Trong bóng đêm âm thầm, cửa phường Vĩnh Nhạc đang đóng chặt lặng lẽ mở
ra. Một toán quân đội như dòng thủy ngân đen không một tiếng động chảy
ra khỏi cửa phường nhằm hướng Minh Đức môn phóng đi. Trên đường Chu Tước cực kỳ yên tĩnh, không có một người đi đường nên tốc độ hành quân của
đội ngũ này cực nhanh. Chỉ nghe thấy tiếng vó ngựa vang lên “ lộc cộc!” . Không có người nói chuyện, ai nấy đều vẻ mặt cảnh giác nhìn quan sát
tình hình chung quanh.
Ở giữa đội ngũ, Trương Hoán mặc một bộ áo
giáp màu đen, ánh mắt trầm tĩnh nhìn chăm chú vào phía trước. Buổi trưa
hôm nay, Lý Bình đem tất cả ruộng vườn đều hiến sạch, chỉ khẩn cầu
Trương Hoán có thể tha mạng cho vợ con hắn. Mặc dù hắn không nói đến cha mình là Lý Miễn, nhưng Trương Hoán lại minh mẫn cảm giác được, Lý Miễn
cùng Đoạn Tú Thực sẽ đánh cược một lần cuối cùng. Từ góc độ nào đó thì
có lẽ Trương Hoán rất khâm phục sự cố chấp của hai người này. Nhất là
Đoạn Tú Thực, ông ấy không giống như Lý Miễn có người cháu đang làm
hoàng đế. Ông ta không có bất cứ thứ gì để luyến tiếc mà chỉ vẻn vẹn là
vì niềm tin của mình liền không tiếc sức để làm một việc mà không có khả năng thành công, thậm chí còn phải trả giá bằng sự tịch thu tài sản và
cái chết của cả nhà. Nhưng khâm phục thì khâm phục, Trương Hoán cũng sẽ
không bởi vì khâm phục mà bỏ qua cho bọn họ. Đây là chánh trị, chánh trị là không có thương hại gì với kẻ đối địch.
Nhưng trong kế hoạch
của hắn thì Lý Miễn cùng Đoạn Tú Thực chẳng qua chỉ là hai hòn đá vụn
trong dòng nước xiết. Bọn họ không còn gì nữa, càng không có cách nào
thay đổi dòng nước đang lao nhanh. Hiện tại hắn muốn bước lên đường,
nhưng con đường lần này cũng là một lộ trình cực kỳ đặc biệt, nó sẽ là
một đoạn đường huy hoàng nhất trong cả đời này .
Chả mấy chốc đại quân đi tới trước cửa Minh Đức. Quân canh Minh Đức môn đã được thông
tri trước đó nên thấy đại quân kéo tới thì cánh cổng lớn của Minh Đức
môn từ từ mở ra. Quân đội của Trương Hoán bắt đầu ra khỏi thành. Lúc
này, một cận vệ của Trương Hoán giống như bóng ma xuất hiện ở phía sau
Trương Hoán. Hắn hạ giọng bẩm báo: “ Hồi bẩm đô đốc. Ở trên một cây đại
thụ ngoài hai trăm bộ cũng có một người ẩn náu.”
“ Tiếp tục theo dõi, không nên đánh động hắn.” Trương Hoán liền hạ mệnh lệnh, Phương Vô Tình lại như một làn khói xanh mà biến mất.
Một mực chờ toàn bộ
đại quân của Trương Hoán ra khỏi thành, sau khi Minh Đức môn lại từ từ
đóng cửa thì một bóng đen từ trên một cây đại thụ cách đó hơn hai trăm
bộ lặng yên nhảy vào bên trong phường An Nghĩa nằm cạnh Minh Đức môn.
Hắn nhanh chóng biến mất trong màn đêm dày đặc.
Khi trời sắp sáng lên thì mỗi cửa lớn của phường lại mở ra trong hàng tràng tiếng trống.
Cửa lớn của phường Vụ Bản cũng mở. Rất nhiều người đã sớm chờ ở trước
cửa phường đồng loạt chen nhau ra. Đám tiểu thương bán thức ăn, bán quà
sáng đều tự chiếm chỗ rồi bắt đầu lớn tiếng rao hàng. Trong đám sương mù tràn ngập buổi sớm tràn đầy sức sống hừng hực. Lúc này, một nam nhân
mặc trường bào xám vội vã đi vào cửa phường. Hắn đi xuyên qua một cái
hẻm nhỏ rồi thẳng đếntrước cửa hông phủ đệ của Lý Miễn. Hắn lấy ra một
cái thẻ bài đảo qua trước mặt gia đinh coi cửa. Gia đinh lập tức dẫn hắn vào trong phủ.
Hai ngày nay, ngoài dự đoán của mọi người thì Lý
Miễn bắt đầu sôi nổi hắn. Ông ta bắt đầu xuất hiện ở trong phòng làm
việc Lễ Bộ, bắt đầu hỏi han ân cần một vài bộ hạ cũ. Mặc dù ông ta không được mời tham gia hội nghị của Trương Hoán nhưng ông ta cũng không lưu
tâm, mỗi ngày đều tươi cười đến đủ từ lúc vào triều tới khi hạ triều.
