Đứa Con Của Ban Mai

Chương 10: Chương 10




Tiếng Xen-tơ đúng là khó nhằn. Grace đã mất hai tuần để làm việc với phần được viết bằng tiếng Xen-tơ, và chỉ tiến được rất ít. Ngôn ngữ này không nằm trong chương trình máy tính của nàng, vì thế nàng không có sự trợ giúp của máy móc trong việc giải mã những nét chữ gà bới mờ mịt. Người nào đó sao lại tài liệu từ bản chính cũng đã làm tối màu bản sao để cho rõ hơn, nhưng chẳng mấy thành công. Nàng có thể nhìn thấy những đường viền rách tươm của bản chính trên bản sao, cho nàng biết rằng phần bằng tiếng Xen-tơ không được lành lặn như những phần viết bằng tiếng Latinh. Có lẽ là do loại giấy đó không tốt bằng, hoặc là vào thời gian nào đó các trang giấy đã bị ẩm. Không có nghĩa là một bản sao tử tế, rõ ràng sẽ giúp ích được nhiều.

Nàng đã mua một cuốn từ điển tiếng Xen-tơ/tiếng Anh, và vài sách hướng dẫn nói tiếng Xen-tơ để hỗ trợ cho nàng trong việc hiểu các cú pháp. Tuy nhiên, vấn đề là nàng không thể tìm được một cuốn sách hướng dẫn nào về tiếng Xen-tơ được dùng trong thế kỉ thứ mười bốn. Nàng nghĩ nàng sẽ phát điên vì sốt ruột. Chỉ có mười tám kí tự trong bảng chữ cái của tiếng Xen-tơ, nhưng ngườit Scot và người Ai-len đã khắc phục hạn chế đó bằng cách đánh vần loạn xạ. Thêm vào đó là kiểu viết tay cổ xưa, cách dùng từ, và dù thế nào cũng không có một cách đánh vần chuẩn mực, và nỗ lực cần tới để dịch một câu thì bằng hai lần nỗ lực nàng cần để dịch cả một trang tiếng Latin hay Cổ ngữ Anh.

Nhưng thậm chí với tất cả những khó khăn trên, dần dần nàng cũng chắp ghép các câu lại để có ý nghĩa. Phần viết bằng tiếng Xen-tơ mô tả chi tiết những thành tựu của một kẻ phản loạn vùng Cao nguyên được gọi là Niall Đen. Mặc dù phần này được tìm thấy chung với toàn bộ những tài liệu còn lại khiến cho người ta thấy rõ ràng Niall Đen này cũng chính là Niall của Scotland, Grace không tự động đồng nhất hai người làm một. Nàng đã phải đương đầu với các cách đánh vần khác nhau của cùng một cái tên, vì thế rất có thể có khả năng là cùng một cách đánh vần nhưng lại nói tới một người khác. Rút cuộc, có biết bao nhiêu Niall đã sống ở Scotland. Niall của nàng là Niall của Scotland, của dòng máu hoàng tộc; liệu hoàng tộc thì có mối liên hệ gì với một tên phiến loạn vùng Cao nguyên đây? Những biên niên sử này khác với các cái khác; tuồng chữ viết tay khác, loại giấy khác. Chúng có thể đã vô tình bị lẫn lộn với những tài liệu khác, chỉ đơn giản vì trùng tên.

Mặc dù vậy Niall Đen là một kẻ xấu thú vị. Giải mã những thành tích của ông ta chiếm hết tất cả thời gian rảnh của nàng, trừ những giờ nàng trải qua với “tên con hoang nhỏ bé lươn lẹo xấu xa” của Harmony, một gã Mateo Boyatzis, một anh chàng khôn ngoan và nguy hiểm mang hai dòng máu Mê hi cô và Ba Lan. Matty biết nhiều trò chơi đểu hơn cả một người hô hào chính trị, và anh ta đã đồng ý dạy “Julia” vài ngón đòn chiến đấu cơ bản để chiến thắng như là một ân huệ với Harmony. Nàng chẳng có chút ảo tưởng nào với kĩ năng dần dần tiến bộ của nàng; nàng không phải và sẽ không bao giờ là bất kì cái gì gần tới mức chuyên gia. Tất cả những gì nàng hi vọng là có thể dùng lợi thế ngạc nhiên để bảo vệ chính mình và tập tài liệu.

Không có nghĩa là nàng có bất kì chuyện gì để lo lắng, nàng nghĩ, dụi dụi đôi mắt đã mỏi mệt sau hàng giờ lặn ngụp qua những cách đánh vần khó hiểu và những cách phát âm khó tin. Giờ bất kì phút nào tiếng Xen-tơ cũng có thể làm cho nàng phát điên, và rồi nàng sẽ chẳng thèm quan tâm chuyện gì xảy ra nữa.

Để cho mình được nghỉ ngơi, nàng đặt phần viết bằng tiếng Xen-tơ sang một bên và bật máy tính lên, rồi kéo xuống cho đến khi nàng tìm tới phần viết bằng Cổ ngữ Pháp. Tập tài liệu không theo thứ tự về mặt thời gian; đặt các câu chuyện lại với nhau giống như ghép các mảnh xếp hình vào vậy, một hình xếp cổ xưa bằng nhiều loại ngôn ngữ.

Nàng nhìn thấy cái tên gần như ngay lập tức, nàng đã quá quen với nó tới nỗi mắt nàng nhận thấy nét quen thuộc của các chữ cái gần như trước cả khi nàng tập trung được vào các từ. Niall Đen.

“Mày biết gì nào,” nàng lẩm bẩm, cúi tới trước. Có vẻ như là Niall Đen và Niall của Scotland thực sự là cùng một người. Tại sao những tài liệu viết bằng tiếng Pháp lại mô tả các thành tựu của một tên phản loạn vô danh người Scot, trừ khi hắn thực ra chẳng vô danh chút nào? Một Hiệp sĩ thánh chiến thuộc dòng máu vương giả, bị rút phép thông công, bị kết án tử hình nếu chàng có bao giờ bị mang ra khỏi Scotland, và là Người bảo vệ của Kho báu bị buộc phải cố tình ẩn danh, nhưng chắc chắn không phải không quan trọng. Đã có những con người, có lẽ là tàn quân của Hội, biết Niall Đen là ai và là gì, và đã kiên quyết lưu lại địa điểm.

