Duy Chỉ Sinh Tử Khổ
Ân Lê Đình đến Tuyền Châu đã hơn nửa tháng, dần dần bắt đầu nhận ra, vì
sao khi đó trên núi Võ Đang, Lộ Dao vừa nghe tin là ác hạch, trời còn
chưa sáng đã như lửa sém lông mày cấp tốc tới Tuyền Châu.
Chàng
và Du Liên Châu là hai trong Võ Đang thất hiệp, hai chữ giang hồ hai
người họ hiểu rõ hơn ai hết. Trong giang hồ, cái gọi là lưỡi dao dính
máu mạng treo lơ lửng, mạng người yếu ớt thế nào hai người đều đã lĩnh
hội. Có thể nói Ân Lê Đình là người dễ mềm lòng nhất trong bảy sư huynh
đệ Võ Đang thất hiệp. Cho dù là thế, từ năm mười lăm tuổi bắt đầu hành
tẩu giang hồ tới nay, đối với hai chữ tử vong, dần dần đã có thể bình
tĩnh đối mặt.
Song đứng trong sân của phủ châu, bị một gã sai vặt không biết thân phận chàng kéo đi làm trợ thủ, lần đầu tiên Ân Lê Đình
chấn động trước tình cảnh đó.
Tuyền Châu, thương nhân lui tới
buôn bán nhộn nhịp, có thể nói là đất giàu có, phủ châu đương nhiên cũng là nơi phồn hoa, đình đài lầu các rường cột chạm trổ, hoa cỏ cây cối
sum suê rậm rạp, đủ thức thú vị. Nhưng phủ châu bây giờ, tuyệt đối không phải là nơi phồn hoa đẹp đẽ. Hoa viên bát ngát bị chia thành vô số gian riêng biệt bằng cọc gỗ và vải bố, mỗi gian trừ một cái giường xếp ra,
ép lắm cũng chỉ đứng được ba người. Cả sân nồng nặc mùi rượu thuốc,
tiếng rên la đau đớn cùng tiếng gào khóc lẫn lộn, không ít tạp dịch mặc
áo choàng trắng ra ra vào vào bận túi bụi, dùng ván cửa khiêng người ra
vô. Sinh mạng ở nơi này gần như nước chảy, chỉ vài khắc là mất. Không ai có thời gian đi khóc thương bất cứ ai, bất cứ việc gì, bởi vì chỉ nháy
mắt bệnh nhân mới sẽ được đưa vào.
Ân Lê Đình mặc áo choàng
trắng, nhìn thiếu niên nằm trên giường trước mặt, chừng mười lăm mười
sáu tuổi, vốn đang tuổi thanh xuân, lúc này hai má lõm sâu, mắt đen
thũng, thân hình như ma quỷ, cả người rúm lại một cách kỳ cục không
ngừng co giật, đôi môi khô nẻ mấp máy liên tục, phía dưới cổ hạch đen
nổi từng mảng từng mảng. Thiếu niên nằm ở đó hô hấp khó khăn, ánh mắt vô hồn, trống rỗng nhìn Ân Lê Đình trừng trừng. Lúc này một người có vẻ là đại phu chạy tới, thấy bộ dạng thiếu niên, vội vàng dùng ngân châm đâm
vào hai huyệt Nhân Nghênh, Thiên Dung nơi cổ thiếu niên, cổ thiếu niên
đó thả lỏng, một hồi sau mới thở hốc ra, ánh mắt trống rỗng thoáng xẹt
qua một tia sáng. Kế đó đại phu kia lại châm liên tiếp mấy huyệt vị,
thiếu niên đó chậm rãi nhắm mắt thiếp đi.
Bấy giờ đại phu mới cởi áo thiếu niên ra, Ân Lê Đình chỉ thấy từ nách đến thắt lưng thiếu niên
nổi từng cục tím đen. Đại phu nọ hét lên “Tiền đại phu, nhanh đến đây.”
Chớp mắt một đại phu khác gấp gáp chạy tới, nhìn một lượt, bắt mạch sơ sơ
lắc đầu nói nhỏ “Nhiều lắm là trước buổi tối ngày mai, tăng thêm năm
phân long não, người nhà cậu ta đâu? Còn sống thì kêu tới đi.”
Ân Lê Đình nghe vị đại phu lúc đầu đáp “Tôi nhớ cha mẹ và đệ đệ đứa nhỏ này đã chết cả rồi, trong nhà không còn ai nữa.”
Tiền đại phu đã quen với việc thế này, gật gật đầu “Thế à, ôi, thôi vậy. Bên chỗ tôi còn một bệnh, đi trước đã.” Nói rồi vội vàng chạy đi.
