽ sống cùng bầy sói ở đây suốt đời sao? Đúng như lời cha nói, tôi chung quy vẫn là người, tôi đã không thể hoàn toàn làm sói nữa rồi.
Sau khi nghĩ kỹ, tôi quyết định ra đi. Cuộc sống sói của Lang huynh đang
bốn bề sóng dậy, phía trước còn có vô số thử thách, có lẽ có một vương
quốc lớn nhất trong lịch sự loài sói ở Tây Vực đang chờ đợi nó. Nhưng
đời người của tôi vừa mới bắt đầu, tính mạng này của tôi không dễ gì giữ được, cho dù phía trước là chua hay ngọt, đắng hay cay, tôi cũng sẽ đi
nếm thử xem sao. Đúng như những người dân du mục kia vẫn hát: “Bảo đao
không mài không sắc, cổ họng không hát không trong.” Đời người không có
trải nghiệm thì u ám biết bao? Giống như bầu trời đêm mất đi ánh sao.
Tôi muốn đến thành Trường An xem sao, xem Đại Hán trong lời kể của cha,
có lẽ tôi có thể làm một cô gái người Hán xinh đẹp như lòng cha mong
muốn.