Đối với mỗi một công việc đều nghiêm túc chăm chỉ, dường như đã trở
thành một người khác. Ngược với sự sôi động lúc ban ngày, buổi tối ông
ta lại hết sức im lặng, không hề đi bất cứ đâu. Đoạn Tú Thực cũng không
trở lại tìm ông ta, buổi tối hàng ngày đều đọc sách, vui đùa với con
cháu, cùng thị thiếp tham khảo ý nghĩa cuộc đời. Nói ngắn lại, đó thực
sự là một ông lão biết đạo trời, không muốn đi đâu hết mà chỉ đợi bạn
hưu nhàn đến chơi.
Sáng sớm, vẫn như ngày thường thì từ lúc trời
còn chưa sáng Lý Miễn đã dậy chuẩn bị vào triều. Ông ta uống một chén
trà nóng, vừa mới đứng dậy muốn đi thì đột nhiên một người quản gia nhà
bên ngoài vội vã chạy tới nói nhỏ vài câu với ông ta. Lý Miễn lập tức
thay đổi chủ ý, bước nhanh về phía phòng tĩnh thất. Trong phòng, tên nam nhân áo bào xám đang ngồi xếp bằng dưới đất nhắm mắt dưỡng thần. Thấy
cửa vang lên thì hắn lập tức nhảy dựng lên giống như con ếch, đi tới chỗ Lý Miễn rồi khom người thi lễ “ Thuộc hạ tham kiến Thượng Thư!”
Lý Miễn đóng cửa phòng tĩnh thất lại, ngồi xuống liền lập tức hỏi: “ Người ấy thực sự đã rời kinh sao?”
“ Đã rời kinh !” Nam nhân áo xám gật đầu đáp: “ Từ hôm qua suốt một ngày
một đêm thuộc hạ đều phái người chờ đợi trước mỗi cửa lớn của thành
Trường An. Đêm khuya hôm qua, huynh đệ chờ đợi ở trước Minh Đức môn rốt
cục phát hiện người ấy đã lặng lẽ ra khỏi thành.”
“ Cơ hội rốt
cục đã đến!” Lý Miễn cố gắng kiềm chế nội tâm kích động. Ông ta chắp tay đằng sau đi qua đi lại trong phòng. Từ khi nghe được tin tức Sở Hành
Thủy không chịu từ bỏ quân đội, ông ta liền ý thức được cơ hội có thể sẽ xuất hiện. Ngay sau đó Trương Hoán thanh trừng thế lực của Sở gia, bắt
Sở Duy, thậm chí còn truyền ra ngoài là hắn muốn giết Sở Duy để bày tỏ
quyết tâm. Sở gia cũng tỏ vẻ thái độ đối kháng, tự bớt lại tám trăm vạn
quan tiền thuế. Đủ loại dấu hiệu cho thấy, tình thế Hoài Nam đã nguy
hiểm không còn khống chế được. Ngày hôm qua sau khi truyền đến tin đại
thắng Hà Bắc, Trương Hoán lập tức tỏ vẻ muốn đích thân đi tới Hoài Nam.
Lý Miễn liền đoán được rằng tất nhiên quân Lũng Hữu ở Hà Bắc đã xuôi
nam. Trương Hoán vốn ban đầu nói sáng hôm nay sẽ rời kinh. Nhưng ngay
trong đêm hắn đã xuất phát, điều này nói rõ hắn hết sức lo âu với tình
thế ở Hoài Nam. Cả đi lẫn về ít nhất cũng cần tới nửa tháng, Trường An
để trống thì cơ hội cho mình rốt cục đã đến. Giờ phút này Lý Miễn cũng
không còn bụng dạ nào vào triều nữa. Ông ta không lưỡng lự nói với người áo xám: “ Ngươi lập tức đi mời Đoạn Tú Thực tới đây cho ta. Lại thuận
tiện nói cho ông ấy, người kia đã rời kinh thành.”
Trương Hoán
rời kinh cũng không gây ra chấn động gì lớn ở trong triều, không ít
người vẫn còn mê muội trong men rượu tối hôm qua, nên không ý thức được
lần này Trương Hoán rời Trường An sẽ mang đến điều gì cho Đại Đường.
“ Đi cũng tốt! Ngày ngày phải đứng ở Chu Tước Môn trước giờ mão, cuộc
sống như thế thì người ta còn sống nổi không?” Đây là một quan viên
tương đối lười biếng than phiền.
“ Ngươi biết cái rắm gì! Trong
kho triều đình chỉ còn lại có năm mươi vạn quan tiền, Sở gia giữ lại
tiền thuế không chuyển đi, Giám Quốc có thể không nóng nảy sao? Tháng tư sắp đến rồi, chính là lúc dùng tiền nếu ngài ấy không đi thì làm sao
bây giờ!”
“ Ai! Khó khăn lắm mới quét sạch Trung Nguyên thì Hoài Nam lại gặp chuyện không may. Đại Đường chúng ta đến khi nào mới có một ngày bình yên?”