Từ đầu chí cuối, ngắn gọn đơn giản vài câu liền mang đi sinh tử của một
người. Ân Lê Đình nhìn thiếu niên nằm trên chiếc giường sơ sài, tay chân khô đét nhưng trên người đầy u hạch ứ máu tím đen, tuy ngủ rồi nhưng
chân mày vẫn chau chặt, hốc mắt trũng sâu, dường như vẫn rất khổ sở.
Lúc này một loạt tiếng chân vang lên ồn ào, hai sai vặt khiêng một tấm ván, trên ván có một nam tử trung niên không ngớt rên la, mặt đỏ bừng hiển
nhiên là đang sốt cao. Ân Lê Đình vội vàng nhường lối, nghe sai vặt kia
hô “Trương đại phu, người này sốt cao không hạ.” Nói rồi luống cuống đưa người vào một gian trống. Đại phu bên cạnh thiếu niên rút châm về, vội
vàng đi qua, tới tới lui lui, quá thời gian nửa ly trà không ngừng nghỉ.
Ân Lê Đình đứng trong sân có một khắc, người bị khiêng ra bằng ván tới sáu bảy người, từ đầu đến chân phủ vải trắng. Khiêng vào chừng mười mấy
người, có người hôn mê vẫn còn rên rỉ, có người co giật rúm ró đau đớn
la hét, hình như đại phu và tạp dịch đã quen với âm thanh như thế, nhìn
quen tình cảnh thế này, chân mày không hề nhíu lấy một chút, tới lui tất bật như con quay, chạy qua chạy lại giữa các gian. Lộ Dao từng nói qua, người còn sống không tới một phần mười, nhìn tình cảnh trước mắt, nhớ
tới chút tia sáng le lói trong mắt thiếu niên kia, lần đầu tiên chàng
cảm thấy sống chết là chuyện khó đối mặt thế này, lớn đến mức khiến
chàng cảm thấy vô lực, thậm chí có phần tuyệt vọng. Nó làm chàng nhớ lại buổi tối tam ca Du Đại Nham bị thương, chàng và sư phụ Trương Tam Phong canh giữ bên giường Du Đại Nham, lúc đó chàng hỏi sư phụ có thể cứu
được tam ca chăng, sư phụ lại than “Trên đời mấy ai không chết?”. Khoảnh khắc ấy tuyệt vọng vô hạn và bất lực ập xuống đầu, tới bây giờ đôi khi
cảm giác đó vẫn ập đến trong mơ khiến chàng giật mình tỉnh giấc. Hiện
tại, đặt mình vào cái nơi bị cách ly như mê cung này, bên tai không ngớt vang lên tiếng rên la, tinh thần Ân Lê Đình thoáng hoảng hốt. Trong
thoáng chốc, bỗng dưng chàng thấy khâm phục Lộ Dao, có thể ở một nơi như thế này hơn tháng trời, mỗi ngày còn bình thản hành y chẩn bệnh, ăn
cơm, ngủ nghỉ.
Bỗng nhiên có người kéo vạt áo choàng của chàng
dẫn ra ngoài. Chàng vô thức đi theo, đợi hoàn hồn lại phát hiện mình đã
bị dẫn ra khỏi phủ châu, bản thân đã đứng trên mé tây tường thành, mà
người dẫn mình đi là Du Liên Châu.
“Lục đệ, lần sau đừng đến phủ châu nữa, đệ không phải đại phu, Lộ cô nương sẽ lo lắng.”
Ân Lê Đình nhìn sư huynh “Nhị ca…”
“Nhị ca hiểu đệ muốn nói gì.”
Du Liên Châu vỗ vai Ân Lê Đình “Sư phụ từng nói, vạn vật trên thế gian nảy sinh âm dương, toàn bộ đều có đạo lý riêng. Y giả chữa bệnh cứu người
là đạo lý, nhưng bệnh nặng chết đi cũng là đạo lý, cái gọi là thiên địa
bất nhân dĩ vạn vật vi sô cẩu [35]chính là như thế.”
Ân Lê Đình
nghiêng đầu suy nghĩ, thong thả nói “Nhớ mấy ngày trước, hôm chúng ta
vừa đến, Lộ Dao một đêm không về, vì một đứa bé ba tuổi nhiễm ác hạch
xuất huyết. Nàng và ba đại phu khác cứu chữa ba canh giờ, Tô Tiếu nói
toàn dùng thuốc nặng nhưng đứa bé đó vẫn không kéo được đến ngày thứ
hai. Tuy Lộ Dao không nói nhưng đệ nhìn ra được nàng rất chán nản. Sư
huynh, đệ đang nghĩ vì sao cùng là đạo lý, lại khiến đại phu và người
bệnh đều chịu khổ sở như thế?”