Nhưng vương giả? Nàng đã rà đi rà lại cây phả hệ trong Thư viện Newberry, và không hề có một Niall nào được ghi lại trong thời đại ấy cả.

“Chàng là ai?” nàng thì thầm, tìm kiếm một mối liên hệ đang lẩn lút, gần giống như chạm vào trí óc của một người đàn ông đã chết từ hàng nhiều thế kỉ. Nàng chưa từng bao giờ nhận ra trí tưởng tượng của nàng có thể mạnh mẽ đến thế nào, nhưng nàng đã được an ủi trong dự cảm gắn bó ấy. Nàng không dám để bất kì ai khác đến quá gần, thậm chí cả Harmony cũng không, nhưng không hề có giới hạn nào với người đàn ông mà giờ chỉ còn sống trong những giấc mơ của nàng. Nàng không cần phải cảnh giác với chàng, không cần phải che giấu danh tính của nàng, không cần phải giả dạng.

Những tài liệu này lại nói về thành tích khác của chàng, về nơi chàng đã tìm ra được một hang ổ bọn cướp và tiêu diệt chúng, không để ai còn sống sót. Niall rõ ràng đã trải qua vô vàn khó khăn để bảo vệ lãnh thổ của mình, nhanh chóng và mạnh bạo đương đầu với bất kì mối đe doạ nào. Đây là một điểm tắc nghẽn khác: nếu chàng là hoàng tộc, chàng sẽ phải có một tước vị, và quyền hợp pháp đối với lãnh thổ của chàng. Tuy nhiên, những tài liệu bằng tiếng Xen-tơ lại gọi chàng là kẻ nổi loạn, một người đàn ông đã dùng vũ lực chiếm cứ một toà lâu đài ở miền tây Cao nguyên, và giữ nó mà không có một tước hiệu hay chứng thư nào, không có bất kì cái gì ngoại trừ sức mạnh của lưỡi gươm. Một người thuộc hoàng tộc có thể thành kẻ phiến loạn được không, và nếu chàng thực sự đã bị đuổi ra khỏi gia đình đến mức tên tuổi của chàng đã bị loại khỏi mọi ghi chép, thì liệu Robert Bruce có thể chịu đựng một sự xấc láo như vậy trong biên giới của chính ông ta hay không?

Những tài liệu bằng tiếng Xen-tơ có thể làm sáng tỏ thêm, nhưng trí óc nàng đơn giản là không thể hấp thụ thêm chút nào nữa trong đêm đó. Gạt các giấy tờ bằng tiếng Pháp sang bên, nàng giở lật cho tới khi tìm được những trang bằng Cổ ngữ Anh.

Một lần nữa, cái tên lại gần như nhảy ra khỏi trang giấy trước mặt nàng: Niall Đen, một chiến binh Scot mạnh mẽ và thô bạo tới mức chàng được khắp cả vùng Cao nguyên sợ hãi. Lãnh địa của chàng, Creag Dhu, chưa từng bị xuyên thủng, trừ duy nhất một lần bởi “một người phự nữ đã vào bằng trò quỷ thuật.” Grace cảm thấy hơi buồn cười khi nàng đọc câu đó, vì tất nhiên một người phụ nữ không thể nào làm được cái điều được cho là không thể đó mà lại không dùng đến “trò quỷ thuật.”

“Cô ấy đã lừa chàng, phải không nào,” nàng thì thầm với Niall, gần như mỉm cười khi nàng tưởng tượng ra sự khó tin của chàng, sự tức giận của chàng khi phát hiện ra lớp bảo vệ toà lâu đài của chàng đã bị chọc thủng chỉ bởi một người phụ nữ đơn độc. Chàng sẽ tức giận cực độ, kiểu giận dữ làm cho các lính gác của lâu đài phải chạy trốn khỏi chàng.

Grace ngăn những ý nghĩ của mình lại, nhăn nhó khi nàng nhận ra trí tưởng tượng của nàng lại nổi lên lần nữa. Nàng có thể đã mơ về chàng, chàng có thể thực tới mức đôi khi nàng nghĩ nàng chỉ cần quay đầu là sẽ nhìn thấy chàng đứng ngay ở đó, nhưng trong thực tế chàng đã trở thành tro bụi từ sáu thể kỉ trước khi nàng được sinh ra rồi. Đọc tiếp, nàng phát hiện ra rằng Niall Đen đã bắt cô gái, vì thế “trò quỷ của đàn bà” đã chẳng mang lại cho cô ta điều gì, trừ sự chú ý của chàng, và có lẽ đó chính là điều cô ta muốn. Tài liệu không nói rõ chàng đã làm gì với cô ta sau khi bắt được. Ngủ với cô ta, có lẽ vậy, Grace nghĩ. Chàng là một người đàn ông cường tráng, cực kì không hợp với đời sống tu hành. Một đoạn khác lại bắt đầu: “Niall Đen, MacRobert-“ và Grace ngồi thẳng dậy khi mọi cái lẫy đều nhảy tách vào chỗ. Niel Robertsoune – con trai của Robert, và một chiến binh vĩ đại trong một Hội nổi danh vì những chiến binh của nó. Lại Niall MacRobert lần nữa, con trai của Robert, và một chiến binh vĩ đại đến mức lãnh địa của chàng không bao giờ bị phá vỡ, trừ bởi người con gái kì lạ vô danh kia. “Một người Scot mang dòng máu Hoàng gia”… con trai của Robert… con trai của Robert Bruce?

Như bị điện giật, nàng kiểm tra ngày tháng, chỉ để giật lại trong thất vọng. Nàng chỉ có thể đoán được tuổi của Niall Đen, vì nàng không biết ngày sinh cũng như ngày chết của chàng, nhưng chàng đã là một người đàn ông trưởng thành khi Hội bị tiêu diệt vào năm 1307. Vua Robert I của Scotland, Bruce nổi tiếng nhất, quá trẻ để làm cha Niall Đen. Grace nhanh chóng kiểm tra lại các ghi chú của nàng về phả hệ của dòng tộc Hoàng gia Scotland. Cha của Robert Bruce, Bá tước Carrick cũng có tên là Robert.