Trong tiếng bàn luận xôn xao, một chiếc xe ngựa chạy nhanh ra cửa Đan Phượng môn. Ở trong xe ngựa là Thôi Ngụ vừa mới
vào triều. Ông ấy nghe nói đúng là Trương Hoán rời khỏi kinh trong đêm
thì lại nghĩ tới hôm trước Nguyên Tái có ám chỉ với mình. Trong lòng
liền bắt đầu sốt ruột. Buổi tối hôm qua ông ta còn đặc biệt đi thăm hỏi
Nguyên Tái, muốn được nói rõ bí mật ám chỉ với mình lúc ban ngày. Nhưng
bất kể ông ta nói bóng nói gió như thế nào, Nguyên Tái chỉ cười mà không đáp, khiến cho ông ta mờ mịt không hiểu ra sao. Bây giờ Trương Hoán lại rời kinh ngay trong đêm thì dường như ông ta nghĩ ra được gì đó, nhưng
lại nhìn không rõ lắm. Thôi Ngụ quyết định tìm đại ca của mình để tham
khảo điều huyền bí ở trong đó.
Xe ngựa phi nhanh một mạch, chả
mấy chốc đã chạy vào phường Tuyên Dương rồi chậm rãi dừng lại trước cửa
Thôi phủ. Thôi Ngụ xuống xe ngựa bước nhanh vào cổng lớn Thôi phủ. Từ
sau khi cùng Trương Hoán đạt được thoả thuận đổi ruộng đất lấy quân đội, Thôi Viên lại trở thành người lãnh đạo thực tế của Thôi gia lần nữa.
Mặc dù ông ta không hề đảm nhiệm bất cứ chức vụ gì, nhưng mọi chuyện lớn nhỏ phát sinh mỗi ngày ở triều đình đều có người của Thôi gia đưa tới
tin tức cho ông ta. Đồng thời, mọi chuyện lớn trong tộc cũng toàn bộ đều phải báo để ông ta cho quyết sách.
Chuyện đã xảy ra trong triều
hai ngày nay thì tự nhiên ông ta cũng biết rõ. Đóng cửa Đại Minh Cung,
Sở gia đối kháng triều đình, nguy cơ tắc đường thuỷ vận, Hà Bắc đại
thắng .v..v... Mọi sự kiện trước tiên đều phải có người đặc biệt chỉ làm mỗi việc kịp thời thông báo cho ông ta. Hiện tại, ông ta vừa mới nhận
được tin tức Trương Hoán rời kinh trong đêm hôm qua.
“ Nhị lão gia đến.” Từ ngoài cửa đột nhiên truyền đến tiếng thị vệ bẩm báo.
Lời còn chưa dứt thì Thôi Ngụ đã vội vã đi vào rồi vội vã nói: “ Đại ca, ca cũng đã biết tối hôm qua Trương Hoán rời kinh trong đêm.”
Thôi
Viên cười. Dường như ông ta biết Thôi Ngụ sẽ đến, liền giơ tờ tin trong
tay mà cười nói: “ Ta cũng vậy, vừa mới biết được.”
“ Đại ca cho rằng trong đó có khả năng xảy ra vấn đề gì?” Thôi Ngụ chần chờ một lát rồi hỏi.
“ Vấn đề gì cơ? Hôm qua lúc mọi người mở hội nghị thì không phải hắn đã
nói đại quân Vương Tư Vũ đã xuôi nam, còn hắn muốn đích thân đi Hoài Nam giải quyết sao? Nếu đã nói thế thì còn có vấn đề gì? Chẳng qua chỉ là
hắn đổi thành xuất phát trong đêm thôi. Có lẽ là do cảm giác thấy tình
thế có hơi nghiêm trọng thôi.”
Thôi Viên trả lời qua loa như vậy khiến cho Thôi Ngụ cũng không thể vừa lòng. Đúng là từ bề ngoài nhìn
thì xác thực cũng không có gì bất thường. Chuyện Hoài Nam khẩn cấp,
Trương Hoán liền cả xuất hành trong đêm, tất cả đều rõ ràng rành mạch.
Nhưng cuối cùng thì Thôi Ngụ lại có cảm giác được trong đó dường như có
giấu việc gì đó không thể cho ai biết. Ông ta đột nhiên nghĩ tới một
chuyện bèn vội la lên: “ Hôm qua đệ nói để đệ làm sứ giả đi Hoài Nam, cứ để Trương Hoán trấn giữ kinh thành. Với việc đệ cùng Sở Hành Thủy có
hai mươi năm giao tình và ông ta trường kỳ làm quan tại kinh thành thì
đệ nghĩ hẳn là có thể tìm được một phương án hai bên đều đón nhận. Nhưng Trương Hoán lại khư khư cố chấp, ngay khi đệ khuyên nữa thì Nguyên Tái
lại ám chỉ cho đệ, ý bảo đệ không nên khuyên can Trương Hoán đi về phía
nam. Đệ tư chất ngu dốt nên không thể hiểu duyên cớ trong đó, hy vọng
đại ca chỉ điểm cho đệ.”