Du Liên Châu lắc đầu “Sự việc trên thế gian nào có thể giải thích rõ ràng như vậy, việc này, có lẽ đệ nên
hỏi Lộ cô nương thì đúng hơn.”
Ân Lê Đình nhớ tới buổi tối cứu
Hàn Hề khi ấy, Lộ Dao từng nói những gì y giả làm không đơn giản chỉ là
cứu chữa người bị thương như mọi người nghĩ, lúc ấy chàng không hiểu
nhưng bây giờ lại loáng thoáng cảm thấy có chút đạo lý. Đối mặt với số
lượng và tốc độ tử vong thê thảm như thế, nếu chỉ mang ý niệm cứu chữa
người bị thương đơn thuần, e rằng không bao lâu bản thân đã không chịu
đựng nổi.
Hai sư huynh đệ ngồi trên tường thành một hồi, Du Liên
Châu đi trước, để lại một mình Ân Lê Đình hãy còn trầm tư. Một lúc lâu
sau, Ân Lê Đình nghe tiếng bước chân vang lên sau lưng, một người ngồi
xuống bên cạnh chàng, đưa cho chàng một quả sơn trà.
“Nè, lau tay rồi hãy ăn. Thu Nhiên sai người đưa tới đó, ta lấy hai quả trước, bằng
không lát nữa đến chỗ bọn Tô Tiếu, đến vỏ cũng không còn.”
Ân Lê
Đình nghe xong, cho dù tâm sự trùng trùng cũng không khỏi nhếch môi,
lòng cảm thấy ngọt ngào. Cẩn thận nhận lấy khăn tẩm thuốc lau tay, tỉ mỉ lột vỏ sơn trà.
Lộ Dao nhìn bầu trời xa xa, sắc trời xanh lam
ngay chính diện từ từ chuyển màu tím nhạt, sau đó là vàng ruộm, cho đến
chân trời phía tây xuất hiện những cụm mây chiều màu đỏ, hít sâu một
hơi, nhắm mắt, mỉm cười.
Chạng vạng ban nãy, người trong Thiện
Hòa đường rốt cuộc cũng giảm bớt, khó có dịp Lộ Dao được thảnh thơi mấy
khắc. Nàng chạy lên tường thành hít thở không khí, vô tình lại đụng phải Ân Lê Đình đang nhíu mày trầm tư, vì thế bèn ngồi xuống. Nhất thời, hai người sóng vai nhau ngồi đó, gió chiều trên đầu thành thổi tới mang
theo mùi hoa đồ mi [36], thơm thoang thoảng.
Ân Lê Đình thấy khóe môi Lộ Dao lộ ra nụ cười nhè nhẹ cùng má lúm đồng tiền, nhớ lại tình
hình chàng gặp trong phủ tri châu lúc nãy càng thêm khó hiểu. Trước giờ, chàng cho rằng Lộ Dao là đại phu, hết sức coi trọng sinh mạng. Chàng
không hiểu vì sao nàng ra vào phủ tri châu mỗi ngày mà vẫn bình tĩnh
được như thế. Nhớ tới lời Du Liên Châu, không khỏi muốn mở miệng hỏi
nàng. Nhưng nhìn khuôn mặt nàng dưới chiều tà, đón mây hồng ráng chiều,
gió nhẹ phất qua làn tóc, mấy ngày nay hiếm hoi lắm mới có được giây
phút thư giãn thế này, Ân Lê Đình thật tình không nhẫn tâm phá hỏng. Ai
ngờ dường như Lộ Dao phát hiện ra điều gì “Ân lục ca? Huynh làm sao
thế?” Nói rồi quay sang, nghiêng đầu nhìn chàng lạ lùng.
Ân Lê
Đình nhìn đôi mắt trong veo sáng ngời của Lộ Dao, lập tức bản thân gần
như vô thức, bộc bạch hết ý nghĩ ban nãy. Đến khi nói xong lại thấy hơi
hối hận, chẳng mấy khi Lộ Dao được thảnh thơi buông lỏng một chút, mình
lại đi hỏi nàng vấn đề khó lý giải như thế.
Quả nhiên Lộ Dao nghe xong cúi đầu, nửa ngày không nói.
Ân Lê Đình hối hận, có phần luống cuống, vội nói “Lộ Dao, ta nói bừa thôi, muội đừng phiền não, ta…”
Ai ngờ chưa nói xong lại thấy Lộ Dao ngước lên, ánh mắt thoáng ý cười “Ân
lục ca, trước đây rất lâu, cùng câu hỏi như thế ta cũng từng hỏi qua một người.”