Liệu Niall Đen có phải là em trai của Robert Bruce không? Làm thế nào? Nhà Bruce có bốn anh em trai, Edward, Nigel, Thomas, và Alexander đều được cẩn thận ghi lại khi họ chiến đấu cùng với anh trai và vua của mình để đẩy lùi người Anh ra khỏi Scotland. Cách duy nhất Niall có thể liên quan, nhưng lại bị đẩy ra ngoài, là khi chàng là con ngoài giá thú.

“Đúng vậy,” Grace thở ra, ngồi trở lại. Các đường hướng, các khả năng khiến cho nàng không thể ngồi được. Nàng nhảy lên và bắt đầu đi đi lại lại trong phạm vi căn phòng nhỏ của nàng khi từng chi tiết trượt vào chỗ để hoàn thiện bức tranh ghép. Trong thời kì trung cổ, một người anh em cùng cha khác mẹ vô thừa nhận không hiếm gặp và thậm chí cũng không quan trọng – trừ khi người thừa kế hợp pháp vô tình lại nhắm tới ngai vàng. Scotland luôn luôn khác các nước Châu u khác trong cách nhìn nhận mối quan hệ thân tộc, và trong khi việc Niall là con hoang bình thường sẽ đặt chàng ra khỏi cuộc tranh giành, ở Scotland ngai vàng lại được dành cho người quyền lực nhất. Không thể chối cãi Bruce đã là một chiến binh mạnh mẽ, nhưng những kĩ năng chiến tranh của Niall đã trở thành huyền thoại. Bản thân sự tồn tại của chàng cũng đã là một mối nguy đối với Robert.

Điều kì diệu là chàng đã không bị giết, để gạt bỏ mối nguy đó. Thực tế chàng đã không chết cho thấy rằng chàng được ưu ái ở một mức độ nào đó. Nhưng chàng cũng đã gia nhập Hội các Hiệp sĩ thánh chiến, vì thế có lẽ tham vọng của chàng là ở nhà thờ chứ không phải ở chính trị. Không nhớ tới những gì nàng đã đọc về Niall Đen, chàng chẳng hề thuộc loại sùng bái nhà thờ chút nào. Vậy tại sao chàng lại thành một Hiệp sĩ thánh chiến? Phiêu lưu ư, giàu có ư? Nàng có thể thấy bằng cách nào những viễn cảnh của cả hai thứ đó thu hút Niall Đen tới với Hội, nhưng nhìn chung bản chất của chàng dường như quá mãnh liệt và trần tục chàng không thể chấp nhận những giới hạn của nó.

Bất kể lý do trở thành Hiệp sĩ thánh chiến của chàng là gì, việc chàng làm như thế thật thuận tiện cho vị vua tương lai của Scotland. Bruce không cần phải lo lắng một vị thày tu giành lấy ngai vàng, bởi vì lời thề chay tịnh của chàng sẽ không sản sinh ra được một người thừa kế nào cho ngai vàng.

Sự chay tịnh của chàng đã kết thúc cùng với sự huỷ diệt của Hội, Grace nghĩ, nếu nàng đã dịch đúng vài đoạn văn. Các tham chiếu về hoạt động tình dục không rõ ràng lắm, nhưng cũng khá đủ hiểu. Tuy nhiên Niall đã tuân thủ những lời thề của chàng trong khi còn là Hiệp sĩ thánh chiến, sau khi Hội bị tiêu diệt chàng đã ôm ấp cuộc sống – và đàn bà – một cách triệt để. Chàng vẫn không phải là một mối nguy đối với ngai vàng, bởi vì với tư cách là một cựu Hiệp sĩ thánh chiến chàng phải lánh xa nhân thế.

Nhưng việc đó giải thích rất nhiều chuyện – tại sao Niall lại có thể chiếm Creag Dhu và giữ nó mà không có sự can thiệp từ Đức Vua, thậm chí tại sao Bruce lại là vị vua duy nhất ở Châu u không chỉ không áp dụng án tử cho các Hiệp sĩ thánh chiến, mà còn biến vương quốc của mình thành một thánh địa cho những người đàn ông bị săn đuổi. Robert đã từ chối kí vào bản án tử hình đứa em trai cùng cha khác mẹ của mình. Việc đó thậm chí còn giải thích vì sao Niall đã được chọn làm Người bảo vệ; các vị Thủ lĩnh của Dòng Đền Thánh đã biết về huyết thống của chàng, biết chàng và Kho báu sẽ được an toàn ở Scotland hơn bất kì nơi nào khác trên thế giới.

Nàng đột ngột hít vào, và căn phòng trở nên tối đen xung quanh nàng khi nhận thức đập vào nàng với sức mạnh của một cú đấm. Kho báu. Ford và Bryant đã chết bởi vì những tờ giấy ngu ngốc này chỉ ra vị trí của cái Kho báu nổi danh đã mất của các Hiệp sĩ thánh chiến: Creag Dhu.

Tiền. Cuối cùng lại quay lại nó. Họ đã chết vì tiền, tiền mà Parrish Sawyer muốn. Bởi vì nàng có tập tài liệu, hoặc hắn cho rằng nàng đã dịch đủ để biết chúng viết về cái gì và cũng đã kể cho Ford và Bryant, hoặc hắn muốn xoá sổ kiến thức về chúng bất kể giá nào.

Nàng đã nghĩ sẽ dễ dàng chịu đựng nỗi đau thương hơn nếu nàng biết vì sao.

Nhưng không.

*

Conrad nằm im lặng trên giường, đèn đóm tắt hết, nhưng thành phố không bao giờ tối đen và những bức tường khách sạn đơn điệu được tắm trong những màu sắc nhấp nháy không tiếng động từ những ngọn đèn nê ông. Danh sách mới nhất in ra từ máy tính nằm trên bàn, nhưng giờ đang bị gạt sang bên. Vài việc tốt nhất là nên làm trong đêm, nhưng những việc khác phải chờ đến buổi ban ngày bận rộn và những giờ hành chính thông thường. Việc trì hoãn không làm phiền hắn; hắn là một người đàn ông nhẫn nại. Grace sẽ chẳng đi đâu cả, ít nhất là chưa đi. Cô ta đã lặn ở đâu đó trong khu nội đô rộng lớn này, và cô ta sẽ ở đó lâu chừng nào cô ta còn cảm thấy an toàn. Cô ta là một học giả, một nhà nghiên cứu; cô ta sẽ nghiên cứu. Các thư viện ở Chicago rất tốt. Phải, hắn tự tin là cô ta vẫn còn ở Chicago thêm một thời gian nữa, và trong suốt lúc ấy hắn sẽ tìm kiếm cô ta. Cô ta sẽ không biết hắn đang ở gần cho tới tận khi hắn vồ lấy cô ta.

