Tào Hán Thần gật đầu rồi quay đầu nói với Bùi Quang Quang phía
sau: “ Ngươi dẫn hai ngàn người chờ ở chỗ này, trước tiên ta mang một
ngàn người đi tới. Sau khi phát sinh chiến đấu ngươi liền chạy tới tiếp
ứng.”
Hắn lại vung tay lên “ Các huynh đệ, lại kiên trì một phen. Trước rạng đông chúng ta nhất định phải chiếm đoạt được thành.”
Một ngàn quân Đường nhao nhao đứng lên lại theo người dẫn đường một lần nữa đi về phía bắc. Lần này lộ trình lại tương đối dễ dàng. Mặc dù cũng là
khó đi, nhưng đã không có những vách đá chết người uy hiếp nên tốc độ
hành quân của mọi người cũng dần dần nhanh hơn. Một lúc lâu sau, một
ngàn quân Đường đã đi tới trên vách đá.
Đây là một vách núi thật
lớn, bị tuyết trắng ngần bao phủ thành đường cong. Quân Đường bắt đầu từ vách núi phía bắc mà đến. Mà dưới vách núi là một con đường đi qua hẻm
núi rộng chừng hơn mười trượng. Nó chạy dọc theo hẻm núi cao cao một mực kéo dài đến hơn mười dặm. Vách núi mặc dù tương đối dốc đứng, nhưng con đường lại hết sức bằng phẳng, có thể để cho ngựa cùng lạc đà đi qua. Ở
điểm cao nhất của hẻm núi là một tòa thành hùng vĩ được xây bằng những
tảng đá lớn. Người đi đường muốn xuyên hẻm núi phải đi xuyên qua bên
trong tòa thành. Lúc xây tòa thành này chủ ý là vì thu thuế. Nhưng lúc
này, nó lại thành nơi quân Đường dùng để ngăn chặn quân Đại Thực rút về
nhà ở phía tây.
Tảng sáng trước hẻm núi hoàn toàn thanh tĩnh vắng lặng. Vầng trăng đã khuất núi, sương mù bao phủ thung lũng. Ánh bình
minh thứ nhất còn chưa xuất hiện từ sau triền núi đen ngòm. Từ trên đỉnh núi nhìn xuống, bên trên tòa thành hoàn toàn tối như mực. Vách núi
thẳng đứng cao ít nhất cũng đến ba mươi trượng.
Lúc này quân
Đường đã thả xuống hơn mười sợi dây thừng, Tào Hán Thần lưng đeo hoành
đao cùng cung tên chuẩn bị dẫn đầu đi xuống. Người dẫn đường buộc một
sợi dây khác bên sườn hắn đồng thời dặn dò: “ Trên vách đá có rất nhiều
cây Khô Đằng lớn, hoàn toàn có thể để che khuất người.”
Tào Hán
Thần gật đầu, hắn nhún người, vèo! Một tiếng vang nhỏ, hắn đã lướt đi
xuống hơn ba trượng. Hơn mười người quân Đường song song xuống. Khi hàng quân Đường thứ nhất hạ được khoảng mười trượng thì hàng quân Đường thứ
hai cũng trượt theo xuống. Ngay sau đó là hàng thứ ba, hàng thứ tư.
Việc đi xuống hết sức thuận lợi, cứ như là ông trời đền bù cho bọn hắn những gian nan trên đường hành quân. Tào Hán Thần dẫn đầu đụng phải tường
thành, giữa tường thành cùng vách núi còn có khe hở rộng ước một thước.
Hắn tập trung nghe ngóng chỉ chốc lát. Thấy không có bất cứ động tĩnh gì thì hắn nhẹ nhàng nhảy liền không một tiếng động đặt chân lên lỗ châu
mai lập tức lại nhảy vào bên trong thành
Hắn rút đao ra núp ở một góc nhỏ quan sát mọi nơi. Vẫn không hề có tuần tiễu gì, xem ra là bởi
vì phía trước có Khát Bàn Đà Thành nên mới làm cho quân coi giữ trong
thành lơ là, địch nhân như thế nào có thể từ phía sau mà đến?
Hắn vung tay lên, quân Đường nhanh chóng từ trên vách đá dựng đứng nhảy vào trong thành, lập tức chia nhau gác ở các lối đi tới. Đột nhiên, rắc!
Một tiếng, một người quân Đường bị trượt chân khiến một mảnh đá lung lay bị rơi vào trong khoảng trống. Hòn đá liên tục va chạm, cuối cùng phát
ra tiếng rơi xuống đất nặng nề. Trong màn đêm yên tĩnh thực chói tai
khác thường.
