Đền Tội

Chương 4: Chương 4




NGỒI THÊM CHÚT NỮA, BA NGƯỜI CHÚNG TÔI cùng xuống lầu. Nhắm bếp ‘trực chỉ’, Derek lui cui lục lọi tìm đồ ăn lót dạ. Dù mọi người mới được ngả lưng chừng vài tiếng, nhưng giờ đã gần trưa. Chắc giờ bụng Derek đang sôi ùng ục.

Derek mê mải tìm đồ ăn, còn Simon và tôi cùng thăm thú nơi ở tạm. Lúc trước tôi có đọc truyện kể về một bé gái sống trong tòa dinh thự rộng lớn ở Anh. Không ai tìm ra căn phòng bí mật của cô bởi bên ngoài cửa ra vào có tủ quần áo lớn che lấp. Hồi đó, tôi cứ nghĩ chuyện ấy thật ngớ ngẩn. Nhiều cô chú bạn của ba tôi cũng có nhà cực to, nhưng làm gì có chuyện một phòng trong đó bị mất tích được! Nhưng giờ đứng trong căn nhà này, tôi chỉ cần dùng một chút trí tưởng tượng cũng có thể hiểu câu chuyện của bé gái nọ.

Nhà này không chỉ rộng mênh mông. Kiểu thiết kế nhà cũng quái đản ghê gớm. Hình như mọi phòng đều được viên kiến trúc sư tùy hứng đặt để lên bàn vẽ. Ông ta không hề nghĩ đến sự liên kết hài hòa giữa chúng. Phần trước nhà cực kỳ đơn giản. Phòng lớn, cũng là phòng chính, có cầu thang và nhiều cửa thông sang phòng bếp, phòng khách, và phòng ăn. Nhưng rồi cũng từ đó, thiết kế nhà trở nên rối rắm, khó hiểu bởi phòng chính còn thông sang hai phòng lớn phía sau nó. Hai phòng này lại thông với nhiều phòng khác, và lần lượt những phòng ấy lại thông với nhiều phòng khác nữa.

Hầu hết các phòng đều nhỏ xíu, thậm chí có diện tích phòng không quá ba mét vuông. Nơi này khiến tôi nhớ đến hang thỏ bởi một phòng có thể tỏa ra tứ phía. Hai chúng tôi còn thấy một loạt cầu thang đứng riêng biệt sau nhà. Nhiều cầu thang trông như đã nhiều năm rồi không được lau chùi, dọn dẹp.

Lúc Simon vào xem chú Andrew đã dậy chưa, tôi thẩn thơ ra bếp và thấy Derek đang dán mắt vào mấy hộp đậu trắng hầm đã rỉ sét.

“Anh đói thế cơ à?”

“Đói gần chết rồi đây.”

Anh sục sạo khắp nhà bếp, mở tung mọi ngăn tủ nghiêng ngó.

“Anh không muốn em hỏi chú Andrew về hồn ma hồi sáng. Nhưng anh vẫn tin chú ấy chứ?

“Đương nhiên.”

Lôi ra hộp bánh quy, Derek lật ngược nhìn đáy hộp tìm dòng chữ “Chất lượng tốt nhất cho đến ngày…”

“Nhưng lúc mới nghe anh nói, em chẳng thấy an tâm gì cả. Nếu phải ở với một người mà ta không tin tưởng…”

“Lúc này, hai người mà anh tin là em và Simon. Nhưng anh nghĩ chú Andrew không có âm mưu gì. Nếu anh nghĩ khác, giờ này chúng ta đã chẳng ở đây. Nhưng anh không thể mạo hiểm đem chuyện vừa rồi hỏi chú ấy, nhất là khi bọn mình có thể tự điều tra được.”

Tôi gật đầu. “Thế thì tốt. Chỉ là... em biết anh không muốn Simon sợ mất mật, nhưng... nếu anh lo…”

Má tôi nóng bừng. “Em không có ý nói anh cần tìm em tâm sự, chỉ có điều anh đừng…”

“Nếu em có hiểu lầm gì thì cũng đừng nổi sùng lên.” Anh quay lại, bắt gặp ánh mắt tôi. “Không có chuyện đó đâu.”

“Derek đã đói đến độ tu nước sốt cà chưa vậy?” Simon mở toang cửa bếp. “Chờ thêm mười phút nữa đi, anh trai. Chú Andrew sắp về và...”