Ngài Sawyer đã tung cả một đội quân nhỏ để cào nát đường phố, nhưng Conrad không mấy tin tưởng vào chiến thuật ấy. Vì thứ nhất, những người hoạt động trong nền kinh tế ngầm sẽ không trả lời bất kì câu hỏi nào một cách trung thực, và thứ hai, Grace đã chứng tỏ bản thân có khả năng giả dạng một chút. Bằng giờ này cô ta đã có thể cạo đầu và mặc đồ da rồi, vì thế dựa vào những mô tả bề ngoài chỉ tổ phí thời gian.

Conrad thích những phương pháp của mình hơn. Với hắn rất đơn giản: nếu bất kì ai đang chạy trốn mà ở lại một nơi lâu dài, hắn ta hay cô ta sẽ phải thiết lập một danh tính mới. Với vài người việc đó sẽ chỉ đơn giản là chọn một cái tên. Việc đó sẽ có hiệu quả chừng nào họ không cần thẻ tín dụng, hay một bằng lái xe, hay bạn không cố làm việc ở những nơi hợp pháp đòi hỏi số bảo hiểm xã hội của bạn. Về lâu về dài sẽ thông minh hơn nếu bạn thiết lập được một danh tính đàng hoàng, và Grace St. John đã làm hắn ấn tượng với trí thông minh của cô ta.

Tiến trình đó rất đơn giản, nhưng chậm chạp. Để hợp thức hoá một danh tính, một người sẽ phải có giấy khai sinh. Để lấy được giấy khai sinh, một người phải có một cái tên thực sự. Rõ ràng, dùng tên người sống sẽ rất phức tạp khi hai danh tính bắt đầu đối chọi với nhau, một việc không thể tránh khỏi, vì thế cách tốt nhất là tới một nghĩa trang và đọc các bia mộ. Tìm một ai đó đã sinh ra vào khoảng thời gian tương tự như bạn, hơn kém một vài năm tuổi, nhưng đã chết trẻ. Đôi khi còn có cả tên người bố và người mẹ trên bia mộ nữa: cái gì đó đi cùng những dòng như “Con gái yêu thương của John và Jane Doe.” Bingo, bạn đã có được thông tin cần để lấy giấy khai sinh.

Các yêu cầu giấy khai sinh sẽ đi qua cơ quan liên bang, trong trường hợp này là Springfield. Lấy một giấy khai sinh tương đối là dễ; chính việc lấy đầy đủ bộ giấy tờ nhân thân mới tốn thời gian. Tiếp theo cô ta sẽ phải xin số bảo hiểm xã hội, và chính quyền liên bang chậm như rùa. Hắn có thời gian để tập trung vào các yêu cầu xin giấy khai sinh.

Với những nguồn lực của Tổ chức, việc truy cập vào hệ thống máy tính của bang Illinois chỉ mất đúng một cú điện thoại. Tuy nhiên, hắn đã ngạc nhiên trước số lượng các yêu cầu. Thật đáng kinh ngạc vì nhiều người cần phải chứng minh sự tồn tại của họ đến thế, cho dù là để đòi hỏi tiền bảo hiểm, để xin hộ chiếu, hay bất kể cái gì. Chỉ riêng con số liên quan tới việc này cũng làm chậm bước chân hắn.

Hắn có thể tự động loại bỏ tất cả những yêu cầu cho nam giới, nhưng một lần nữa lại có rất nhiều người có những cái tên không định tính. Chẳng hạn như Shelley. Đàn ông hay đàn bà? Và còn Lynn, hay Marion, hay Terry? Những người này vẫn phải ở trong danh sách của hắn cho tới khi hắn có thể kiểm tra họ.

Hắn cũng không có một ngày yêu cầu cụ thể, khiến nhiệm vụ của hắn càng khó khăn hơn. Cô ta không thể gửi đi một yêu cầu sớm hơn cái ngày ngay sau vụ hắn bắt hụt cô ta tại Eau Claire, nhưng lỡ cô ta chờ vài ngày, một tuần, thậm chí vài tuần thì sao? Việc đó chắc chắn lại thêm vào hàng trăm người trong danh sách, từ khắp nơi trong bang. Hắn đã thu hẹp phạm vi xuống khu vực Chicago, nhưng thế vẫn còn hàng trăm người bởi vì hắn phát hiện ra ít nhất một phần tư dân số toàn bang sống trong thành phố lớn ấy.

Kiểm tra từng đó người tốn nhiều thời gian, và danh sách dài thêm mỗi ngày. Vài người yêu cầu giấy khai sinh đã chuyển đến trong thời gian đó; cần phải xác định vị trí của họ, và đôi khi họ lại đi ra khỏi bang. Vài người đi nghỉ, nhưng cho tới khi hắn lần ra được họ hắn vẫn không dám loại bỏ họ khỏi danh sách. Grace có thể trốn sau bất kì cái tên nào, thậm chí cả những cái tên không ngờ nhất. Hắn sẽ không đánh giá thấp cô ta một lần nữa.

*

“Cô em, trông cô như cục phân,” Matty nói một cách trìu mến, duỗi cơ thể chắc nịch, dẻo dai của anh ta từ trên cái ghế sô pha te tua trong căn hộ.

“Cảm ơn,” Grace lẩm bẩm. Nàng mệt vì phải thức suốt đêm cố gắng giải mã tiếng Xen-tơ. Đôi mắt nàng cồm cộm, nàng có năng lượng của một con sên, và nàng đã làm bỏng tay ngày hôm đó khi nhặt một cái chảo lên để rửa và phát hiện ra nó chỉ vừa mới được nhấc ra khỏi lò. Harmony đã chữa vết bỏng, làm um lên suốt trong lúc ấy, và rồi khăng khăng đòi đi theo Grace tới chỗ học “bài học” khác với Matty, chỉ để chắc chắn là không có chuyện gì nữa xảy đến với nàng.