Thần kinh tất cả mọi người lập tức căng thẳng mà
ngừng hô hấp, lắng nghe động tĩnh bốn phía. Rốt cục, từ hành lang dưới
thành truyền đến tiếng bước chân cùng một hồi mắng khẽ.
Tào Hán
Thần nắm chặt chuôi đao, dán chặt vào sau vách tường chỗ khúc ngoặt của
hành lang. Tiếng bước chân càng ngày càng to, còn nghe được tiếng hít
thở nặng nề. Một bóng đen rốt cục xuất hiện ở trước mặt hắn.
Tào
Hán Thần giống như con báo săn mồi chồm tới mãnh liệt, dùng tay trái từ
phía sau bịt miệng của hắn, tay phải một đao liền cắt đứt cổ họng của
hắn với động tác nhanh nhẹn gọn gàng. Bóng đen lập tức mềm nhũn rồi ngã
xuống, không hề phát ra một tiếng nào.
Hắn lại nghe xong hướng
cầu thang chỉ chốc lát, không có động tĩnh. Hắn vung tay lên, quân Đường lại một lần nữa như những con khỉ từ trên vách núi trượt xuống. Chỉ một khắc liền xuống hơn ba trăm người.
Lúc này, ở phía chân trời
phương đông mặt trời hơi lấp ló. Trời đã tảng sáng, đúng là lúc ra tay.
Tào Hán Thần vẫy tay một cái “ Đi theo ta!”
Mấy trăm quân Đường từ hai cái thềm đá đồng loạt lọt vào bên trong thành.
Chỉ trong chốc lát, bên trong thành đột nhiên bộc phát ra một trận những
tiếng kêu, tiếng cầu khẩn, tiếng khóc, tiếng rên thảm thiết nổi lên bốn
phía. Hơn hai trăm binh lính quân Đại Thực đang ngủ bị quân Đường đánh
bất ngờ. Đây không hề nghi ngờ là một trận giết chóc thiên về một bên.
Không được một khắc thì bên trong thành lại trở nên yên tĩnh. Hơn hai
trăm người bị giết sạch, không một người sống, không có tiếng chuông
cảnh báo vang lên, Ở Khát Bàn Đà Thành cách đó hơn mười dặm cũng không
biết, pháo đài Thông Lĩnh đã thay đổi chủ nhân.
Bên ngoài vương
cung Sơ Lặc, Mặc Á Lợi đã chờ gần một canh giờ. Đám gác ngoài cửa giống
như là tượng đá. Bất kể thỉnh cầu bọn họ như thế nào thì bọn họ cũng
không hề thể hiện chút xíu gì, vĩnh viễn là khuôn mặt lạnh lung dù chỉ
thong báo thêm một lần nữa. Trời vừa mới sáng lên, trong không khí vẫn
còn cực kỳ giá lạnh, nhưng trên mặt Mặc Á Lợi cũng là đầy mồ hôi. Vẻ lo
lắng trong mắt lộ ra hết. Hắn vừa mới nhận được tin báo khẩn cấp của đội tuần tiễu di động giám thị đại doanh quân Đường. Nửa đêm tối hôm qua,
một đội kỵ binh quân Đường lặng lẽ rời khỏi đại doanh đi về hướng đông.
Với kinh nghiệm phong phú thì Mặc Á Lợi lập tức liền ý thức được, quân
Đường không phải đi về hướng đông, mà là nhằm hướng nam để chặn lại viện quân của bọn họ.
Trong cuộc chiến ngày hôm kia, quân Đường ngoài dự tính không thừa cơ truy kích, ngoài ra quân Đường cũng không sử dụng vũ khí bí mật của bọn họ: Đại Đường Lôi. Điều này làm cho trong lòng
hắn tràn ngập nghi hoặc. Nếu như quân Đường chỉ là muốn tiêu diệt mình,
vậy lúc ấy bọn họ đã toàn quân xuất kích, không cần phải làm kiểu thử
thăm dò như vậy. Trừ phi chỉ có một loại giải thích, năm vạn người bên
mình vẫn còn chưa thỏa mãn được bọn họ. Bọn họ còn muốn lại nuốt tươi
thêm càng nhiều quân Đại Thực hơn càng tốt. Nghĩ đến điều này thì hắn
đột nhiên nghĩ tới viện quân đang bắc thượng mà lập tức tuôn ra mồ hôi
lạnh khắp người. Còn quân Đường ban đêm chia quân ra lại càng xác minh
suy đoán của hắn. Hắn lập tức phái người đi nhắc nhở viện quân, nhưng
hắn cũng biết Thống soái viện quân vị tất đã nghe lời mình, vẫn còn phải có mệnh lệnh của A Cổ Cái mới được.