“ Đệ hẳn là dự đoán được đây là vì cái
gì?” Thôi Viên vẫn đang nói qua loa: “ Từ xưa kẻ lên ngôi thì lúc đăng
cơ có ở kinh thành đâu? Cho dù hắn gấp gáp như thế nào, có ưu thế đăng
cơ như thế nào thì ở một bước cuối cùng đều phải biểu hiện ra một loại
tư thế: hắn đăng cơ là điều vạn bất đắc dĩ, là bị thần tử bức bách, năm
lần bảy lượt thỉnh cầu mới bất đắc dĩ bước lên ngôi vị hoàng đế. Nếu như ở lại kinh thành thì làm sao hắn có cơ hội như thế?”
Thôi Ngụ
bỗng nhiên tỉnh ngộ. Mặc dù ông ta không đa mưu túc trí bằng Thôi Viên,
nhưng đã làm quan nhiều năm nên cũng có đủ kinh nghiệm chánh trị. Chỉ
cần phá được tầng che mắt kia thì tình hình phía sau cũng giải quyết dễ
dàng. Trương Hoán quay về kinh đã gần một tháng, vậy mà người Thái Hậu
đảng trước sau hắn không hề thanh toán. Như vậy xem ra chính là hắn muốn lưu bọn họ lại để làm bậc thang cho hắn bước lên đỉnh.
Phàm là
đã nghĩ thông suốt điểm này, trong lòng Thôi Ngụ lập tức bắt đầu sôi
sục. Ở vào thời điểm mấu chốt thế này, cơ hội lập công có thể ngộ mà
không thể cầu thì làm sao ông ta có thể dễ dàng buông tha. Lập tức ông
ta không thể chờ đợi được mà hỏi han: “ Vậy chúng ta nên làm những thứ
gì?”
“ Đệ gấp cái gì?”
Thôi Viên liếc mắt nhìn ông ta mà có hơi bất mãn với sự nôn nóng của Thôi Ngụ. Nếu như Trương Hoán dám
rời kinh ở trong thời điểm mấu chốt này, làm sao mà hắn lại không có bố
trí sẵn? Hơn nữa nếu muốn đăng cơ mà không có Thôi gia nhà mình ủng hộ
thì làm sao được. Chánh trị như võ đài, không được để bị mai một tại hậu trường, nhưng đoạt vai diễn của người khác cũng không được. Mấu chốt là phải biết rằng chính mình nên sắm vai một nhân vật nào ở trong đó. Nghĩ vậy, Thôi Viên khẽ hừ một tiếng mà đáp: “ Hiện tại chúng ta cũng không
cần làm gì, chỉ để ý ngoảnh mặt làm thinh chờ lúc giúp hắn thu thập tàn
cuộc.”
Mặc dù là nghĩ như vậy, nhưng trong lòng Thôi Viên đối
với việc Thôi gia sẽ sắm vai một nhân vật gì thì ông ta cũng có một số
nghi hoặc. Chỉ nhìn lần này là cũng biết ở trong lòng Trương Hoán đối
với Thôi gia và Bùi gia là bên trọng bên khinh.
Bùi Hữu hôm nay
cũng không vào triều đúng giờ. Giờ Mão canh ba, sau khi tiếng trống vào
triều vang lên một hồi cuối cùng thì ông ta mới không nhanh không chậm
ra khỏi phủ. Bước lên xe ngựa rồi đi về hướng phường Thân Nhân. So với
anh trai Bùi Tuấn, Bùi Hữu vận dụng quyền mưu có vẻ hơi chậm chạp. Ông
ta không giống Thôi Viên có thể chuẩn xác nắm chắc tâm lý của Trương
Hoán, mặc dù Thôi Viên cũng từ bỏ quân đội, nhưng Thôi gia giành được
lợi ích lớn nhất.
Cuộc chiến Hà Bắc kết thúc, Trương Hoán thu
được cả danh lợi đôi đường. Còn Bùi gia chẳng những mất đi quân đội mà
cũng mất đi tuyệt đại bộ phận trang viên. Bùi gia bọn họ từng có được
hơn mười vạn khoảnh ruộng đất, hiện tại chỉ còn lại có ba điền trang ở
gần Nghiệp Quận với vẻn vẹn một vạn khoảnh ruộng đất.
Không chỉ
có về quân đội và ruộng đất, Bùi Hữu đối với việc khống chế nội bộ Bùi
gia cũng không được như Bùi Tuấn có thể nói một không hai. Điển hình
nhất là việc ông ta không cách nào bình ổn nổi chuyện tranh giành Gia
chủ Bùi gia. Hiện tại ông ta chỉ là thay thế Gia chủ, đồng thời đã nhiều lần thanh minh trong tộc là mình sẽ không cưỡng chiếm địa vị Gia chủ.
Cho dù là như vậy, vẫn có rất nhiều tộc nhân cùng thế hệ không bị ông ta mua chuộc. Ví dụ như Bùi Già đương nhiệm Trung Thư Thị Lang chính là
người phản đối lớn nhất của ông ta. Hiện tại tình hình Bùi gia yên lặng
được chỉ là bởi vì Bùi Oánh đứng ở giữa điều đình nên tạm thời gác lại
cuộc tranh luận thôi. Một khi Bùi Minh Viễn về nước thì chuyện này chắc
chắn lại nổi cơn sóng gió.
Trong xe ngựa, Bùi Hữu khẽ thở dài một cái. Tính ra thì Bùi Minh Viễn đi sứ Đại Thực đã sắp nửa năm, cũng đến
lúc về nước rồi. Không biết sau khi hắn về nước mà nghe được tin cha bị
chết thì sẽ đối đãi với anh mình như thế nào đây.