“Chỉ có da bọc xương,” Harmony tuyên bố, vẫn còn quạu cọ. “Tôi không thể làm cô ấy ăn, bất kể tôi nấu cái gì. Cô ấy đã sụt đến hơn mười pound (5kg) kể từ khi sống trong nhà tôi, không chính xác là loại quảng cáo mà tôi cần nhất nhỉ.”

Grace nhìn xuống chính mình. Nàng đã quen với những lời phàn nàn của Harmony về chuyện nàng không ăn đủ, nhưng lúc này nàng vẫn ngạc nhiên khi thực sự nhìn vào mình, và thấy hai cổ tay gầy nhẳng của mình, thân hình nàng lọt thỏm trong đống quần áo thùng thình đã từng là cỡ chuẩn của nàng. Nàng biết nàng đã sút cân, rất nhiều, trong cái tuần kinh khủng ngay sau vụ sát nhân, nhưng nàng không nhận ra rằng mình vẫn còn sút cân. Nàng gầy và đang suýt soát tới ngưỡng còm nhom. Nàng phải dùng những chiếc kẹp an toàn để sít chặt cạp quần jean để chúng không tuột hẳn xuống. Thậm chí bây giờ đến quần lót của nàng cũng quá rộng, và quần lót rộng thì chẳng thoải mái một tí nào cả.

“Tôi đã bảo là cô ấy không cần phải mặc đống quần áo thùng thình kia,” Harmony tiếp tục, nằm thượt ra ghế sô pha và vắt chéo chân. “Nhưng cô ấy có nghe tôi không? Cậu bảo cô ấy đi.”

“Harmony đúng đó,” Matty nói, nhíu mày với Grace. “Đừng cho thằng chó nào cái gì để nắm cả. Cô không to con, Julia, cũng chẳng độc địa. Cô sẽ chiến đấu khi bị dồn đến chân tường, nhưng vấn đề là, đừng để bị dồn đến chân tường, bởi vì khi đó cơ hội của cô rất thấp. Cô có nghe tôi không?”Anh ta thường chẳng thèm quan tâm đến bất kì ai, nhưng anh ta lo lắng cho Julia. Điều gì đó tồi tệ đã xảy ra, và nàng vẫn đang trên đường trốn chạy. Nàng không nói về chuyện ấy, nhưng anh ta có thể nhìn thấy nó trong mắt nàng. Quỷ quái, anh ta đã quen với bắn giết và đâm chém, những vụ sốc thuốc, bạo lực băng đảng, những đứa trẻ với đôi mắt lớn, sợ hãi, không thể hiểu được cuộc đời, vì thế anh ta không biết chính xác điều gì về Julia đã làm anh ta cảm động, nhưng đúng là như thế. Có lẽ đó là vì trông nàng quá mong manh, nên đôi khi anh ta nghĩ rằng anh ta gần như có thể nhìn xuyên qua nàng, hay có lẽ vì nỗi buồn bao bọc quanh nàng như một chiếc áo choàng. Nàng không bao giờ cười, và đôi mắt lớn màu xanh của nàng trông như là… trống rỗng. Cái nhìn trong đôi mắt ấy khiến cho anh ta thấy đau lòng, và Matty là một người đàn ông đã kiên quyết không để cho ai đến đủ gần để khiến anh ta bị tổn thương vì bất kì điều gì xảy đến với họ. Anh ta đã không làm được thế với Julia.

“Tôi đang nghe đây,” Grace ngoan ngoãn nói. “Tôi cũng nghe Harmony nữa. Chỉ là tôi không có đủ tiền mua quần áo mới.”

“Cô đã nghe nói tới hàng thùng[28] chưa?” Harmony hỏi. “Đôi lúc cũng phải ló cái mũi cô ra khỏi mấy cuốn sách và tìm quanh. Người ta bán quần jean cũ chỉ bốn hoặc năm đô, và thường khi cô có thể mua với giá một đô nếu cô đứng đó đủ lâu để phàn nàn rằng năm đô là quá nhiều.”

“Tôi sẽ tìm,” Grace hứa. Hàng thùng. Nàng chưa từng tới một nơi như thế trong đời, nhưng nếu nàng có thể mua quần jean cỡ vừa với giá chỉ một đô thì nàng sắp trở thành một fan cuồng của hàng thùng rồi. Nàng đã mệt với việc cứ phải dùng kẹp để giữ quần áo, và mệt với đám đồ lót bùng nhùng trong quần nàng lắm rồi.

“Okay, nói về mua sắm thế đủ rồi,” Matty suốt ruột nói. “Tôi đang cố để dạy cô làm sao sống sót được. Chú ý vào đây.”

Phương pháp dạy học của Matty không liên quan gì đến phòng tập thể hình hay tập võ cả, bởi vì anh ta nói các vụ ẩu đả nói chung không diễn ra ở đó. Chúng diễn ra trên phố, trong nhà, nơi người ta sống và làm việc. Một đôi lần anh ta đã đưa nàng tới một con phố để học, tức là anh ta tấn công nàng từ nhiều hướng, trói nàng hoặc chỉ đơn giản là vòng hai cánh tay quanh nàng và ném nàng xuống đất, và nàng phải thoát được anh ta. Anh ta chỉ cho nàng phải đá vào đâu, đấm vào đâu, và những thứ gì thường tìm thấy trên đường mà có thể dùng làm vũ khí, từ một thanh gỗ cho đến một cái chai vỡ. Anh ta cũng dạy nàng cách cầm dao, con dao mà nàng đã lấy của tên cướp, làm sao để nắm nó và sử dụng nó.

Matty nhìn thấy vũ khí ở mọi nơi. Trong tay anh ta, một cái bút chì cũng gây chết người, một cuốn sách có thể gây hại cực kì, và một hộp muối hay tiêu tạo ra cơ hội vô giá. Đèn pin, cái chặn giấy, diêm, gối, ga giường, tất tật mọi thứ đều có thể dùng được. Một ghi chú kì cục là đấu đẹp không bao giờ hiện trong đầu anh ta. Ghế là những cái búa. Một chiếc gậy bóng chày hay một cây gậy gôn là dùng để đánh vào đầu người ta, những đôi giày trượt băng là để cứa vào người ta – các khả năng là vô tận. Grace không nghĩ nàng còn có thể nhìn vào một căn phòng theo cách trước đây nữa. Trước đây, căn phòng chỉ là… căn phòng. Giờ chúng là kho vũ khí.

