Người Cát La Lộc tự xưa chính là một chi phái của người Đột Quyết. Bọn
họ trăm năm qua vẫn sinh sống trên một diện tích rộng lớn ở phía Tây của Bắc Đình Kim Sơn. Lối sống đặc trưng của người Cát La Lộc là lối sống
du mục. Về thành phần dân tộc thì người Cát La Lộc có ba bộ lạc chủ yếu
là: Mưu Lạt, Bà Bặc, Đạp Thực Lực. Ba bộ lạc này cũng chính là ba họ của Cát La Lộc. Thủ lĩnh của các đại bộ lạc này được gọi là Diệp Hộ. Ba đại bộ lạc này do vô số các bộ lạc nhỏ tạo thành, tính ra thì nhân số lên
tới mấy ngàn người.
Bắt đầu vào năm Đại Đường Khánh Trị thứ mười, dân tộc Thổ Phiên phát động chiến tranh với Hồi Hột để tranh đoạt Thổ
Hỏa La, điều này làm cho thế cục ở Tây Vực càng trở nên xấu hơn. Đại
Thực hào hứng, thích thú thu hồi lại Toái Diệp, đồng thời sai khiến
người Cát La Lộc quay trở về phía Tây núi Kim Sơn lần nữa, tại đây chúng vẫn nhìn hau háu thèm thuồng Bắc Đình. Cũng ở nhân cơ hội Thổ Phiên và
Hồi Hột chiến tranh nhằm tranh giành An Tây, bọn chúng đã chớp thời cơ
đánh úp lấy Bắc Đình và đã đắc thủ. Vì vậy mà lần đó quân Hồi Hột thất
bại phải trở về Mạc Bắc.
Bốn năm trước đây người Cát La Lộc đã
chạm trán với Đường quân đang làm nhiệm vụ Tây chính, và dĩ nhiên hai
bên đã động thủ, kết quả là người Cát La Lộc thảm bại bởi “ Hám thiên
lôi” của Đại Đường , lần đó bốn vạn kỵ binh tinh nhuệ của Cát La Lộc đều bị tiêu diệt hoàn toàn. Đây là thất bại và là sự đả kích mà trước đây
bọn họ chưa từng gặp phải. Sau lần đó bọn người Cát La Lộc đối với chiến lược khuếch trương, mở rộng thế lực về phía Tây của Đại Đường hoàn toàn buông xuôi, không ngăn cản gì nữa. Bọn chúng lại một lần nữa chuyển rời địa bàn từ phía Tây dãy Kim Sơn trở về lưu vực của Di Bá Hải. Và cũng
tại thời điểm này, trong nội bộ Cát La Lộc phát sinh nội chiến, đó là ba họ lớn trong đại bộ tộc xảy ra mâu thuẫn, tranh giành lẫn nhau. Người
Cát La Lộc từ đó dần suy yếu, chấp nhận ẩn mình trong thung lũng sâu.
Nhưng trải qua bốn năm dưỡng sức, lại được bọn người Đại Thực hậu thuẫn
rất lớn đến nay nanh vuốt, và chiến ý của bọn chúng lại trỗi dậy mạnh
mẽ, chúng hoàn toàn trở thành công cụ , là chó săn cho Đại Thực. Lần này chúng lại vâng lệnh Đại Thực dời tới phía Bắc của Đại Thanh Trì nhằm
tạo ra sự uy hiếp lớn cho Toái Diệp.
Bọn người Cát La Lộc này mặc dù đã nhiều lần di chuyển địa bàn sinh sống từ chỗ này qua chỗ khác,
nhưng trước sau thì bọn chúng vẫn không có một đô thành cho riêng mình.
Vì vậy trước mắt bọn chúng đem nha trướng hạ trại để thành lập một thị
trấn nhỏ ở Hải Đồ Thập. Hiện tại đại tù trưởng của người Cát La Lộc là A Sắt Lan, tuổi chừng năm mươi, hắn nguyên là Diệp Hộ của Mưu Lạt tộc. Ba năm trước đấy hắn đã được Calipha của Đại Thực sách phong làm Vương của người Cát La Lộc, đồng thời còn gia phong làm Sở Hà Tổng Đốc. Sở Hà
cũng chính là tên gọi khác của sông Toái Diệp. Mặc dù trên danh nghĩa
hắn là Tổng Đốc nhưng trên thực tế hắn không hề chiếm được một tấc đất
nào ở lưu vực sông Toái Diệp này.