Gia tộc nội
loạn khiến cho Bùi Hữu có cảm giác mệt mỏi quá nhiều. Hiện tại hy vọng
duy nhất có thể gửi gắm lại chính là người Bùi gia có địa vị lớn nhất -
Bùi Oánh. Chỉ mong nàng có thể chấn chỉnh lộn xộn của Bùi gia, làm cho
Bùi gia có thể kế thừa địa vị ở Đại Đường trong tương lai.
“ Lão
gia, đến rồi!” Tiếng bẩm báo của người đánh xe ngựa cắt đứt sự suy tư
của Bùi Hữu, ông ta vội vàng xốc màn xe. Ngoài cửa sổ xe, một tòa phủ đệ to lớn hiện ra trước mặt ông ta, đây chính là Phần Dương vương phủ của
vị nguyên lão Đại Đường hàng đầu - Quách Tử Nghi .
Xe ngựa chậm
rãi dừng lại, Bùi Hữu cúi đầu ra khỏi cửa xe, kéo vạt áo mà bước nhanh
lên bậc thang. Ông ta lấy ra một danh thiếp đưa cho người gác cổng mà
nói: “ Xin chuyển cho Thái úy, có Bùi Hữu tới chơi.”
Người gác
cổng không dám thất lễ, xoay người hô một tiếng rồi liền chạy nhanh vào
trong nội phủ bẩm báo. Chỉ chốc lát, một tràng tiếng bước chân gấp gáp
từ bên trong phủ vọng đến. Cửa hông két kẹt một tiếng mà mở ra, chỉ thấy con trai của Quách Tử Nghi là Quách Thự đi ra nghênh đón. Quách Tử Nghi có sáu con trai, con trưởng đã chết bệnh năm ngoái. Mấy đứa con còn lại đều làm quan ở các nơi. Chỉ có đứa thứ sáu Quách Thự bị giữ ở bên
người. Quách Thự năm nay gần ba mươi tuổi, không ra làm quan mà ở nhà
phụ trách xử lý việc điền sản và cửa hàng của Quách gia. Nhưng hắn đã có hàm quan Thượng Khinh Xa Đô Úy bậc tứ phẩm. Nói theo cách của đời sau
thì coi như hắn là người của Thái Tử đảng đã từ quan đi buôn.
Quách Thự thấy Bùi Hữu đang thăm hỏi ở bên ngoài liền bước lên phía trước
khom người thi lễ thật thấp: “ Cháu không biết chú đến thăm nên ra
nghênh đón chậm, vạn lần mong thứ tội!”
Bùi Hữu cười cười liền hỏi: “ Cha cháu có trong phủ?”
“ Cha cháu buổi sáng hay đi dạo, hãy còn chưa về. Không bằng chú vào nhà chờ chỉ chốc lát, cháu liền phái người đi tìm.”
“ Cái này ...” Bùi Hữu hơi hơi do dự. Ông ta đang suy nghĩ có nên về chỗ
làm việc hay không, rồi giữa trưa quay lại tìm Quách Tử Nghi. Dù sao
trước khi Trương Hoán rời kinh có chỉ rõ muốn ông ta chủ trì vận hành
triều chánh.
Đúng lúc này, đằng sau Bùi Hữu truyền đến một tràng
cười sảng khoái “ Bùi Tướng quốc hẳn là phải ở Đại Minh Cung chủ trì cục diện chính trị mới đúng, làm sao lại đến căn nhà nhỏ bé của lão phu?”
Bùi Hữu vội vàng quay đầu lại, quả nhiên là Quách Tử Nghi đứng ở phía sau
mình. Ông ta mặc một trường bào màu xanh cực kỳ bình thường, đầu đội mũ
sa, râu tóc đã bạc trắng. Mặc dù ông ta đã hơn tám mươi tuổi, nhưng ánh
mắt sắc bén, khí đan điền vẫn tràn trề. Sáng sớm mỗi ngày ông ta đều
phải ra khỏi phủ đi dạo một canh giờ, đến quán trà uống trà nói chuyện
phiếm, ăn điểm tâm rồi mới về phủ.
Bùi Hữu vội vàng chắp tay cười nói: “ Tại hạ được Giám Quốc phó thác việc định ra sách lược Khiết Đan, có một số việc không nắm chắc nên đặc biệt đến xin Thái úy chỉ bảo.”
“ Với tài năng của Bùi Tướng quốc thì còn có chuyện gì mà không nắm
chắc?” Quách Tử Nghi cười cười khoát tay chỉ vào trong phủ mà nói: “ Mời Bùi Tướng quốc!”
“ Mời Thái úy!”
Bùi Hữu đi theo Quách
Tử Nghi vào thư phòng ông ta rồi ngồi xuống. Một người thị thiếp đến
dâng trà thơm và điểm tâm cho bọn họ. Quách Tử Nghi nâng chung trà lên
hớp một ngụm trà, lúc này mới từ từ hỏi: “ Hà Bắc đại thắng thì ta cũng
đã nghe thấy, năm vạn chủ lực Khiết Đan bị quân Đường ta tiêu diệt toàn
bộ, ngay cả Khiết Đan vương cũng bị bắt sống. Hiện tại người Khiết Đan
đã là một con cừu non đợi bị làm thịt, không biết Giám Quốc chuẩn bị xử
trí người Khiết Đan như thế nào?”