Anh ta ngã đè lên nàng không hề báo trước, quấn chặt đôi tay khoẻ không ngờ quanh nàng và kéo nàng xuống sàn. Cú ngã làm nàng bị tê liệt, làm trí não giật thót, nhưng nàng nhớ những bài học trước của mình và nhanh chóng rện đế giày vào ống quyển anh ta, và đồng thời có đủ lực đòn bẩy với một cánh tay để đánh anh ta phía dưới cằm bằng cườm tay. Răng anh ta va nhau với tiếng cụp lớn, và anh ta phải lắc đầu cho tỉnh. Grace không dừng lại. Nàng vặn vẹo, thúc đầu vào anh ta, cố đấm vào hai hòn bi của anh ta, cào mắt anh ta.

Matty không để cho nàng đánh anh ta, bởi vì như thế sẽ không dạy được gì nhiều cho nàng, anh ta nói vậy.

Nàng phải vất vả trong những nỗ lực của mình. Anh ta nhẹ nhàng gạt đi phần lớn những cố gắng của nàng, nhưng anh ta đã giải thích cho nàng rằng anh ta biết nàng sẽ chiến đấu và biết rõ nàng sẽ làm gì; một người lạ không có cái lợi thế ấy. Tuy nhiên, nàng vẫn đánh trúng được vài lần, đủ để thi thoảng làm anh ta gầm ghè, hay chửi thề khi nàng lại đánh trúng cằm anh ta và làm anh ta cắn vào lưỡi. Harmony ngồi trên sô pha và không thực sự mỉm cười, nhưng trông chị ta có vẻ hài lòng.

Việc cố gắng nhanh chóng làm Grace kiệt sức. Nàng lăn ra sàn, thở nặng nề. Matty đúng dậy và nhăn nhó với nàng. “Cô quá yếu,” anh ta tuyên bố. “Yếu hơn tuần trước. Tôi không biết cô đang bị làm sao, Julia à, nhưng cô phải ăn, bởi vì cô chẳng có sức chịu đựng gì cả.” Anh ta chùi miệng, và nhìn với vẻ thích thú vào vệt máu trên tay mình. “Có gan đó, nhưng không có sức.”

Grace vật lộn để đứng dậy. Nàng thực sự không nhận ra nàng đã trở nên yếu ớt thế nào; nàng chỉ đơn giản gán sự mệt mỏi cho việc thức khuya cố giải mã tất cả tập tài liệu. Nàng đã từng thích ăn, nhưng giờ nàng chẳng quan tâm; tất cả mọi thứ đều vô vị, như thể các dây thần kinh vị giác của nàng đã bị thui chuột sau cơn sốc và không bao giờ hồi phục nữa.

“Tôi sẽ ăn,” nàng nói đơn giản, bây giờ mới nhận ra mình không còn lựa chọn nào khác. Bởi vì lúc này chỉ nghĩ đến ăn thôi đã vật vã lắm rồi, nàng phải ăn những gì bổ dưỡng. Nàng không biết thánh địa này sẽ tồn tại được đến chừng nào; nàng phải sẵn sàng rời đi bất kì lúc nào, và nàng phải khoẻ mạnh. Đột nhiên nàng cảm thấy hơi bồn chồn; có lẽ nàng không nên chờ tới khi có chuyện gì xảy ra, có lẽ giờ nàng nên đi rồi, và tìm một nơi nương náu tạm thời khác. Nàng đã có giấy khai sinh của Julia Wynne; nàng đã gửi đơn xin số bảo hiểm xã hội, và khi có cái đó nàng sẽ có thể xin bằng lái xe. Với một chiếc bằng lái nàng sẽ mạo hiểm lái xe, và không phải lo lắng nhỡ một cảnh sát chặn nàng vì vượt tốc độ, hay bị vỡ một chiếc đèn hậu nữa. Nàng có thể mua một chiếc xe rẻ tiền, mạo hiểm lái xe, đi tới bất kì đâu nàng muốn cho dù ở đó có tuyến xe buýt hay không.

Harmony đứng dậy vươn vai. “Tối nay tôi sẽ bắt đầu nhồi nhét cô ấy,” chị ta bảo Matty. “Có lẽ thêm vài bài tập củng cố nữa, cậu nghĩ sao?”

“Đầu tiên là thức ăn,” Matty nói. “Nhét ít thịt vào cổ họng cô ấy. Phải có gạch mới xây tường được. Một miếng thịt bò ngon lành, hay ít mỳ ống và thịt băm viên, những thứ như thế.”

Grace cố không nôn oẹ trước câu mỳ ống. Sau khi đã làm việc ở quán Hector’s, nàng không thể chịu đựng nổi mùi tỏi hay nước sốt cà chua.

“Tôi sẽ nghĩ ra cái gì đó,” Harmony hứa, chú ý thấy cái nhìn khiếp sợ trên mặt Grace. Chị ta hiểu, bởi vì chị ta đã từng làm việc ba tháng liền ở một tiệm bán hải sản tít dưới miền Nam; chị ta vẫn còn không thể chịu đựng nổi mùi bánh bột ngô nướng, nhưng tạ ơn Chúa chưa bao giờ chị ta ngửi được một chút xíu mùi đó tại Chicago. Chỉ nghĩ đến thôi cũng làm chị ta bực bội; trước đây chị ta luôn thích ăn bánh bột ngô, giờ thì đã mất thú vui ấy.

Grace và Harmony đi bộ ba dãy nhà tới chỗ đỗ xe buýt. Grace đã hình thành nên thói quen nhìn xung quanh nàng, và Harmony quan sát với vẻ đồng ý khi nàng kiểm tra xung quanh. “Cô đang học tốt đấy,” chị ta nói. “Nào, cái gì đã khiến cô đột nhiên căng thẳng như thế, lúc ở chỗ Matty ấy?”