Buổi sáng ngày hôm nay, tại Hải Đồ Thập này được vinh hạnh đón tiếp một vị khách vô cùng quan trọng: Đó là Hồi Hột quốc sư Tô Nhĩ Mạn. Tại Hồi Hột, Ma Ni Giáo được coi là quốc giáo và Tô Nhĩ Mạn là giáo chủ đứng đầu giáo phái này vì thế ông ta rất được tôn sùng và kính trọng. Hơn nữa bản thân ông ta có nguồn gốc xuất
thân chính là người Ba Tư, vì vậy nên ông ta có quan hệ rất mật thiết
với Đại Thực, đồng thời nhóm người Túc Đặc cũng rất coi trọng và kính nể ông ta. Như vậy có thể nói tại Hồi Hột ông ta nắm cả hai đại thế lực là Ma Ni Giáo và Túc Đặc. Điều này lí giải tại sao ông ta có vị trí hết
sức quan trọng trong hệ thống chính trị Hồi Hột. Lần này ông ta đích
thân đi sứ Hồi Hột là vì bản thân Hồi Hột vừa rồi do khí hậu lạnh giá,
khắc nghiệt, trong nước xảy ra nạn đói, phe Túc Đặc lại tỏ ra bất mãn
với khuynh hướng “ thân Đường” của Hồi Hột , nên Trung Trinh Khả Hãn
liền đặc biết phái ông ta đi sứ sang phía Cát La Lộc để mượn lương thực, sau đó ông ta sẽ tiếp tục đi Ba Cách Đạt để nhờ Đại Thực trợ giúp, làm
như vậy sẽ tạo ra thế cân bằng giữa mấy thế lực đang mâu thuẫn lẫn nhau
trong nội bộ Hồi Hột.
“ Lão bằng hữu của ta, đã hai năm rồi chúng ta không gặp nhau rồi đấy” Ngay từ còn ở khá xa, Tô Nhĩ Mạn đã dang
rộng vòng tay, làm cho chiếc đại bào màu đen cũng tung bay, rộng mở. Màu đen ấy gần như đối lập với cái màu trắng bệch trên khuôn mặt của ông ta dưới ánh dương quang, nhìn ông ta mà liên tưởng tới con dơi thì cũng
không có gì là quá đáng. Bộ dạng đó của ông ta cũng đủ khiến cho binh sĩ Cát La Lộc đứng xung quanh thấy u ám, ghê ghê. Tô Nhĩ mạn cũng với Cát
La Lộc Vương A Sắt Lan là chỗ quen biết, thâm giao đã lâu nay. Con trai
lớn của A Sắt Lan tên A Đạt Lỗ chính là đại đồ đệ của Tô Nhĩ Mạn. Ba năm trước đây hắn đi ăn trộm “ Hám thiên lôi” của Đại Đường, nhưng bị phát
hiện và chết dưới đao của Đường quân. Sự việc này khiến Tô Nhĩ Mạn cảm
thấy vô cùng có lỗi, ông ta liền tới Cát La Lộc, quỳ trước A Sắt Lan xin thỉnh tội. A Sắt Lan cũng bỏ qua không truy cứu gì ông ta nữa. Đồng
thời bản thân A Sắt Lan còn cho đứa con trai thứ ba mà ông ta rất mực
yêu quý là A Đặc Lôi bái lạy coi Tô Nhĩ Mạn như cha mình vậy. Dù sao đi
nữa thì người Cát La Lộc vẫn đang trú dưới mái hiên của người Hồi Hột,
và bọn người Đại Thực hiểu rõ rằng lợi dụng người Cát La Lộc có thể đề
phòng minh thương của Hồi Hột nhưng còn ám tiễn của bọn họ thì cũng chưa chắc đâu. Cứ như vậy Tô Nhĩ Mạn nhanh chóng trở thành người hướng đạo
tương lai của Cát La Lộc.
A Sắt Lan cũng mở rộng vòng tay ra
nghênh đón Tô Nhĩ Mạn, hai người cười ha hả, rồi đứng một chỗ ôm nhau
thật chặt. Hai người cùng vỗ vỗ, xoa xoa sống lưng của nhau thể hiện sự
hữu hảo thân thiết. Sau khi nghi thức xã giao kết thúc, hai người cùng
kéo nhau, thân thiết bước vào chiếc lều lớn.
“ Quốc sư, tên nhi tử của ta ở Hàn Nhĩ Đóa Bát Lý thế nào rồi? Nó có làm quốc sư hài lòng được hay không”
“ A Đạt Lôi là một con hùng ưng dũng cảm, ta tin rằng, dưới sự chỉ bảo và giáo dục của ta nó nhất định có thể bay cao bay xa”
“ Vậy thì quốc sư phải cực khổ rồi”
Hai người cười cười nói nói vui vẻ rồi đi về chiếc lều lớn của đại tù
trưởng A Sắt Lan. Bên trong chiếc lều lớn này được bố trí vô cùng xa
hoa, hoàng kim, ngọc bích rực rỡ không gian. Trên nền được trải bằng thứ thảm thượng hạng của Ba Tư, rất dâỳ. Còn trên vách trướng treo đầy
những viên đá quý của Đại Thực Lưu Tô. Mặt bàn thì được trải bằng thứ
gấm được mệnh danh là hảo hạng nhất của Đại Đường – gấm Tứ Xuyên, không
chỉ có thể trên các mặt bàn này còn được bày la liệt các loại kim khí
tinh xảo của Bái Chiêm Đình. Ngoài ra bên trong này, giữa đống châu
quang, bảo khí có chừng mười mấy cô gái trông rất lẳng lơ gợi cảm đang
nửa ngồi nửa quỳ. Cô nào cô nấy trong ánh mắt, nụ cười cũng đều toát ra
một vẻ quyến rũ đến ma mị.