“ Noi theo cách xử trí người Đột Quyết ngày trước, xé lẻ người Khiết Đan rồi cho sống chung cùng người Hán chúng ta.”
Quách Tử Nghi nhẹ nhàng vuốt vuốt chòm râu trầm tư chỉ chốc lát rồi nói: “
Như vậy rất tốt. Khi loạn An Lộc Sơn thì ta đánh nhau với người Khiết
Đan, bọn họ rất hay thay đổi. Hôm nay đầu hàng ngày mai lại phản loạn,
khó có thể quy phục. Quyết định diệt tộc bọn họ thì sẽ không lưu hậu
hoạ, nếu kế sách đã định thì không biết Bùi Tướng quốc tìm ta còn có
chuyện gì?”
Bùi Hữu hơi hạ thấp người cười nói: “ Di chuyển người Khiết Đan
bị đánh tan về phía nam là kết cục đã định. Nhưng đưa bọn họ chuyển về
chỗ nào thì tại hạ còn chưa có chủ ý, cho nên đặc biệt đến xin Thái úy
chỉ giáo, thu xếp cho bọn họ ở đâu là thỏa đáng nhất?”
Quách Tử
Nghi nhanh chóng liếc nhìn Bùi Hữu, chính mình cũng không còn khống chế
chư hầu các nơi của Đại Đường, chỉ là lão Tường quốc đã lui về nghỉ
nhiều năm. Chuyện như vậy vì sao phải tới hỏi mình đây? Hẳn là phải đi
hỏi Hộ Bộ để có tư liệu hộ tịch hoặc là hỏi Binh bộ cho bản đồ các nơi
của Đại Đường thì mới giải thích được nghi hoặc. Giờ lại tới hỏi mình
thì chẳng phải là hơi giống truyện tiếu lâm. Việc Bùi Hữu hỏi vấn đề
không đúng nơi đột nhiên khiến cho trong lòng Quách Tử Nghi nghi ngờ.
Ông ta lập tức ý thức được, Bùi Hữu tìm mình hẳn là có việc gì khác mới
đúng.
“ Lão phu một mực sống ở Trường An, sự hiểu biết về các nơi thuộc Đại Đường ta dừng ở tình cảnh hai mươi năm trước nên e là đối với nghi vấn của Bùi Tướng quốc thì lực bất tòng tâm .” Quách Tử Nghi ôn
hoà trả lời một câu, ông ta lại nâng chung trà lên chậm rãi nhấm nháp,
chờ đợi Bùi Hữu hỏi vấn đề kế tiếp.
Quả nhiên, Bùi Hữu đới với
chuyện Quách Tử Nghi lực bất tòng tâm cũng không thèm để ý. Ông ta cười
nhạt bảo: “ Nếu Thái úy không giúp được gì thì tại hạ cũng không ép buộc .”
Đề tài vừa chuyển, Bùi Hữu lại thành khẩn hỏi thêm: “ Thái
úy là nguyên lão tứ triều, trải qua mấy chục năm đầy bắt ngờ của Đại
Đường ta, ngoài ra đối với cái họa An Lộc Sơn thì hiểu biết rất sâu sắc. Đối với chuyện hưng suy của Đại Đường ta có thể nói là nhìn xa trông
rộng. Hiện tại Đại Đường lại lâm vào cảnh đúng trước ngã tư đường, không biết Thái úy cho là Đại Đường ta nên đi hướng nào?”
“ Đi hướng
nào ư?” Quách Tử Nghi đã hiểu rõ ý đồ thực sự của việc Bùi Hữu đến,
Tướng quốc muốn mời mình rời núi, để giúp đỡ Trương Hoán đăng cơ.
Quách Tử Nghi cùng Đoạn Tú Thực cùng là người ủng hộ hoàng quyền. Nhưng khác
với Đoạn Tú Thực ở chỗ là Quách Tử Nghi tuyệt không cần huyết thống đế
vương thuần khiết. Bởi ông xem ra quan trọng nhất là có thể có một vị
quân chủ mạnh mẽ hay không. Năm đó nổ ra vụ An Lộc Sơn làm phản, ông ta
vẫn luôn cho rằng đó là bởi vì thiếu một vị quân vương mạnh mẽ kiên
quyết nên mới gây ra. Lý Long Cơ nuôi hổ trường kỳ gây họa, trực tiếp để cho An Lộc Sơn phát triển an toàn. Cũng như vậy, mấy năm nay bất kể là
loạn Chu Thử ở Thục Trung hay loạn Thôi Khánh Công ở Trung Nguyên, hoặc
là quân phiệt tại các địa phương khác phản loạn đều bởi vì Đại Đường
không có một quân chủ kiên quyết mạnh mẽ. Mà thế gia triều chánh chia rẽ lại càng hình thành sự ngăn cản triều đình trung ương tích tụ sức lực.