Lúc này Ân Lê Đình lại ngẩn ra, nghe Lộ Dao nói tiếp
“Đại phu á, hành nghề trị bệnh cứu người, mỗi ngày luôn tiếp xúc với
sống chết. Cái gọi là y đức, quan trọng nhất là trân trọng sinh mạng,
sau đó mới là cứu người trị bệnh. Nhưng mỗi ngày đại phu nhìn thấy nhiều nhất, bất lực nhất, cũng là lời thề nhẹ như lông hồng mà mình coi trọng nhất kia. Rất nhiều lúc cho dù huynh dùng hết sức lực cũng không xoay
chuyển được ông trời. Nếu huynh để ý, vậy thì cuộc sống của huynh liền
hỏng bét. Nếu huynh không quan tâm thì sao làm đại phu được? Cho nên
nói, ta từng nói qua, cái nghề đại phu này, thật sự rất khó dùng mấy chữ cứu sống người bệnh để hình dung.” Nói rồi ngừng lại, khẽ thở dài,
ngẩng đầu cười nhìn Ân Lê Đình “Ân lục ca, ta hỏi huynh nhé, nếu huynh
tìm thấy kẻ năm đó đả thương Du tam ca, muốn báo thù nhưng lại đánh
không lại chúng, vậy huynh tính làm sao?”
Ân Lê Đình không ngờ Lộ Dao hỏi ngược lại chàng, buột miệng đáp “Tất nhiên là phải báo thù rồi. Nếu đánh không lại thì về núi rèn luyện võ công thật giỏi, xin sư phụ
chỉ dạy.”
“Nếu vẫn đánh không lại thì sao?”
Ân Lê Đình bị
hỏi dồn như thế càng ngẩn ra, suy nghĩ một chút nhíu mày đáp “Đánh không lại cũng hết cách, chỉ cần cố hết sức mình cũng không thẹn với tam ca
và sư môn.”
Bấy giờ Lộ Dao vỗ tay, cười nói “Chính thế đó. Ta là
đại phu, chứng bệnh có thể chữa lành ta chữa, chữa không khỏi ta cũng
chỉ đành cố hết sức mình. Nếu bởi vì y thuật không giỏi thì nỗ lực tiến
bộ. Nhưng nếu không phải vì y thuật của ta kém, thật sự là không xoay
chuyển được trời, vậy chúng ta cũng chỉ cần không thẹn với lòng. Thần y
không phải thần tiên, câu này không phải nói đùa. Thầy ta từng nói với
ta, câu nói đó có nghĩa là đại phu không có quyền quyết định phải trái
đúng sai của bệnh nhân, phải đối xử bình đẳng. Song thật ra ta cảm thấy
câu này còn một nghĩa khác, đó là khi huynh thật sự không giành nổi với
ông trời, đừng rầu rĩ, chỉ cầu không thẹn với lòng là tốt rồi. Một cố
nhân từng cho ta đáp án như thế, vì thế giúp ta qua được cửa ải đầu tiên khi làm đại phu.”
Ân Lê Đình nghe so sánh như thế, trong óc xẹt
qua một tia chớp nhoáng, bỗng dưng hơi hiểu được, khẽ nói “Lúc đó Tiểu
Hàn bị thương nặng sốt cao, muội lưỡng lự phiền não, có phải là cảm thấy mình cần phải cứu nó, nếu khiến nó mất mạng là lỗi của người làm đại
phu như muội. Nhưng hiện giờ, ác hạch này, chỉ mong dốc hết sức lực,
giành được phần nào hay phần ấy, đúng chứ?”
Lộ Dao nghe xong,
chân mày khóe mắt đều sáng lên, vỗ bốp lên vai Ân Lê Đình nói “Ân lục
ca, ta thấy huynh nên học y với ta đi! Huynh có khiếu như thế, không làm nghề này đáng tiếc lắm! Đạo lý ấy ta ngẫm bao lâu mới ngộ ra, huynh chỉ mất mấy khắc đã thông rồi!”
Mặt trời lặn về tây nhuộm một bên
mặt Lộ Dao thành màu vàng nhạt, Ân Lê Đình nhìn nụ cười của nàng, cảm
xúc nặng nề trong phủ châu ban nãy càng lúc càng nhạt đi, cõi lòng nhuốm chút cảm giác thanh thản dễ chịu như cỏ cây dưới tà dương.
[35] Nguyên văn: 天地不仁,以萬物為芻狗。聖人不仁,以百姓為芻狗。《道德經 • 第五章》
(Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu. Thánh nhân bất nhân, dĩ bách tính vi sô cẩu. – Đạo Đức kinh, chương 5)
Ý nghĩa: Trời đất không có lòng nhân, coi vạn vật như chó rơm. Thánh nhân không có lòng nhân, coi con người như chó rơm.
[36] Một loại cây bụi thuộc chi mâm xôi