Hai người tiến lại và ngồi xuống nơi
bàn trướng, và ngay lập tức một thị nữ bưng lên cho bọn họ hai tách trà
Mã Nãi còn thơm phưng phức. Mấy cô gái Cát La Lộc trẻ đẹp đang ngồi ở
phía sau cũng tiến lại, rồi nhẹ nhàng vuốt ve, xoa bóp bả vai cho A Sắt
Lan và Tô Nhĩ Mạn. Nhưng Tô Nhĩ Mạn liền khoát tay áo, ý bảo rằng ông ta không cần, không có nhu cầu như thế, và dường như A Sắt Lan cũng nhận
ra được nét mặt trầm trọng của Tô Nhĩ Mạn, nên ông ta liền thấp giọng ra lệnh: “ Các ngươi hãy đi hết ra ngoài cho ta” . Hơn mười mấy cô gái trẻ đẹp quyến rũ đều bị tiếng quát của A Sắt Lan làm cho sợ hãi, bọn họ rối rít đứng lên chạy ra khỏi căn lều đó.
A Sắt Lan thấy những thị nữ đều đã đi hết ra ngoài, ông ta liền hạ thấp giọng hỏi: “ Quốc sư, đã xảy ra chuyện gì sao”
“ Ông có biết lý do vì sao tôi tới đây không” Tô Nhĩ Mạn lấy từ trong
người ra một phong thư, rồi ném nó lên trên chiếc bàn nhỏ: “ Đây là thư
do Trung Trinh Khả Hãn tự tay viết cho ông đấy. Ông hãy tự xem qua một
chút đi”
A Sắt Lan liền lấy tín thư đem ra đọc, ông ta chỉ vội
vã xem qua một lần nhưng sắc mặt đã đại biến, hai tay run run, giọng nói ấp úng như không nên lời: “ Người Cát La Lộc chúng tôi lương thực cũng
còn đang thiếu trầm trọng, không nói là năm mươi vạn con dê mà ngay cả
là năm ngàn con dê chúng tôi cũng lấy đâu ra chứ”
Tô Nhĩ Mạn
chứng kiến thái độ khẩn trương, sửng sốt của A Sắt Lan liền hừ lạnh một
tiếng rồi nói: “ Đại tù trưởng sợ cái gì chứ, Khả Hãn chúng tôi có nói
sẽ lấy không dê của các người đâu, chẳng qua là mượn tạm thời thôi mà,
sau này sẽ trả lại cho các người.”
Mượn ư? Bọn người Hồi Hột các ngươi nói là mượn nhưng có khác gì là chiếm đoạt cơ chứ, từ trước cho
tới nay, các người đã mượn của người Cát La Lộc không ít, vậy mà đã trả
lại được bao nhiêu? A Sắt Lan cười khổ một tiếng nói: “ Cũng không phải
là chúng tôi có ý không cho mượn, mà chẳng qua là phía chúng tôi cũng
phải chịu nhiều hậu quả của bão tuyết. Quốc sư cũng biết từ tháng chín
này đã là hạ tuyết. Thật sự trong tay chúng tôi lúc này không đào đâu ra dê cho các ngài mượn được”
Tô Nhĩ Mạn nghe vậy liền liếc mặt một vòng, nhìn lại sự xa hoa trong căn lều lớn này, rồi ông ta cười nhạt nói: “ Vậy ông muốn ta về phải giải
thích làm sao với Khả Hãn đây, chẳng lẽ ta nói đại tù trưởng nghèo khó
nên không có cho Khả Hãn mượn dê hay sao”
Nghe thấy những lời
này gương mặt của A Sắt Lan đỏ bừng, ông ta lúng túng nói: “ Tất cả
những thứ đồ đạc, của cải này đều là do thủ hạ của ta đoạt được của
người khác, hơn nữa chúng cũng chẳng thể làm cơm để ăn được. Nếu như
quốc sư thấy thích thú, ta xin đưa hết cho quốc sư là được chứ gì”
“ Ma Ni Giáo chúng ta luôn luôn đề cao việc sống tiết kiệm, thì ta lấy
những thứ đồ linh tinh này về làm cái gì chứ. Hay là đại tù trưởng cố
nghĩ lại xem có cách nào tìm ra được số dê đó để ta có thể trở về mà bẩm báo với Khả Hãn được hay không”
Người Cát La Lộc từ sau cuộc
chiến La Tư đã dần dần trở nên lớn mạnh, hồi sinh. Nhưng sau thất bại
trước Đường quân ở Bắc Đình cũng như nội chiến kéo dài đã khiến cho lực
lượng và tiềm lực của bọn học bị suy giảm đi rất nhiều. Hiện tại mặc dù
có thể động viên ba mươi vạn nam tử đầu quân, nhưng nếu so với Hồi Hột
thì vẫn còn nhỏ bé lắm, bọn họ không có cơ hội để trêu chọc hay khiêu
khích Hồi Hột. Vì thế việc chấp nhận yêu sách của Hồi Hột gần như là bắt buộc, nhưng quả thật hiện giờ họ không có thừa bất cứ đầu dê nào để hồi báo với Khả Hãn Hồi Hột.A Sắt Lan đã bắt đầu run sợ, trán đã lấm tấm mồ hôi.