“Và chú ấy sẽ xin lỗi vì trong nhà đã hết đồ ăn.” Chú Andrew bước vào. Tóc bạc và trạc tuổi cha tôi, chú có mái tóc ngắn, cái mũi khoằm, thân hình tráng kiện, đôi vai ngang và rộng.

Chú vịn một vai Derek. “Sắp có thứ bỏ bụng rồi. Một người trong nhóm chú sẽ mang đồ ăn sáng đến ngay thôi.”

Chưa vội buông vai Derek, chú khẽ siết nhẹ vai anh. Cử chỉ ấy có hơi lạ mắt, có lẽ bởi dù thấp hơn Derek một cái đầu nhưng trông chú cao hơn tầm vóc thực. Đêm qua, khi mới thấy Derek sau vài năm không giáp mặt, chú có vẻ ngạc nhiên và e dè. Derek nhận ra ngay và tôi linh cảm anh ‘đọc được’ cảm giác của chú. Derek hẳn phải đau lòng lắm khi một người rất quen thân tự nhiên phản ứng với anh như thể anh là thằng du côn mới lớn cần tránh giáp mặt bằng cách băng qua đường thật nhanh.

Cũng như Simon, chú Andrew là một pháp sư. Là bạn lâu năm của cha Simon, chú ấy từng làm việc cho Hội Edison. Còn nữa, mỗi khi nhà có chuyện, anh em nhà Derek lại gọi tới chú. Mấy năm trước, không hiểu có chuyện gì mà cha Simon và chú ấy không còn thân như trước, tuy nhiên hai người vẫn liên lạc với nhau. Vì thế, khi gặp khó khăn, chúng tôi bèn tìm đến chú.

Bóp nhẹ vai Derek lần cuối, chú Andrew chạy tới chạy lui trong bếp, hết lấy đĩa ăn ra rửa lại phủi bụi trên quầy bếp và bàn ăn. Vừa luôn tay luôn chân, chú vừa hỏi thăm tụi tôi ngủ có ngon không và lại xin lỗi về chuyện đã không chuẩn bị kỹ từ trước.

“Nêu không biết có người đến thì làm sao chuẩn bị trước được ạ,” Simon đỡ lời. “Chúng cháu ở đây có gì bất tiện không chú? Chú có ở lại với chúng cháu không? Còn công việc của chú...”

“Hai năm nay chú toàn làm việc ở nhà. Ơn trời, cuối cùng chú cũng lên hàng chuyên viên cao cấp và được phép làm việc từ xa, liên lạc bằng máy tính. Nhớ hồi trước ngày nào cũng phải đến New York đi làm thật mệt chết được. Giờ chú chỉ đến đó họp một tuần một lần thôi.”

Simon quay sang tôi. “Chú Andrew là biên tập viên. Mảng sách.”

Cậu liếc sang chú Andrew. “Chloe cũng viết kịch bản phim đấy chú ạ.”

Tôi ngượng chín, vội ấp úng giải thích rằng đương nhiên tôi không phải tác giả kịch bản phim ‘chính hiệu’. Đó là chỉ ước mơ, là hoài bão của tôi. Nhưng chú Andrew bảo chú rất muốn biết việc tôi đang làm và sẵn lòng trả lời mọi thắc mắc cho tôi. Thậm chí nghe giọng chú có vẻ rất thật lòng, không giống như các bậc cha chú khác chỉ nói lời để lấy lòng con trẻ.

“Hiện Chloe và cháu đang cùng cộng tác vẽ truyện tranh,” Simon nói thêm. “Một nhật ký bằng tranh kể lại những cuộc phiêu lưu của bọn cháu. Cốt chỉ để giải trí thôi.”

“Nghe hay đấy. Nếu vậy cháu theo ngành nghệ thuật rồi phải không? Cha cháu từng kể cháu là…”

Chuông cửa chợt reo vang.

“Hẳn là bữa sáng đến rồi,” chú Andrew bảo tôi. “Chloe này, chú biết chắc Tori mệt lắm, nhưng đáng lẽ con bé nên xuống đây cùng họp mặt với cả nhà mới phải.”

“Để cháu lên gọi bạn ấy.”

Vậy là lực lượng kháng chiến bí mật giờ ở đây. Lực lượng không thể gọi là hùng hậu: vỏn vẹn có ba người, và thêm chú Andrew nữa.

Người thứ nhất là bà Margaret. Trông bà giống mọi đồng nghiệp nữ từng làm việc với cha tôi: mẫu người của công việc - vóc người cao lớn và tóc nâu điểm sương cắt ngắn. Bà là một người gọi hồn.