“ Các ngươi lại đi bẩm báo
cho điện hạ, ta có đại sự!” Mặc Á Lợi lại túm cổ thị vệ, cơ hồ muốn gầm
lên, nhưng thị vệ vẫn không hề nhúc nhích, không để ý tới sự nôn nóng
của hắn.
Đúng lúc này, cửa lớn của cung điện mở ra “ két kẹt” một tiếng. Một người thị vệ đi tới nói: “ Điện hạ mời tướng quân đi vào.”
Mặc Á Lợi hung hăng trợn mắt nhìn liếc nhìn thị vệ đứng gác rồi bước đi vào cung điện.
A Cổ Cái vừa mới đứng lên, tối hôm qua hắn đã viết “ Đông Phương kiến
thức lục” cho đến nửa đêm. Không thắng nổi mệt mỏi nên giờ phút này vị
thân vương cao quý đang ngồi ở trước một cái bàn làm từ gỗ trầm hương
điêu khắc để hưởng thụ bữa sáng ngon lành.
Hắn mặc một cái trường bào màu trắng cực kỳ mềm nhẹ, dùng vải bông Ai Cập dệt thành , tay cầm
dao nĩa bằng bạc lóng lánh với động tác tao nhã. Ánh sáng mặt trời chiếu trên người của hắn cho thấy rõ vẻ chăm chú mà bình thản như vậy. Ngay
cả tiếng bước chân của Mặc Á Lợi vang lên ở bên cạnh mà hình như hắn
cũng không phát giác ra.
Hắn đút một miếng thịt nướng tẩm mật ong bỏ vào trong miệng, lại nhấc chén rượu lên tợp một ngụm rượu bồ đào đỏ
sẫm, lúc này mới dùng khăn lụa lau miệng mà hỏi: “ Chuyện gì?”
Mặc Á Lợi tiến lên một bước, quì xuống làm một đại lễ “ Bẩm báo điện hạ,
đội tuần tiễu di động của chúng ta thăm dò được quân Đường tối hôm qua
chia quân xuất kích.”
“ Chia quân xuất kích?” A Cổ Cái nhẹ nhàng ném khăn lụa lên trên bàn rồi hỏi: “ Ý của ngươi là chúng ta có thể
nhân cơ hội tấn công đại doanh quân Đường sao?”
“ Không! Không!” Mặc Á Lợi sợ đến liên tục khoát tay “ Ý tứ của thuộc hạ là quân Đường
rất có khả năng đi phục kích viện quân của chúng ta. Thuộc hạ muốn xin
điện hạ ra lệnh, mệnh cho Lạp Xá Nhĩ chia quân ra mà đi. “
“ Tại sao phải chia quân ra mà đi. Chú ý đề phòng là được, chia quân ra mà đi thì chẳng phải là để cho quân Đường nuốt tươi?”
Mặc Á Lợi thở dài một hơi rồi nói: “ Thực sự không phải là thuộc hạ tự ti,
thật sự là ba vạn viện quân thì chưa kể số người ít, sức chiến đấu cũng
kém xa Bản Tông quân. Quân Đường chỉ cần cử ra hai vạn kỵ binh tinh
nhuệ, không cần phục kích cứ chánh diện chặn lại cũng có thể đánh tan
bọn họ. Cho nên chia quân ra mà đi cũng là phải làm hơi bất đắc dĩ. Mong điện hạ hiểu rõ nỗi khổ của thuộc hạ” .
A Cổ Cái mặc dù tính
tình ngạo mạn, nhưng hắn cũng không phải kẻ ngu. Những viện quân này
quan hệ đến việc hắn có thể đánh bại quân Đường hay không. Quay về Đại
Thực với thắng lợi đối với hắn cũng cực kỳ trọng yếu. Hắn biết lời Mặc Á Lợi vừa nói xong là có lý. Hắn hơi suy nghĩ liền nói: “ Tốt lắm, cứ
theo lời ngươi nói mà làm!” Hắn viết nhanh một phong mệnh lệnh giao cho Thị vệ trưởng. Lúc này, Mặc Á Lợi lại khôn khéo lão luyện cười nói: “ Đương nhiên, chúng ta cũng
không có thể trơ mắt nhìn một bộ phận quân đội bị quân Đường nuốt tươi
một cách vô ích.”