“ Được rồi, vì dù sao ông cũng là phụ thân của A Đạt Lôi,
nên ta đã nghĩ giúp ông một biện pháp khả thi rồi” Tô Nhĩ Mạn thở dài
nói tiếp: “ Trên thực tế ta cũng dự đoán rằng phía Cát La Lộc các ông
cũng không thể tìm đâu ra dê mà đáp ứng Khả Hãn, cho nên ta đã nghĩ giúp cho ông một con đường”
A Sắt Lan vô cùng mừng rỡ, ông ta vội vàng tạ ơn Tô Nhĩ Mạn: “ Ta biết thế nào quốc sư cũng nghĩ cách giúp ta mà”
“ Vì sự sinh tồn trước mắt của người Hồi Hột, ai có nói đến tình cảm cũng không thể được” Tô Nhĩ Mạn lắc đầu nói: “ Ta cũng đang muốn đi tới Ba
Cách Đạt, gặp bọn người Đại Thực để đàm phán mượn lương thực. Ý của ta
là muốn để cho bọn người Đại Thực đó thay các ngươi đưa ra khoản lương
thực này.”
“ Nhưng là những năm mươi vạn con dê, làm sao Đại Thực có thể chấp nhận chứ”
Tô Nhĩ Mạn cười ha hả: “ Bản thân Đại Thực cũng sẽ không bao giờ xuất ra
số lương thực đó mà Calipha sẽ ra một tờ lệnh để huy động chín nước
trong khu vực Chiêu Võ, đương nhiên bọn họ mới chính là những người nộp
số dê này. Bất quá …”
Nói đến hai chữ “ bất quá” này, hai mắt
của Tô Nhĩ mạn nhíu lại, đồng thời trên môi xuất hiện một nụ cười âm
hiểm, ông ta liếc nhìn A Sắt Lan rồi nói tiếp: “ Bất quá là các ông cũng phải tỏ chút thành ý ra mới được. Muốn cho CaliphaCalipha vui vẻ cao
hứng, đồng ý, thì ông có hiểu ý tôi muốn nói là gì không” A Sắt Lan im
lặng không nói gì, ông ta hiển nhiên hiểu được ý tứ trong lời nói của Tô Nhĩ Mạn, muốn cho Calipha hài lòng thì chỉ có duy nhất một cách, đó
chính là bọn họ phải tấn công Toái Diệp. Nhưng hiện tại bọn họ chuẩn bị
còn chưa đâu vào đâu làm sao có thể cùng Đường quân khai chiến được. Hơn nữa cách đây ba tháng một bộ lạc Cát La Lộc đã len lút đi chặn cướp
đoàn thường nhân người Hồ trên Kim Long đại đạo nhưng rốt cuộc lại chạm
trán với đội áp tải bạc của Đường quân. Toàn quân ba ngàn người bị tiêu
diệt hoàn toàn, ngay cả vị tù trưởng cũng bị tên bắn chết. Vì vậy bọn họ lúc này đối với Đường quân còn có chút sợ hãi, nó giống như đám mây đen u ám trong lòng của A Sắt Lan vậy. Một lúc lâu sau, ông ta mới thở dài
nói: “ Cũng không phải là ta không muốn tấn công Toái Diệp, mà thật sự
là chúng ta chưa chuẩn bị xong. Bản thân Đại Thực cũng biết điều đó. Bọn họ đã hứa sẽ đáp ứng các loại khí giới để công thành cho chúng ta nhưng đến nay vẫn không có, vậy thì ông thử tính xem ta làm sao có thể công
thành đây. Ta cũng không muốn chịu mấy phần ân tình này của Đại Thực, vì thế ta sẽ tự tay viết một phong thư gửi tới Trung Trinh Khả Hãn để giải thích rõ việc này. Nếu không làm như làm như thế thì ông bảo tôi làm
thế nào bây giờ”
“ Nếu như ông không đáp ứng lời đề nghị của Khả Hãn thì Khả Hãn cũng chẳng làm gì được ông cơ mà. Nhưng không biết ông
có từng nghĩ tới A Đặc Lôi ở Hàn Nhĩ Đóa Bát Lý sẽ như thế nào không” Tô Nhĩ Mạn lạnh lùng nói.