Chị Gwen cao hơn tôi một chút, trông như sinh viên mới ra trường. Thấy chị có năng lực siêu nhiên, tóc vàng nhạt cắt ngắn, mũi hếch và cằm nhọn, tôi phân vân tự hỏi liệu chị có phải yêu tinh chăng. Nhưng chị tự giới thiệu chị là phù thủy, giống Tori.

Người thứ ba vừa đến là Ông Russell. Đầu hói, ông có dáng dấp hiền hậu như ông ngoại tôi. Là thầy lang kiêm thầy cúng, ông sẽ có mặt nếu chúng tôi cần chăm sóc, chữa bệnh sau những cuộc hành trình đầy gian truân, thử thách. Như chú Andrew và bà Margaret, ông Russell là một thành viên trong nhóm sáng lập Hội Edison và một thời từng cống hiến cho hội này.

Chú Andrew bảo trong khu vực thành phố New York còn sáu người nữa. Tính trên phạm vi toàn quốc họ có khoảng hơn hai mươi thành viên. Tuy nhiên trong hoàn cảnh này, việc họ đổ xô đến đây gặp chúng tôi là không an toàn. Vậy nên nhóm chỉ cử đến những ai có thể trợ giúp tối đa cho tụi tôi: một bà đồng và một phù thủy. Derek kém may mắn nhất. Trong nhóm họ không có người sói. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên bởi cả nước Mỹ chỉ có khoảng hơn hai mươi người sói, còn số lượng thầy đồng và phù thủy dùng bùa chú lên đến vài trăm.

Người có năng lực siêu nhiên tham gia vào Hội Edison không phải người xấu. Hầu hết họ đều như dì Lauren của tôi. Là một tiến sĩ y khoa, dì chỉ muốn giúp người anh trai vốn biết gọi hồn. Hồi còn học đại học, cậu tôi từng định tự sát và nhiều lần nhảy từ nóc nhà xuống do bị ma dẫn dụ.

Hội Edison cho rằng giải pháp cho chuyện đó là biến đổi gien: đảo chiều xoắn của chuỗi ADN nhằm giảm thiểu tác dụng phụ và cải thiện khả năng tự kiểm soát của đối tượng nghiên cứu có khả năng siêu nhiên. Nhưng ngay khi nhóm đối tượng thí nghiệm còn bé tí, chuyện không may đã xảy ra: ba người sói đã quay lại tấn công một y tá. Họ đều bị xử lý. Họ chết bởi chính tay những kẻ từng thề sẽ giúp cộng đồng người có năng lực siêu nhiên. Đó cũng chính là lúc cha Simon và nhiều người khác – như chú Andrew chẳng hạn - dứt áo ra đi.

Nhưng nhiều người trong số họ cho rằng rời bỏ hội thôi chưa đủ. Không an tâm bởi những gì từng mắt thấy tai nghe, họ theo dõi sát sao Hội Edison, nhằm đảm bảo rằng hội này không là mối đe dọa cho toàn bộ cộng đồng người có siêu năng lực. Giờ tin tức do tụi tôi mang đến cũng là thứ bấy lâu nay họ sợ hãi nhất. Với những người bị xem là vật thí nghiệm như tụi tôi, việc cải tiến gien cho tác dụng ngược với mong muốn. Khả năng siêu nhiên của các kết quả thí nghiệm (là tụi tôi) giờ không thể kiểm soát nổi: phép phù thủy hiển linh ngay cả khi không đọc bùa chú và xác chết bị dựng dậy ngoài mong muốn của thầy đồng.

Khi những thất bại không dễ kiểm soát như Edison hằng hy vọng, họ làm cái việc họ từng làm với ba người sói nọ. Thủ tiêu gọn ghẽ.

Giờ chúng tôi chỉ biết trông cậy vào sự giúp đỡ của các thành viên trong nhóm chú Andrew. Trong khi tính mạng của chính bản thân tôi như trứng treo đầu đẳng, bọn tôi còn bỏ lại đằng sau Rachelle, một đối tượng thí nghiệm khác và dì Lauren hiện còn nguy khốn hơn cả chúng tôi nữa. Bốn đứa tôi đã nhờ đồng đội của chú Andrew giải thoát cho hai người nói trên và triệt tiêu mối nguy cho tụi tôi. Liệu họ có làm không? Điều này chúng tôi không thể nào biết được.