“ Ý của ngươi là?” A Cổ Cái kinh ngạc đặt con dao bạc xuống, hắn không hiểu rõ ràng ý tứ của Mặc Á Lợi.
“ Ý của thuộc hạ là nói cứ để cho quân Đường ăn hết một miếng thịt mang theo móc câu.”
Lộ trình từ Thông Lĩnh Thủ Tróc đến Sơ Lặc dài gần năm trăm dặm. Bình
thường hành quân cũng cần khoảng bốn đến năm ngày. Hoàng hôn một ngày
kia, ba vạn viện quân Đại Thực trải qua hai ngày hành quân đã đến một
trấn nhỏ cách Sơ Lặc ba trăm dặm .
Lần này toàn bộ ba vạn viện
quân Đại Thực đến từ các nước Chiêu Vũ quốc, trong đó Khang quốc xuất
binh một vạn, Thạch quốc xuất binh một vạn, một vạn người khác là từ mấy tiểu quốc khác xuất ra. Nhưng Đại tướng cầm binh là người Đại Thực tên
là Lạp Xá Nhĩ. Hắn nguyên là một vị tướng của quân cận vệ Đại Thực, năm
ngoái đã được thăng chức Tổng đốc Tát Mạt Kiện. Tát Mạt Kiện là đô thành Khang quốc, nước lớn nhất trong chín nước Chiêu Vũ quốc. Lạp Xá Nhĩ
trên thực tế chính là quan chỉ huy tối cao do Ha-Li-Pha Đại Thực phái
tới khống chế chín nước Chiêu Vũ quốc .
Đương nhiên, dù cũng được gọi là Tổng đốc, Tổng đốc Tát Mạt Kiện chỉ có thể là tiểu Tổng đốc,
không thể đánh đồng cùng Tổng đốc Da Lộ Tát Lãnh (Giê-su-gia-lem) hoặc
Tổng đốc Thổ Hỏa La. Cũng như đời sau, Tổng đốc Hương Cảng Anh quốc
không thể so cùng Tổng đốc Ấn Độ. Sau khi tiếp nhận mệnh lệnh của A Cổ
Cái thân Vương điện hạ, Lạp Xá Nhĩ lúc này điều ba vạn tinh binh, tự
mình lãnh binh vội vàng đến Sơ Lặc cứu viện.
Lạp Xá Nhĩ cũng xuất thân quý tộc Đại Thực, ước chừng bốn mươi tuổi, da trắng nõn, vóc người thon dài. Khác với các tướng lãnh Nam chinh bắc chiến như A La Tư, Mặc Á Lợi, hắn trường kỳ đóng ở Ba Cách Đạt ( Bát đa). Ngồi mát ăn bát vàng
đã hình thành hứng thú thanh tao cùng khí chất quý tộc của hắn. Sau khi
được thăng chức Tổng đốc Tát Mạt Kiện, hắn càng có cuộc sống còn hơn đế
vương. Nhưng hắn cũng hiểu rất rõ, phú quý của hắn là đến từ ân sủng của Ha-Li-Pha. Ha-Li-Pha có thể làm cho đấy hắn lên trời cao, cũng có thể
khiến hắn rớt xuống vực sâu. Bởi vậy thân vương A Cổ Cái sang Đông là
đối tượng hắn cực kỳ lấy lòng. Lúc này A Cổ Cái tại phương đông gặp phải phiền toái, nếu như hắn hơi có lười biếng thì cũng là kết thúc phú quý
của hắn.
Sơ Lặc là vùng đất nửa khô hạn nửa sa mạc, nguồn nước
quyết định đến việc người ta tụ tập. Quân Đại Thực lúc này đi ngang qua
trấn nhỏ, kỳ thật chính là một cái tiểu ốc đảo có trên dưới một trăm hộ
gia đình. Một bên là hồ nước không lớn, có một con sông nhỏ trong suốt
đi ngang qua đó, một rừng Hồ Dương cùng Liễu đỏ vây quanh bốn phía. Lúc
này đã là đầu mùa đông, nước sông khô cạn, cây cối điêu linh, rất nhiều
người chăn nuôi đều vội vàng xua đàn dê đến Biến Châu Thành để tránh
binh tai. Trong trấn nhỏ chỉ còn lại có năm sáu chục người, phần lớn là
người già không muốn rời quê quán. Lạp Xá Nhĩ thấy Thái Dương đã ngả về
tây, hắn biết phía trước sẽ không có nguồn nước nữa liền hạ lệnh đại
quân trú doanh bên hồ. Bên hồ nước nhỏ lập tức náo nhiệt hẳn lên, quân
lính có người làm lều hạ trại, có kẻ bận rộn đục băng chuẩn bị lấy nước
nấu cơm. Nhưng bọn hắn không biết ở cách đó hơn hai dặm trong một rừng
Hồ Dương có vài tên thám báo quân Đường đang cẩn thận quan sát nhất cử
nhất động của bọn họ.