A Sắt Lan đến lúc này thì không còn cất
lên được một lời nào nữa, bởi vì Tô Nhĩ mạn đã nắm được điểm yếu của ông ta. Tô Nhĩ Mạn tiếp tục cười âm hiểm nói:” Thật ra thì ông không cần mở rộng tấn công Toái Diệp ở mức đại quy mô, mà mấu chốt là ông cần thể
hiện những động thái cụ thể để cho Calipha biết rằng ông rất trung thành và nghe lời ông ta. Chỉ cần như thế là đủ rồi. A Sắt Lan lão đệ, lão đệ hiểu ý ta chứ”
“ Những lời nói gợi mở của ông bỗng nhiên giúp cho A Sắt Lan tôi bỗng nhiên hiểu mình cần phải làm gì”
Tô Nhĩ Mạn từ từ gật đầu: “ Ta nghe nói Toái Diệp đang tiến hành xây dựng
công sự ở phía bắc của Đại Thanh Trì, ông có thể từ phương diện này mà
nghĩ ra cách đánh cho hợp lý” Toái Diệp thành nằm ở thung lũng Toái
Diệp, ở phía Tây Bắc của Đại Thanh Trì, bản thân Toái Diệp thành còn các Đại Thanh Trì tới hơn mười dặm, vị thế mà ở các khu vực phụ cận xung
quanh Đại Thanh Trì cũng có một số thành nhỏ như Diệp Chi thành, Hạ Liệp thành, Bùi La Tướng Quân thành … Nhưng những thành nhỏ này phần lớn
cũng chỉ phân bố ở phía Tây và phía Nam của Đại Thanh Trì. Còn ở phía
Bắc và phía Đông của Đại thanh Trì thì việc lập hệ thống phòng ngự gần
như là trống không. Cho nên ba tháng trước đây một nhóm kỵ binh người
Cát La Lộc mới có thể an toàn, không bị cản trở mà xuôi nam cướp bóc các đoàn thương buôn. Mặc dù sau đó Đường quân gia tăng việc trinh sát tuần hành, nhưng đó cũng chỉ vẻn vẹn là tuần tra mà thôi, chứ chưa thể tạo
ra một hệ thống phòng ngự hữu hiệu được. Để giải quyết vấn đề này Tào
Hán Thần đã quyết định cho chậm lại tiến độ của việc khai thác mỏ bạc,
mà trập trung nhân lực, đẩy nhanh tốc độ xây dựng hệ thống thành quách
phòng ngự.
Phương án xây dựng hệ thống thành quách phòng ngự ở
đây cũng đã được triều đình phê chuẩn thông qua từ hồi năm ngoái, nhưng
bởi vì nhân lực còn thiết nhiều nên phải trì hoãn cho tới nay. Hiện tại
trước tình hình diễn biến và những đe dọa của việc người Cát La Lộc xuôi nam, khiến cho việc xây dựng hệ thống phòng ngự ở đây trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Theo như kế hoạch đã định, thì ở mỗi mặt phía Bắc, và
phía Đông của Đại Thanh Trì sẽ xây dựng hai tòa thành. Cụ thể là ở mặt
phía Đông sẽ cho xây dựng hai tòa thành Thanh Long và Bạch Hổ, còn ở mặt phía bắc sẽ cho xây dựng Chu Tước thành và Huyền Vũ Thành. Mỗi tòa
thành này được xác định là cách nhau hai mươi dặm, tạo ra thế hô ứng,
các tòa thành ở bốn góc sẽ hỗ trợ cho nhau nên có biến cố phát sinh.
Trong số bốn tòa thành này thì Huyền Vũ thành là gần với khu vực của
người Cát La Lộc nhất, đồng thời đây cũng là tòa thành tập trung nhiều
nhân lực và vật lực nhất trong việc xây dựng. Tòa thành này cách Đại
Thanh Trì không tới năm dặm, nếu đứng trên tòa thành, phóng tầm mắt qua
tảng rừng rậm kia sẽ có thể nhìn thấy mặt hồ nước lấp loáng,lăn tăn gợn
sóng ở Đại Thanh Trì.
Ngay từ sáng sớm hôm nay, Thi Dương đã cũng một trăm tên thủ hạ đi áp giải ba ngàn tù binh tới Huyền Vũ thành xây
dựng công sự. Hiện tại hắn đã được thăng chức là đội trưởng của một đội
kỵ binh trong Toái Diệp quân. Trong cuộc chiến đấu ở Kim Long đại đạo,
hắn là người tiêu diệt được số kỵ binh Cát La Lộc nhiều nhất, hơn nữa
lại một tiễn sát tử tên tù trưởng, lấy đầu của hắn. Chính vì lập được
đại công như vậy, nên chiếu theo chính sách luận công ban thưởng của Đại Đường hắn có thể được thăng hai cấp, như vậy hắn đang từ Ngũ trưởng sẽ
được phép bỏ qua cấp Đội trưởng mà trực tiếp được phong Hiệu úy. Nhưng
Tào Hán Thần lúc tính toán chiến công để ban thưởng lại cũng không để ý
tới việc hắn đang là Ngũ trưởng của Thiên Kỵ Doanh, mà chỉ coi hắn như
một quân nhân cấp bình thường, nên khi được thăng hai cấp hắn mới lên
Đội trưởng, thủ hạ dưới quyền có một trăm tên, đồng thời quản lý hai
trăm con chiến mã.