Chị Gwen mang bữa điểm tâm đến: bánh donut, cà phê, và sữa sô-cô-la. Chắc chị tưởng đó là bữa thịnh soạn cho mấy thanh thiếu niên. Có thể lắm... nếu suốt ba ngày qua, chúng tôi không phải sống nhờ đồ ăn nghèo dinh dưỡng và toàn năng lượng rỗng, và nếu một trong nhóm bốn đứa không mắc bệnh tiểu đường.

Cầm bánh donut và hộp giấy chứa ¼ lít sữa sô-cô-la, Simon nói đùa cậu ấy có lý do chính đáng để ăn những món không nằm trong thực đơn ăn kiêng hàng ngày. Nghe Derek phàn nàn, chú Andrew xin lỗi vì đã quên khuyến cáo những người khác rằng Simon có bệnh, đồng thời hứa bữa sau sẽ mang đồ ăn giàu dinh dưỡng hơn.

Ai nấy đều tỏ ra cực kỳ thông cảm và tốt bụng. Có lẽ tôi đã quá hoang tưởng - tại Derek nên tôi mới thế - nhưng sau những nụ cười và ánh mắt đôn hậu kia hình như vẫn có chút gì đó không thoải mái. Như thể họ không thể ngừng nghĩ đến khả năng ‘gây rối’ của tụi tôi. Như thể họ không thể không coi tụi tôi là những trái bom nổ chậm.

Tôi không phải người duy nhất thấy không thoải mái. Lúc cả nhà lục tục kéo vào phòng khách, Derek lẻn vào góc nhà và trốn ở đó. Simon thảng hoặc mới nói một câu. Tori bình thường chẳng thèm quan tâm đến ba anh em, giờ cứ bám riết lấy tôi đến độ lắm lúc tôi tưởng cô ta đang tính giật phắt chiếc bánh rán trên tay tôi và chạy biến đi.

Bốn tôi và họ chờn chợn nhau. Bọn quái dị bị biến đối gien đối mặt với những người bẩm sinh đã có khả năng siêu nhiên.

Hầu như suốt buổi chỉ có Simon và tôi nói chuyện với người lớn. Với tôi, điều đó thật không bình thường chút nào bởi trước nay tôi toàn ngồi sau lưng người khác, bụng thầm mong không bị gọi lên nói năng vì cứ hễ mở miệng là tôi nói lắp. Nhưng những gì tôi tận mắt nhìn thấy (một là tôi từng gặp nhiều bạn giống như tôi giờ đã thành ma; hai là những tập tin trong máy tính của tiến sĩ Davidoff) và gánh nặng trách nhiệm phải tìm cho ra bằng chứng khiến tôi không thể không nói.

Trong lúc cùng Simon giải thích, đúng là tôi có nhận thấy trong mắt họ có sự thông cảm, nhưng cũng có cả sự hoài nghi. Họ tin chuyện với nhiều đối tượng, thử nghiệm của Hội Edison cho kết quả sai bét. Đó cũng là điều họ lo ngại khi bỏ việc.

Họ cũng tin chuyện chúng tôi kể về Nhà Lyle, còn gọi là ‘Ngôi Nhà Chung’, nơi Hội Edison giam giữ chúng tôi. Khi thử nghiệm hỏng, Hội Edison muốn xóa dấu vết cũng là chuyện thường tình.

Nhưng phần còn lại thì sao? Săn lùng khi chúng tôi chạy trốn? Bắn hạ chúng tôi, trước tiên bằng súng bắn thuốc mê, sau đó bằng đạn thật? Giam chúng tôi trong phòng thí nghiệm? Khi ba thiếu niên không thể cải hóa, không thể trở về sống như bình thường thì trừ khử?

Nghe như một tác phẩm điện ảnh hư cấu vậy. Không, còn hơn thế. Dù có là đạo diễn hay nhà viết kịch bản phim bom tấn đầy hào hứng, tôi cũng sẽ sổ toẹt một câu chuyện kỳ quặc và quá phóng đại tô màu như thế.

Nhưng tôi biết chú Andrew tin anh em tôi. Nhìn nét mặt kinh hoàng của chị Gwen, tôi biết chị cũng tin nữa. Nhưng chị Gwen trẻ nhất nên ý kiến của chị không mấy quan trọng với những người còn lại. Ông Russell và bà Margaret không giấu nổi vẻ nghi hoặc. Quả là thuyết phục họ giúp không dễ như chúng tôi tưởng.

Cuối cùng, tôi buột miệng, “Rachelle và dì cháu đang gặp nguy. Nếu hiện giờ họ may mắn còn toàn mạng, thì họ vẫn có thể bị giết bất cứ lúc nào.”