Thám báo quân Đường thấy có đội tuần tiễu
di động của người Đại Thực đến gần thì bọn họ lập tức từ bên kia rừng Hồ Dương bỏ đi và biến mất ở phía sau một cái sườn núi. Nhưng ngay sau khi thám báo quân Đường rời đi không được bao lâu. Một đội kỵ binh Đại Thực từ phương xa lướt nhanh mà đến, chạy vào trong đại doanh. Bọn họ mang
đến mệnh lệnh mới nhất của A Cổ Cái .
Lạp Xá Nhĩ nắm chặt mệnh
lệnh của A Cổ Cái mà mặt mày nhăn nhó. Thân vương lại hạ lệnh cho hắn
chia quân ra hai lộ để bắc thượng. Hắn đương nhiên biết rõ ràng ý tứ của A Cổ Cái. Trên đường có thể sẽ có quân Đường phục kích, nhưng chia quân ra bắc thượng thì liền có ý nghĩa một đội quân trong đó có thể sẽ bị
tiêu diệt. Như vậy là không tin chính mình sao? Cứ như vậy tức là khẳng
định chính mình đánh không lại quân Đường? Trong lòng Lạp Xá Nhĩ hết sức buồn bực, thậm chí có hơi căm tức. Nếu như A Cổ Cái hạ lệnh hắn trên
đường chú ý phòng bị quân Đường đánh lén thì hắn còn có thể hiểu được,
nhưng bảo hắn chia quân ra hai đường thì hiển nhiên là không có tin
tưởng đối với hắn.
Người tới báo tin là Thị vệ trưởng của A Cổ
Cái, hắn thấy Lạp Xá Nhĩ có hơi do dự, liền không chút khách khí mà bảo: “ Mong tướng quân nhanh chóng hạ quyết định, chúng ta còn phải quay về
bẩm báo điện hạ.”
“ Ta đã biết!”
Tức giận thì tức giận,
nhưng Lạp Xá Nhĩ cũng không thể biểu hiện sự bất mãn ở trước mặt người
báo tin mà thân vương phái tới. Hắn do dự một lúc liền nói: “ Xin bẩm
lại điện hạ, Lạp Xá Nhĩ kiên quyết phục tòng mệnh lệnh của điện hạ.”
Hắn lúc này hạ lệnh. Ba vạn đại quân chia làm hai đội, một đội do phó tướng chỉ huy tiếp tục đóng quân bên hồ, một đội khác hai vạn người do hắn
chỉ huy lập tức nhổ trại đi theo người báo tin trong đêm xuất phát về
hướng Sơ Lặc.
Giờ phút này hai vạn kỵ binh quân Đường đang trong
một khe núi cách hai mươi dặm. Ánh trăng trong sáng, gió đêm rét lạnh.
Đám quân Đường cùng ngựa của mình chen chúc chung một chỗ để sưởi ấm,
cho chúng ăn cỏ khô và uống nước. Vương Tư Vũ ngồi ở trên một tảng đá
lớn, trong miệng tước một cọng cỏ cúi đầu trầm tư điều gì đó.
Phó tướng Lương Đình Ngọc của hắn thì đứng ở cửa khe núi, mòn mỏi chờ đợi
tin tức của thám báo. Nhà của Lương Đình Ngọc là lái buôn lớn ở thành
Trường An. Năm nay hắn hai mươi bảy tuổi cũng là một lão binh luôn đi
theo Trương Hoán, tích công làm đến Trung Lang Tướng chỉ huy hơn năm
nghìn Thương binh.
Đột nhiên, dưới ánh trăng sáng ngời hắn nhìn
thấy mấy tên kỵ binh đang hướng về phía này cấp tốc chạy tới “ Đến rồi!” Tinh thần hắn phấn chấn hẳn lên mà bước nhanh ra nghênh đón, người mới
đến đúng là thám báo quân Đường.