Có lẽ xuất phát từ sự lo lắng, băn khoăn về
tuổi tác của hắn, nên Tào Hán Thần khi viết vào lý lịch của hắn đã âm
thầm tặng thêm cho hắn vài tuổi lên con số mười tám đôi mươi, để giúp
hắn có thể đủ dày dặn lãnh đạo một trăm tên đại hán dưới quyền. Bất quá ở điểm này ông ta có phần lo lắng hơi quá rồi. Chưa cần nói tới việc Thi
Dương vốn là già dặn trước tuổi, tâm trí thành thục, mà quan trọng hợn
là là quân đội ở An Tây truyền thống xưa nay vẫn là lấy chiến công trong từng trận để làm căn cứ, tạo chỗ đứng, và là cơ hội thăng tiến cho
mình. Còn về tuổi tác thì cũng không lấy làm quá quan trọng trong việc
đánh giá. Thi Dương cũng là người biết tận dụng cơ hội, hắn nhanh chóng
tận dụng chiến công tiêu diệt sáu mươi bảy tên kỵ binh Cát La Lộc để
tranh thủ sự tôn trọng của binh sĩ dưới quyền. Hơn nữa thương pháp của
hắn xuất quỷ nhập thần, tài thiện xạ bách phát bách trùng, lại càng
khiến cho bọn thủ hạ bội phục thêm mấy phần.
Công việc xây dựng công sự đã bắt đầu tiến hành. Tất cả các lao công đều đã được phân công nhiệm vụ và đang tiến hành làm phần việc của mình. Có nhóm trộn vữa, có nhóm được phân công vận chuyển các khối đá lớn, nhóm
làm nhiệm vụ đẽo đá cho vuông vắn. Đá ở đây được lấy từ núi Ô Tư Mạn về
sau đó lại dùng nhân công để đẽo vuông rồi mới xây dựng. Ở bên cạnh
tường thành có hai cái tháp cần trục cao lớn làm bằng gỗ, chúng có nhiệm vụ là chuyển những tảng đá lớn từ mặt đất lên trên đầu tường thành. Tòa thành Huyền Vũ này trải qua hai năm xây dựng, cũng đã hoàn thành được
khoảng tám phần khối lượng công việc. Trên tường thành các lỗ châu mai
đã được được xây xong, và bộ khung của lầu tháp trên Huyền Vũ thành đang dần hoàn thiện khá tốt. Cũng lúc này một đội nhân công khác tiến hành
đào hệ thống hào bảo vệ xung quanh tường thành, hào này sâu ba trượng,
chiều rộng chừng bốn trượng. Cầu treo dẫn vào thành thì mới được làm
xong ngày hôm qua, nhưng cửa thành thì còn chưa kịp lắp đặt nữa. Nếu như tòa thành này được hoàn thành thì có sức chứa được năm ngàn binh lính,
và nghiễm nhiên trở thành một pháo đài chắc chắn ở phía Bắc của Đại
Thanh Trì.
Do thời gian gấp rút chưa hoàn thành ngay được và cũng là để tiện cho việc đi lại nên người ta đã cho ghép mấy tấm ván gỗ làm
cầu tạm để đi lại khi cần qua cái hào này. Hào nước xung quanh Huyền Vũ
thành được thông với Đại Thanh Trì, mặc dù nước ở Đại Thanh Trì quanh
năm không hề đóng băng nhưng khi nước được dẫn vào hào thì lại bị đông
kết, và xuất hiện một lớp băng mỏng, và dĩ nhiên là không thể di chuyển
đi lại trên lớp băng mỏng này được rồi. Trên công trường xây dựng có hơn ngàn tên tù binh đnag làm nhiệm vụ vận chuyển các khối đá từ Ô Tư Mạn
tới đây, bọn họ làm việc hết sức khẩn trương, bận rộn. Những tù binh này đều là những tù binh bị bắt trong cuộc chiến An Tây năm đó, bọn họ xuất thân từ nhiều chủng tộc, trong đó có người Thổ Hỏa La, Đại Thực, người
Chiêu Võ và thậm chí có cả người Ai Cập nữa. Ban đầu thì số tù binh này
lên tới hơn năm vạn người, nhưng sau khi chiến tranh kết thúc, thì một
phần quân nhân Chiêu Võ bị bắt làm tù binh đã được phóng thích và cho
đến năm ngoái thì còn khoảng hơn ba vạn tù binh nữa, bọn họ đa phần là
người Đại Thực, Thổ Hỏa La và người Ai Cập. Bản thân Đại Thực Calipha
cũng đã từng phái đặc sứ sang Đại Đường để bàn chuyện trao đổi tù binh
giữa hai bên. Sau khi bàn bạc, hội đàm hai bên đã nhất trí đưa ra hiệp
nghị về việc trao đổi tù binh. Theo bản hiệp nghị này Đại Thực sẽ phóng
thích bốn ngàn Đường quân bị bắt làm tù binh trong cuộc chiến La Tư, còn ngược lại về phía Đại Đường cũng sẽ phóng thích một vạn tù binh Đại
Thực. Còn đối với hai vạn tù binh Thổ Hỏa La và Ai Cập thì Đại Đường đề
nghị dùng tiền chuộc làm phương thức trao đổi, nhưng Đại Thực là không
hề xuất ra một xu nào để chuộc người, mà ngay cả sự sống chết của họ
cũng không thèm để ý tới. Trướ tình hình này triều đình quyết định đưa
số tù binh này đến Toái Diệp để phục vụ việc khai thác mỏ bạc, và sau
năm năm khổ sai thì cũng sẽ phóng thích cho số tù binh này.