“Dì cháu là thành viên sáng giá của đội.” Khuôn mặt khắc khổ của bà Margaret không hề biểu lộ chút cảm xúc nào.

“Họ sẽ không giết Lauren đâu. Ngay cả bạn cháu cũng chưa chết ngay được. Con bé biết tuân thủ và tính tình vui vẻ. Lúc này, nếu đối tượng thí nghiệm được như vậy là họ mừng rồi.”

“Nhưng nếu biết sự thật, Rae đâu còn ngoan ngoãn nghe lời họ nữa...”

Ông Russell ngắt lời. “Dì và bạn cháu đã có quyết định riêng. Dù khó nghe nhưng đó là sự thật. Cả hai đều phản bội cháu rồi đấy. Tôi không ngờ cháu sốt sắng giải cứu họ như vậy.”

“Dì cháu...”

“... từng giúp cháu đào thoát. Tôi có biết chuyện đó. Nhưng ngay từ đầu, nếu bạn cháu không phản bội thì cháu đâu có bị bắt giam.”

Rae đã mách tiến sĩ Davidoff về kế hoạch chạy trốn của nhóm, vì thế họ sẵn sàng đón lõng khi chúng tôi bắt đầu thực hiện kế hoạch. Bạn ấy tin lời bọn chúng nói dối rằng họ muốn giúp chúng tôi, đồng thời tưởng tôi bị anh em Derek tẩy não.

“Rachelle có lỗi. Nhưng chẳng lẽ ông bảo cháu vì thế nên cậu ấy phải chết ư?” Sau khi bất giác lớn tiếng, tôi nuốt khan cố bình tĩnh và nói năng thấu tình đạt lý.

“Dù có làm gì chăng nữa thì vào thời điểm đó, Rachelle cũng cho là mình đúng. Cháu sẽ không bỏ mặc bạn bè trong lúc này.”

Tôi liếc nhìn những người khác. Simon sốt sắng đồng tình ngay. Derek làu bàu, “Phải, Rachelle có làm hỏng chuyện thật. Nhưng ngu ngốc đâu cần chịu án tử.”

Ba chúng tôi quay sang nhìn Tori. Nhận thấy sức nặng từ ánh nhìn của người lớn dồn cả vào tôi, tôi nín thở và biết rằng: trong vấn đề này chúng tôi cần phải đồng lòng mới được.

“Bởi chúng cháu đã định quay lại cứu dì của Chloe, nên ta cũng nên cứu Rachelle. Và cả hai cần được cứu thoát càng sớm càng tốt. Có thể nhân viên của Hội Edison không phải một nhóm cuồng sát giết người không nương tay, nhưng mẹ cháu thì khác. Khi chúng cháu trốn thoát, bà ấy sẽ không dễ chịu gì với tiến sĩ Fellows đâu.”

“Tôi thì không cho...” Ông Russell định mở lời.

“Thôi đừng bàn đến chuyện chán ngắt này nữa.” Chú Andrew cắt ngang. “Các cháu lên lầu xem các phòng còn lại trong nhà nhé. Chú tin chắc ai cũng sẽ tìm được phòng như ý.”

“Chúng cháu ở vậy cũng được rồi mà.” Simon đáp.

Chú Andrew nhìn những người còn lại. Rõ là họ muốn bốn đứa chúng tôi ra khỏi phòng để họ bàn xem liệu có nên giúp chúng tôi hay không.

Tôi những muốn hét toáng lên, “Có gì cần phải bàn đâu? Đồng sự cũ của các cô chú đang định giết trẻ con kia kìa. Chẳng phải sứ mệnh của mọi người là không để bọn họ hại ai ư? Đừng có ngồi đó ngốn bánh rán nữa! Động tay động chân đi chứ!”

“Sao các cháu không…” Chú Andrew lại giục.

“Chúng cháu không sao đâu.” Một tiếng gầm vang lên. Đó là giọng Derek mỗi khi anh chỉ muốn tỏ ra nghiêm túc, nhưng căn phòng bỗng lặng phắc như tờ. Mọi người trong phòng đều lo ngại, mọi con mắt đều đổ dồn về phía anh.

Derek nhìn lảng đi, lúng búng, “Chú muốn bọn cháu ra ngoài phải không?”

“Ừ.” Chú Andrew đáp. “Thế sẽ dễ hơn cho…”

“Sao cũng được ạ.”

Derek dẫn bọn tôi ra ngoài.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.