Harmony là người có óc quan sát nhất mà Grace từng gặp. Nàng thậm chí không cần đánh trống lảng. “Tôi đang nghĩ về việc ra đi.”

Hai hàng lông mày của Harmony chầm chậm nhướn lên chân tóc màu vàng chanh. “Có phải tại tôi nói gì không? Có lẽ cô không thích đồ ăn của tôi? Hay có cái gì đã làm cho cô sợ.”

“Không có gì xảy ra khiến tôi lo sợ cả,” Grace cố gắng giải thích. “Chỉ là… tôi không biết. Trực giác, có lẽ vậy.”

“Vậy tôi đoán là tốt hơn cô nên dọn đồ,” Harmony bình tĩnh nói. “Chống lại trực giác của mình sẽ phải trả giá đắt.” Chị ta nhìn lên con phố. “Xe buýt tới rồi này.”

Grace cắn môi. Mặc dù Harmony không bảo nàng ở lại, và sẽ không nói, đột nhiên nàng cảm nhận được nỗi cô đơn của người phụ nữ kia. Họ không hề thân thiết; cả hai đều có quá nhiều chuyện cần che giấu. Nhưng họ đã là bạn, và Grace nhận ra nàng sẽ nhớ tính cách cứng rắn lập dị của Harmony.

“Cô cần ở lại thêm vài ngày, nếu có thể,” Harmony nói tiếp, vẫn còn nhìn xe buýt. “Để tôi nhét ít đồ ăn vào người cô, gây sức cho cô một chút nữa. Và kiếm ít quần áo vừa vặn nữa, chết tiệt. Thêm vào đó tôi cũng có vài thứ có thể chỉ cho cô, những thứ có thể sẽ cần thiết.”

Nàng có thể sống với sự bồn chồn trong vài ba ngày, Grace nghĩ. Bất kì cái gì Harmony muốn dạy nàng sẽ đều xứng đáng với sự căng thẳng ấy. “Okay. Tôi sẽ ở lại tới cuối tuần.” Phản ứng duy nhất của Harmony là một cái gật đầu ngắn, nhưng một lần nữa Grace cảm nhận được sự hài lòng. Tối đó, ngồi trong bếp trong khi Harmony thực hiện một điều kì diệu nho nhỏ với cái chảo, Grace lơ đãng đọc lướt qua một chồng báo khá lớn. Harmony đọc báo buổi sáng trong lúc ngồi bên bàn bếp và cẩn thận uống sạch một bình cà phê, và thường ném tờ báo lên chiếc ghế không dùng đến thay vì đặt nó vào trong giá. Đã quá lâu kể từ khi Grace đọc một tờ báo hay nghe một bản tin đến nỗi nàng chẳng biết có chuyện gì đang xảy ra trên toàn quốc, và nàng cảm thấy kì lạ khi đọc những dòng tít báo và lén nhìn vào trong quá khứ vô định.

Nàng lật dở qua nửa chồng báo cho đến khi một bức hình đen trắng sần sùi làm nàng chú ý, và ánh mắt nàng bay tới đó. Đột nhiên nàng không thể thở, phổi nàng bất động trong lồng ngực, và đôi tai ong ong. Parrish. Parrish là một trong những người đàn ông trong bức hình đó.

Nàng mơ màng nghe thấy Harmony nói cái gì đó, rồi một bàn tay đặt lên gáy nàng, ấn đầu nàng xuống cho tới khi nó tựa vào đầu gối. Dần dần tiếng ong ong trong tai nàng bắt đầu nhạt đi, và phổi nàng bắt đầu hoạt động trở lại. “Tôi ổn,” nàng nói, từ ngữ bị nén giữa hai đầu gối.

“Thực sao? Không lừa được tôi đâu,” Harmony châm biếm, nhưng chị ta thả cần cổ Grace ra và móc tờ báo ra khỏi những ngón tay vô lực của nàng. “Để xem. Cô đọc được gì trong này mà thất thần như vậy? “Đàm phán hoà bình tái khởi động”? Không nghĩ vậy. Thế còn cái này: “Hối lộ trong Toà thị chính tiêu tốn hàng triệu đô của thành phố.” Khiến áp huyết tôi tăng lên, nhưng chẳng bao giờ làm tôi ngất xỉu. Có lẽ là “Cái chết của vợ nhà tư bản.” Thậm chí có cả một bức ảnh của ông chồng đau khổ tội nghiệp để làm khuấy động tình cảm của cô. Ừm, trông giống cái thứ sẽ tác động mạnh đến cô lắm.” Chị ta đập tờ báo xuống bàn, nhìn chằm chằm vào bức ảnh. “Vậy, cô biết ai trong những gã này?”

Vẫn còn hít thở sâu, Grace nhìn lại bức ảnh. Nàng vẫn còn sốc khi nhìn thấy khuôn mặt đẹp trai của Parrish, nhưng giờ nàng chú ý còn có cả những người khác nữa. Một người là gười chồng, khuôn mặt nhăn nhúm vì đau thương. Bên cạnh ông ta là một người đàn ông trông cực kì quen mặt, và một cái liếc nhanh xuống dòng chú thích bên dưới bức ảnh đã nêu tên họ là Bayard “Skip” Saunders, nhà tư bản giàu có, và Thượng nghị sị Trikoris. Ba người đàn ông ở đằng sau, Parrish trong số họ, không ai được nêu tên. Khuôn mặt Parrish trông ủ ê đúng kiểu, nhưng đã biết đủ về hắn ta, nàng không tin vào cái biểu hiện ấy.

Nàng nhanh chóng đọc cột báo bốn inch. Rõ ràng Calla Saunders đã chết vì ngã từ trên ban công căn hộ áp mái của bà ta. Không có biểu hiện tội ác nào. Một trong hai chiếc giày cao gót của Bà Saunders, với chiếc gót bị gãy, đã được tìm thấy trên ban công. Các điều tra viên phỏng đoán rằng bà ta bị mất thăng bằng khi gót gãy, và lộn cổ qua lan can; vài vệt sơn trắng của lan can đã được tìm thấy trên bộ đầm dự tiệc của bà ta. Rõ ràng bà ta đã ở một mình trên ban công.