Thi
Dương đang dẫn theo hai mươi mấy tên lính đi dọc con hào quanh thành để
thị sát. Trong Huyền Vũ thành này tổng cộng có năm trăm quần đồn trú,
nhiệm vụ chủ yếu của lực lượng này là trông coi, canh gác mấy ngàn tên
tù binh đang lao động ở đây, đồng thời cũng nhằm ngăn cản đề phòng
trường hợp bọn người Cát La Lộc tới quấy nhiễu.
Năm trăm binh sĩ
này được chia làm năm đội, do một viên hiệu úy họ Phương đứng đầu. Nhưng ngày hôm nay Hiệu úy họ Phương đó đã dẫn theo gần hai trăm binh lính để áp giải hơn ngàn tên tù binh lên núi Ô Tư Mạn để khai thác đá xây
thành. Hiện tại trong thành Huyền Vũ chỉ còn lại khoảng hơn ba trăm quân Đường, số này do ba người Đội trưởng chịu trách nhiệm phụ trách và đnag làm nhiệm vụ ở đoạn tường thành mà mình đã được phân công.
Thi
Dương vừa mới đi tới góc Tây Bắc để thị sát thì bỗng nhiên nghe thấy một loạt những tiếng động lớn, những âm thanh huyên náo từ trên đầu tường
thành truyền lại. Dưới chân thành cũng có nhiều tù binh bỏ việc ngồi bệt xuống đất lớn tiếng la lối, hò hét. Thi Dương thấy vậy lấy làm kinh
ngạc, ngẩng đầu nhìn lên, thì thấy ở trên tường thành có hơn ngàn tù
binh cũng đã bỏ làm, ngồi trên tường thành hò hét ầm ĩ.
Thi Dương lập tức quay trở lại nói với mấy tên lính tùy tùng: “ Đi, các ngươi hãy qua đó xem một chút, xem rốt cuộc chuyện gì đã xảy ra”
Ba tên
lính tuân lệnh phóng ngựa đi tới hiện trường, một lát sau ba người đã
vội quay trở lại nói: “ Đội trưởng” Ba người cưỡi ngựa nhanh chóng tiến
về chỗ Thi Dương, một người trong số đó, liền quẳng một tên tù binh tới
trước mặt Thi Dương: “ Đội trưởng, tên Tháp Tháp Mộc này đã kích động tù binh bãi công”
Trước mắt Thi Dương là tên tù binh đã gây sự.
Tên tù binh này tên là Tháp Tháp Mộc, tuổi khoảng bốn mươi, da hắn ngăm
đen. Cái da đen này không phải do rám nắng khi lao động mà có lẽ là trời sinh da hắn đã thế rồi. Lông mày rậm, mắt thì thô và trố. Đây chính là
bộ dạng, ngoại hình đặc trưng của người Thổ Hỏa La. Và bản thân hắn vốn
là một tướng lãnh cấp cao trong quân đội Thổ Hỏa La. Khi bị bắt làm tù
binh hắn được giao trách nhiệm phối hợp cùng Đường quân trong việc quản
lý tù binh, và hắn cũng không phải làm gì vất vả cả. Trong bốn năm bị
bắt làm tù binh thái độ và sự hợp tác của hắn cũng không tệ, theo đúng
kỳ hạn thì đến tháng mười sang năm hắn sẽ được trả tự do.