Lương Đình Ngọc khó dằn nổi mà khẩn cấp hỏi han: “ Có khả năng dò xét ra hướng đi của viện quân Đại Thực?”
Giáo úy thám báo nhảy xuống ngựa, khom người thi lễ rồi nói: “ Bẩm báo Lương Tướng quân, đầu tiên người Đại Thực trú binh tại trấn Đồ Thập vốn rất
bình thường. Nhưng thuộc hạ lại đi dò xét thì mới phát hiện ra bọn họ có dị biến.”
“ Phát hiện dị biến gì?” Vương Tư Vũ cũng từ phía sau bước lên mà hỏi.
“ Thuộc hạ phát hiện quân Đại Thực sau khi lập doanh không lâu, lập tức
chia quân ra hai lộ. Một cánh ở lại tại chỗ ước có vạn người, một đạo
khác hai vạn người đi về hướng bắc.”
“ Cái gì!” Vương Tư Vũ lấy
làm kinh hãi, hắn lập tức ý thức được bây giờ e là kẻ địch đã cảnh giác. Có điều cũng không phải là đã phát hiện ra mình, nếu không cũng sẽ
không lưu lại một vạn người. Điều này nhất định là do người từ Sơ Lặc
mới đến.
Nhưng thế này thì làm sao bây giờ? Vương Tư Vũ xác thật
hơi gặp khó khăn. Kẻ địch chia quân ra hai đường, bất kể chính mình bố
trí như thế nào thì vẫn sẽ để bọn họ chạy thoát một cánh quân. Hắn đang
cau mày trầm tư thì Lương Đình Ngọc bên cạnh lại bảo: “ Tướng quân, nếu
quân địch chia quân ra hai đường thì đồng thời cũng là cho chúng ta thêm cơ hội tiêu diệt. Một chi quân đi, một đạo quân bất động, chúng ta tự
nhiên là trước hết đối phó với một chi quân đi, rồi quay đầu nuốt tươi
một đạo phía sau.”
Lời Lương Đình Ngọc nói xác thật có đạo lý,
Vương Tư Vũ lập tức hạ quyết đoán. Hắn lớn tiếng ra lệnh “ Toàn quân lên ngựa, theo ta truy kích địch.”
Hai vạn kỵ binh nhao nhao lên ngựa, vó ngựa ù ù làm rung động hẻm núi. Đại quân như nước lũ vỡ đê phi nhanh về hướng bắc.
Trăng tròn trên sa mạc, ánh trăng giống như dải lụa. Hai vạn kỵ binh ngựa
không ngừng vó câu trong đêm tối phi nhanh vội vàng. Gió gào thét bên
tai vù vù, bóng đêm tối như mực lướt bên người mà qua. Khi những tia
nắng ban mai vừa lộ ra, bọn họ thấy những tia nắng đầu tiên nhàn nhạt
thì đại quân đến dưới chân núi Mộ Sĩ Tháp Cách Sơn, phía trước là cánh
đồng mênh mông bát ngát. Đỉnh núi Mộ Sĩ Tháp Cách Sơn tuyết phủ trong
ánh hào quang lóe ra những chùm sáng tuyệt đẹp.
Vương Tư Vũ khoát tay chặn lại, đại quân ngừng bước. Hắn đã thấy được ở cách xa vài dặm
mơ hồ có một chi quân đội đứng sừng sững trên cánh đồng bát ngát.
Quân Đường cũng không lập tức xông lên kịch chiến, bọn họ cũng đứng yên ở
trên cánh đồng bát ngát. Tranh thủ thời gian để khôi phục thể lực chiến
mã. Đằng xa, chi quân đội kia đột nhiên chuyển động nhưng cũng không đi
nhanh. Quân Đường cũng ghìm chậm tốc độ nối đuôi nhau mà đi. Hai quân cứ như vậy lúc đi lúc dừng luôn cách xa nhau độ năm sáu dặm. Mãi cho đến
lúc giữa trưa thì đi tới một mảnh ốc đảo.
Giờ phút này, thể lực
chiến mã quân Đường đã hoàn toàn khôi phục. Một người thám báo phi nhanh đến bẩm báo: “ Quân địch ước chừng hai vạn người tương đương quân ta,
nhìn theo ngựa thì hẳn không phải là quân Đại Thực chánh tông.”
“ Tốt!” Vương Tư Vũ chậm rãi rút trường kiếm ra, đã đến giờ giết địch.