Từ điểm này mà nói, Quách Tử Nghi cực kỳ hy vọng Đại Đường có thể xuất
hiện một vị quân chủ hùng mạnh. Ông ta vốn gửi gắm hy vọng nhiều nhất
vào Thái Tử Lý Dự. Lý Dự trong lúc trường kỳ bình định loạn An Lộc Sơn
cũng giành được sự ủng hộ nhất trí của các tướng lãnh quân đội. Quách Tử Nghi lão cũng là người ủng hộ tích cực. Chỉ tiếc Thái Tử Dự mất sớm làm cho Đại Đường rẽ vào nhánh khác. Hiện tại, con của Thái tử lại nổi lên, làm sao mà Quách Tử Nghi có thể không xúc động sâu sắc. Huống hồ còn có Mã, Bạch Quang Xa, Tân Vân Kinh, Lệ Phi Nguyên Lễ cả một bang các bộ hạ cũ toàn lực ủng hộ Trương Hoán. Bất kể là về công về tư thì ông ta đều
không thể nào không đếm xỉa đến.
Có điều Quách Tử Nghi là người
cực kỳ cẩn thận, trước khi mọi chuyện chưa hoàn toàn rõ ràng thì ông ta
tuyệt đối sẽ không dễ dàng tỏ thái độ. Cho nên đối với vấn đề mà Bùi Hữu nêu ra thì ông ta chậm chạp trầm tư không nói.
Bùi Hữu từ trong
đôi mắt Quách Tử Nghi đã thấy được hy vọng, liền lập tức đứng lên thi lễ thật thấp với Quách Tử Nghi: “ Điều hôm nay tại hạ nói thì thiết nghĩ
hẳn là Thái úy đã hiểu. Thái úy là đại thần lập triều của Đại Đường ta,
danh tiếng cao thượng. Chỉ hy vọng đến ngày nào đó Thái úy có thể đứng
ra góp thêm một phần lực lượng khiến cho Đại Đường chúng ta lại đi lên
con đường cường thịnh.”
Cho Đại Đường chúng ta lại đi lên con
đường cường thịnh. Quách Tử Nghi cúi đầu thầm nhắc mấy lần, trong ánh
mắt của ông ta đột nhiên toát ra ánh sáng khác thường, một ngọn lửa mới
sinh, loại đã lâu chưa gặp lại bùng lên trong lồng ngực ông ta. Ông ta
cũng không ngừng kìm chế nội tâm kích động mà trịnh trọng gật đầu “
Được! Ta đồng ý với ngài, đến ngày nào đó chắc chắn ta sẽ đứng ra làm!”
Quận Quảng Lăng còn gọi là Dương Châu, nằm cách Trường An hơn một ngàn bảy
trăm dặm. Từ sau khi Lưỡng Tấn tách khỏi Giang Nam nó lại được mở mang
thêm một bước. Cả vùng nội địa Giang Hoài với trung tâm Dương Châu liền
dần dần trở thành trung tâm kinh tế của cả nước. Tùy Dương Đế Dương
Quảng muốn sử dụng Giang Hoài để có thể vận chuyển hàng hóa lên bắc nên
bắt đầu đào kênh lớn Đại Vận Hà. Đến thời Đường thì tầm quan trọng của
thuỷ vận ngày càng lớn. Trải qua trăm năm Đại Đường chăm lo việc nước,
chánh trị ỏn định cùng với kinh tế phồn vinh lại có cơ hội kết hợp, cuối cùng đã trở thành thời kỳ Khai Nguyên thịnh vượng nhất của Đại Đường
phồn vinh.
Cũng từ năm Khai Nguyên thứ năm trở đi, Sở gia bắt đầu từ từ bước lên võ đài chánh trị. Sau loạn An Lộc Sơn, thế gia quật
khởi. Sở gia hùng cứ đông nam, lấy quận Quảng Lăng làm cội rễ, thế lực
thâm nhập đến tận hơn mười quận huyện Hoài Nam và Chiết Tây. Số quân
chính quy đến mấy vạn, chiến thuyền ngàn chiếc, cuối cùng trèo lên đứng
bậc thứ tư trong Thất Đại Thế Gia thiên hạ. Từ năm Khánh Trì thứ năm, Sở Hành Thủy bắt đầu vào triều nhậm chức Thái Phủ Tự Khanh. Thoáng cái đã
hơn hai mươi năm, sơn hà vẫn như trước, thế gia đã già cỗi, cùng với sự
cát cứ của quân phiệt địa phương càng lúc càng mạnh, cùng với Trương
Hoán nổi lên tại Lũng Hữu, thế gia triều chánh của Đại Đường rốt cục đi
tới bước đường cuối cùng, bất kể là Thôi gia, Bùi gia, Vi gia, Trương
gia, Dương gia hay là Vương gia, sáu đại thế gia lần lượt rời khỏi võ
đài vì nội chiến hay trong chiến loạn. Chỉ có Sở gia an phận ở một nơi
mà không có bị bất cứ tổn thương gì. Nó liền giống như một cảnh đẹp đẽ
nhất cuối cùng của mặt trời buối chiều trước lúc xuống núi, Sở gia nhất
định sẽ trở thành thế gia ra đi sau cùng.