Có lẽ là do sắp được phóng thích nên bọn tù binh cũng bắt đầu chú ý nhiều hơn đến thân thể của
mình, bọn chúng cố gắng ăn nhiều, ngủ nhiều để bồi bổ. Với những động thái đó thì cũng là dễ hiểu không cần quá chú ý. Nhưng nguyên nhân của việc lãn công lần này xuất phát từ việc trước đây hai vạn nhân thủ này làm việc
trong các mỏ khai thác bạc nhàn nhã và thậm chí có phàn sung túc. Cho
nên việc tính cách lười biếng của bọn chúng Đường quân cũng chưa thấy
hết được. Nhưng đến khi tiến hành xây dựng Huyền Vũ thành này thì hoàn
toàn khác, bởi vì thời gian gấp rút, lao công lại không nhiều, vì thế
nên để dảm bảo tiến độ Đường quân tăng thêm cường độ lao động, đem khối
lượng công việc cụ thể từng ngày giao cho bọn tù binh. Nếu không làm
xong thì sẽ không được ăn, được ngủ. lần này làm việc vất vả khiến cho
tù binh kêu trời kêu đất. Hơn mười ngày trở lại đây chúng bắt đầu tỏ
thái độ bực bội chống đối, và ngày hôm nay chính là Tháp Tháp Mộc kích
động lãn công, đưa yêu sách yêu cầu Đường quân giảm bớt thời gian lao
động.
Từng tồn tại ở mỏ bạc Toái Diệp đã bốn năm, điều đó khiến
cho Tháp Tháp Mộc sớm đã trở thành một kẻ dày dạn kinh nghiệm và là một
tên cai trong đám tù binh . Hắn ta thấy quân quản của Đường quân lúc này chỉ là một gã đội trưởng chức vụ thấp bé, hơn nữa lại còn rất trẻ tuổi. Vì thế trong lòng hắn nảy sinh sự coi thường, hừ lạnh một tiếng, nằm úp sấp trên mặt đất, chuẩn bị lấy lý do bất đồng ngôn ngữ để cự tuyệt trao đổi với Thi Dương, chờ cho tướng lĩnh cao cấp của đối phương tới mới
nói chuyện.
“ Đem hắn đi chém đầu thị chúng” Thi Dương căn bản
cũng không có ý định sẽ cùng hắn đàm phán hay thỏa hiệp gì cả. Sau khi
nghe hắn vung tay hạ lệnh chém đầu, mấy tên lính liền xông tới, bẻ giật
cánh khủy tay của Tháp Tháp Mộc, rồi lôi hắn tới đầu tường thành phía
bên kia. Tháp Tháp Mộc thấy vậy sợ quá, giơ tay nói lớn : “ Được rồi !
Được rồi ! Ta sẽ bảo bọn họ tiếp tục làm việc là được chứ gì “
Mấy tên lính nghe Tháp Tháp Mộc đã xuống nước, liền nhìn lại về phía Thi
Dương nhưng Thi Dương dường như không hề nghe thấy lời nói của Tháp Tháp Mộc, hắn lạnh lùng quát “ Chém ngay “
Một tên lính tuốt đao,
tiến thế chém lật Tháp Tháp Mộc, tiếng thét của hắn vang lên như âm
thanh thảm thiết giống như tiếng kêu của con lợn khi bị chọc tiết vậy.
Rồi một tên lính khác liền giơ đao nhắm thảng cái cổ của Tháp Tháp Mộc
mà hạ xuống. Thi Dương lạnh lùng nhìn cảnh kết thúc của cuộc hành hình,
hắn vung tay lên ra lệnh nói : “ Đi, hãy đem đầu của hắn mang thị chúng, nếu tên nào còn gây chuyện thì xử chém ngay lập tức “
Thủ cấp
của Tháp Tháp Mộc được cắm trên một ngọn trúc cao, cho mọi người đều có
thể nhìn thấy. Sự bất mãn bột phát của đám tù binh đã dẫn đến một cuộc
lãn công đòi yêu sách. Nhưng sau cái chết của Tháp Tháp Mộc tất cả đều
trở lại binh thường, đám tù nhân không dám nửa lời than vãn. Công trường xây dựng lại bắt đầu khẩn trương tiến hành xây dựng. Trước sự việc vừa
diễn ra Thi Dường quyết định bỏ qua việc tù binh hỗ trợ quan quân trong
việc quản lý các tù binh khác, mà đưa ra phương án mỗi binh lính Đường
quân cầm một cái roi da, nếu tên tù binh nào lười biếng thì lập tức quật cho túi bụi.
Một ngày đi qua rất nhanh, đoạn tường thành ở phía
Bắc do Thi Dương chịu trách nhiệm quản lý đôn đốc tiến độ rất nhanh, nếu làm đến đêm tận đêm khuya hôm nay thì sẽ có khả năng hoàn thành được.
“ Đội trưởng, tiện độ này thì hôm nay có thể hoàn thành được” Một tên binh lính chạy tới bẩm báo Thi Dương.
Thi Dương ngẩng đầu lên bầu trở để xác định thời gian, mặt trời lúc này đã
ngả về Tây, còn độ nửa canh giờ nữa thì mặt trời sẽ tắt hẳn: “ Đội
trưởng, thời gian bây giờ vẫn còn sớm, hay là chúng ta cứ để bọn chúng
làm thêm một lát” Một gã Ngũ đội trưởng trong lòng có phần phấn chấn,
cất lời đề nghị với Thi Dương.