Các điều tra viên không biết về Parrish Sawyer như cách nàng biết, Grace nghĩ và rùng mình. Nếu hắn ở bất kì đâu gần một hiện trường án mạng, nàng không nghĩ cái chết đó lại là tai nạn.

Nàng đã quên mất hắn đẹp trai thế nào. Trong đầu nàng hắn đã khoác vào bộ mặt ác quỷ, những đường nét của hắn được hình thành từ sự độc ác bên trong, nhưng bức hình đen trắng đã bắt đuợc vẻ mặt bóng bẩy, mái tóc vàng đẹp đẽ, khuôn mặt đẹp như tạc và thân hình thon gọn như vận động viên của hắn. Như thường lệ, hắn ăn vận không chê vào đâu được. Trông hắn hoàn toàn sành điệu và chịu chơi, một quý ông cho tới tận những đầu ngón tay được cắt tỉa cẩn thận của hắn.

Khuôn mặt hắn cũng vui vẻ như khi hắn bắn vào đầu Ford vậy.

Hắn đang ở Chicago. Nàng kiểm tra ngày tháng trên báo, thấy rằng nó mới chỉ được hai tuần thôi. Parrish đã ở đây. Nàng không an toàn như nàng nghĩ. Bản năng của nàng đã đúng; đã đến lúc phải đi.

“Xem nào,” Harmony nghiền ngẫm khi Grace không trả lời. “Không thể là thượng nghị sĩ; ông ta chỉ là đồ bỏ đi. Quên gã Saunders đi; hắn tuyền là đồ ăn hại, cứ nhìn mà xem. Ba gã còn lại… hừm… một gã trông như cớm, thấy bộ vét tồi tệ không?”

Harmony đang tổng kết từng người trong bức hình một cách có hệ thống và chính xác đến phát cáu. Trong vòng vài giây nữa chị ta sẽ rút ra kết luận đúng không chệch đi đâu được. Để tiết kiệm thời gian và công sức cho chị, Grace chỉ ngón tay vào mặt Parrish.

“Giờ hãy quên chị từng nhìn thấy hắn đi,” nàng khuyên, khuôn mặt và giọng nói căng thẳng. “Nếu hắn biết chị chỉ hơi biết gì về em thôi, hắn sẽ giết chị.”

Hàng lông mi của Harmony che bóng đôi mắt chị khi chị quan sát bức ảnh. Cuối cùng chị cũng nhìn vào Grace, đôi mắt xanh cứng rắn và rõ ràng. “Người đàn ông đó là ma quỷ,” chị ta nói cộc lốc. “Cô phải chuồn khỏi đây.”

Hai ngày tiếp theo là một chuỗi hoạt động tấp nập. Grace ráo riết làm việc để dịch phần ngôn ngữ Xen-tơ hết sức có thể, bởi vì nàng sẽ không có thời gian làm việc trong khi di chuyển. Harmony lượn quanh những chỗ bán hàng thùng, và tìm được vài chiếc quần jean thực sự vừa vặn với Grace, cũng như vài chiếc áo phông bó và một đôi giày leo núi bền chắc. Khi họ ở cùng nhau, Harmony nói chuyện. Grace cảm thấy mình như Luke Skywalker đang lắng nghe Yoda[29], nhưng thay vì truyền đạt những điều quí giá hay khôn ngoan Harmony bàn về những cách cắt đuôi, làm sao để di chuyển mà không để lại dấu vết, làm sao để kiếm một bằng lái xe giả và thậm chí một hộ chiếu giả nếu nàng không có thời gian hoặc quá nguy hiểm để xin một tấm thật. Harmony biết rất nhiều về việc làm sao để sống sót trên đường phố, và trong cuộc chạy trốn, và đó là món quà của chị ta cho Grace.

Món quà cuối cùng của chị ta là mượn một chiếc xe và đưa Grace tới thành phố, Michigan, Indiana, nơi nàng định bắt một chuyến xe buýt. Grace không nói với Harmony điểm đến của nàng, và Harmony không hỏi; như thế sẽ an toàn hơn cho cả hai.

“Cẩn thận phía sau lưng,” Harmony cắm cảu nói, ôm Grace. “Và nhớ tất cả những gì Matty và tôi đã chỉ cho cô.”

“Tôi sẽ cẩn thận,” Grace nói. “Tôi nhớ mà.” Nàng ôm lại Harmony, rồi tóm lấy túi xách của mình và hoà vào trong trạm xe buýt. Harmony nhìn hình dáng bé nhỏ biến mất bên trong, và chớp mắt hai lần để gạt đi ngấn nước trong mắt mình.

“Chúa Trời ơi, hãy trông chừng cô ấy,” chị thì thầm, ban lệnh cho Đấng Tối Cao, rồi Harmony Johnson trở vào trong chiếc Pontiac đi mượn và lái xe đi.

Grace theo dõi từ cửa sổ, đôi mắt nàng khô cong bất chấp từng đợt sóng triều đau khổ trong ngực nàng. Nàng không biết nàng có thể nói bao nhiêu câu tạm biệt; có lẽ tốt hơn hết nên luôn di chuyển, không ở bất kì chỗ nào đủ lâu để gắn bó với ai.

Nhưng nàng vẫn còn nhiều việc phải làm với giấy tờ, và nàng cần một nơi an toàn để làm việc đó. Nàng nghiên cứu bản đồ lộ trình xe buýt, rồi mua một vé tới Indianapolis. Một khi ở đó, nàng sẽ quyết định điểm đến tiếp theo, nhưng đó phải là một nơi hoàn toàn không ngờ tới được. Nàng chắc chắn Parrish không vô tình tới Chicago. Bằng cách nào đó hắn đã biết nàng ở đó. Người của hắn đang tìm kiếm nàng. Chắc hẳn nàng cực kì dễ đoán, và chúng sẽ nhanh chóng tìm ra nàng.

Việc đó sẽ không xảy ra lần nữa, nàng tự hứa với mình. Nàng sẽ đi ở ẩn, tại một nơi chúng không bao giờ trông chờ tìm thấy nàng, và đột nhiên nàng biết chính xác nơi sẽ đi là đâu. Đó là một nơi chúng sẽ không nghĩ tới, một nơi nàng có thể theo dõi Parrish và những động thái của hắn: Minneapolis.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.