Quảng Lăng cũng là
trung tâm thương nghiệp của Đại Đường, bên trong thành tập trung hàng
vạn cửa hàng, thương nhân tề tựu ở đây. Nơi này địa thế bằng phẳng, vận
tải đường thuỷ tiện lợi, phía tây có Trường Giang thuận lợi, thuyền lớn
ngàn thạch có thể đến tận Ba Thục, Tương Dương. Phía đông có biển cả
mênh mông, bắc tiếp Tân La, Nhật Bản, nam đến Mân Việt, thậm chí xa hơn
nữa thì Đại Thực, Ba Tư đều có thuyền biển có khả năng đi đến tận đây.
Mà Quảng Lăng lại là điểm bắt đầu của thuỷ vận, suốt hơn một trăm năm
vật tư Giang Hoài không ngừng ùn ùn được những đoàn thuyền lớn khổng lồ
vận chuyển tới tận Trung Nguyên , Quan Trung. Hơn nữa trong thời kỳ Túc
Tông bắt đầu ra quy định giữ độc quyền về diêm nghiệp. Thuế muối từ từ
trở thành nguồn thu tài chính chủ yếu của Đại Đường. Mà vùng phụ cận
Quảng Lăng thừa thãi muối biển, cái này càng khiến cho Quảng Lăng có vị
trí hết sức quan trọng ở Đại Đường. Trong một thời gian rất dài, Đại
Đường Diêm Thiết Giám ( tương đương với tổng cục thuế vụ ngày nay) được
thiết lập tại Quảng Lăng.
Tháng tư, đúng là lúc lá tươi hoa tàn,
hoa rụng lả tả vào tiết cuối xuân. Tại huyện thành Giang Đô ở trên một
bến thuyền tư, một chiếc thuyền nhỏ mui đen đang chậm rãi cặp bờ. Một
nam nhân hơn bốn mươi tuổi ngồi ở đầu thuyền, đầu hắn đội mũ sa, mặc bộ
áo bào xanh, ba chòm râu dài phất phơ tới ngực, trong mắt lộ ra vẻ khôn
khéo. Đứng ở phía sau hắn là hai nam nhân cường tráng, họ đều mặc áo đen ngắn, trên mặt không có thể hiện tình cảm chút nào. Hiển nhiên bọn họ
là tùy tùng của nam nhân trung niên.
Thuyền nhỏ cặp bờ. Người
chèo thuyền ân cần chạy lại bắc ván lên mạn thuyền “ Khách quan, đây
chính là bến đò Tống Cẩm Ký, đích đến của ngài.”
Người trung
niên mỉm cười, liếc mắt về phía sau cho tùy tùng. Một người tùy tùng đưa năm quan tiền “ Đây là tiền đò của ngươi, mặc cả đúng năm quan tiền.
Một văn không thiếu.”
“ Không thiếu! Không thiếu!” Người chèo
thuyền thu tiền về mà cảm ơn ngàn vạn lần. Hắn có ý vẫn còn chưa nói
hết: “ Nghe giọng của khách quan là từ Trường An tới. Nhưng ngàn vạn lần cần phải chú ý một điểm. Nghe nói gần đây Sở gia kiểm soát chặt chẽ
người từ Trường An đến đấy.”
“ Đa tạ!” Người trung niên chắp tay rồi xoay người lên bờ. Trên bờ sông là một con phố nhỏ phía nam của
huyện thành Giang Đô, cũng là nơi có cửa hàng dày đặc. Ở đây phần lớn
kinh doanh các loại gấm vóc, hàng hóa chủ yếu đều là được vận chuyển
thông qua đường thủy cho nên con sông nhỏ này trở thành lối vận chuyển
của mỗi nhà mỗi cửa hàng. Con phố nhỏ này là mặt sau của cửa hàng nên
người đi trên đường rất thưa thớt. Chỉ có một số người làm thuê đang vận chuyển hàng hóa. Tống Cẩm Ký là một quán bán tơ lụa thuộc về quy mô
hạng trung, chủ yếu kinh doanh gấm Tứ Xuyên. Mặc dù quy mô hạng trung
nhưng mỗi ngày cũng có doanh thu ngàn quan. Nếu như ở tại huyện thành
nhỏ thì nó cũng coi như là cửa hàng lớn số một số hai. Đáng tiếc nó nằm ở Dương Châu buôn bán phồn thịnh, những cửa hàng lớn mỗi ngàycó hàng vạn
quan thu chi thì chỗ nào cũng có. Sở Mặc Đường của Sở gia hàng ngày có
thu nhập tài chính cao gần sáu vạn quan liên quan tới lương thực, vải
súc, lá trà cùng lượng lớn hàng hóa. Còn có phường thêu của Lý Thừa
Hoành chuyên buôn bán tơ lụa xa hoa, đồ sứ cao cấp, thu chi tài chính
hàng ngày tới bốn vạn quan tiền; Ngô Việt Đường của anh em nhà Lý Thân
buôn bán với Đại Thực, hàng ngày tài chính ra vào tới ba vạn năm nghìn
quan. Lại còn những gian hàng Quan thương Đại điếm của quan phủ lũng
đoạn các ngành buôn bán chính ở Quảng Lăng. Đa phần trung tiểu thương
chỉ có thể kiếm sống nhờ những mối nhỏ.