Đêm mất ngủ thứ hai liên tiếp của Grace làm mắt nàng mờ tịt, nhưng nàng không thể ngừng đọc đi đọc lại các phần của file Hitler, không thể đẩy nó ra khỏi tâm trí nàng kể cả khi nàng đã đặt nó xuống. Nàng cứ trở lại với nó, đọc lại nó để đảm bảo với mình là nàng không phải đang tưởng tượng.
Tổ chức được thành lập năm 1802 bởi một tập hợp người rất kì lạ; Napoleon Bonaparte là một trong các thành viên sáng lập, có lẽ là thành viên quan trọng nhất và là lực lượng thúc đẩy sự thành lập của tổ chức này. Chắc chắn ông ta là người duy nhất ở vào thời điểm đó có tham vọng chinh phục thế giới. Một âm mưu thiếu thực tế, nếu nhìn từ ngoài mặt, nhưng không quá khó tin khi xem xét tổng thể bức tranh.
File Hitler đưa ra một cái nhìn khác và đáng lo ngại về lịch sử được biết đến rộng rãi. Năm 1799, Napoleon tấn công Siri của Thổ Nhĩ Kỳ, tiến đến tận pháo đài Acre. Ông ta đã không hạ được pháo đài, vốn được các Hiệp sĩ Thánh chiến xây dựng từ năm 1240, nhưng có lẽ ông ta đã nghe được điều gì ở đó, hay tìm được gì đó. Sau khi trở về từ Acre chính là lúc tham vọng của ông ta bùng nổ hoàn toàn; ông ta ngay lập tức tự phong làm Nhiếp chính vương của Pháp, và rồi làm Hoàng đế. Ông ta chinh phục Tây Ban Nha, Ý, Thuỵ Điển, Hà Lan, Ba Lan, tấn công Nga và Áo.
Có lẽ rất nhiều người muốn thống trị thế giới, nhưng may mắn là chỉ có vài người thực sự cố gắng làm việc đó hay thậm chí nghĩ là họ có thể. Napoleon đã nghĩ việc đó là có thể; ý định của ông ta được nói rõ ràng trong file Hitler. Ông ta đã khởi động một chiến dịch truy tìm rộng khắp Kho báu mất tích của các Hiệp sĩ Thánh chiến, chắc chắn rằng khi tìm được nó ông ta sẽ bất khả chiến bại, vì tài liệu đã hứa hẹn rằng: người kiểm soát Quyền năng sẽ kiểm soát thế giới. Quyền năng đó là gì? Không phải vàng, nhưng chắc chắn là cái gì đó hữu hình, chẳng hạn như chiếc Hòm giao ước. Bất kể nó là gì, Tổ chức tin rằng nó kiểm soát một quyền năng không tưởng, và trong gần hai thế kỉ Tổ chức đã cống hiến mọi nguồn lực của nó để tìm kiếm Kho báu.
Có ba cấp bậc khác nhau trong Tổ chức. Ở cấp thấp nhất là các nhân viên, những người làm việc giấy tờ và công nhân phổ thông. Lớp ở giữa là các “nhà quyên góp,” những người là thành viên của Tổ chức và quyên tặng những khoản tiền lớn cho nó, bất kể là do lựa chọn hay bị ép buộc. Từ những gì nàng đọc được thì hầu hết là bị ép buộc. Ở cấp cao nhất chỉ có vài cái tên; nàng nhận ra phần lớn trong đó. Napoleon. Stalin. Hitler. Hai tổng thống Mỹ. Một quốc vương Trung Đông. Một vị tướng của Pháp. Một vị thủ tướng Anh. Một nhà lãnh đạo công nhân nổi tiếng. Những nhà tài phiệt, cả nam lẫn nữ. Một cái tên làm nàng đặc biệt ngạc nhiên, vì ông ta là một người cực kì giàu có vẫn được biết đến với những công tác nhân đạo của mình. Và Parrish Sawyer. Tên của hắn dường như là nhỏ bé khi so sánh với sự nổi danh của những cái tên khác, nhưng ở vào lúc khởi đầu sự nghiệp của họ thì họ cũng đâu có nổi tiếng. Sự hiện diện của tên hắn trong danh sách đã là một bảo chứng cho tính tàn bạo của hắn.
Quyền năng thống trị thế giới. Giờ đây khái niệm ấy kì cục hơn cả gần năm mươi năm trước đây. Làm thế nào một con người bất kì, hay một Tổ chức, có thể thống trị toàn thế giới? Nhưng khi nàng nhìn vào nó từ khía cạnh quốc gia: quyền năng và sự ảnh hưởng, cái gì đó mà hầu hết các quốc gia đều thiếu, thì thực sự có thể điều khiển thế giới bằng cách khống chế những tổ chức then chốt. Thậm chí còn không cần tới một vụ đảo chính, chừng nào mà các chính trị gia còn hàng phục những kẻ có tiền. Truyền thông, trí thức, thương mại – kiểm soát ba nhân tố đó và một người sẽ thực sự kiểm soát cả thế giới. Thống trị thế giới không được đo bằng các cuộc chinh phạt quân sự, mà bằng chinh phạt kinh tế.
Thống trị thế giới là một tham vọng kì lạ, chỉ hợp lý đối với những cá tính hoang tưởng cực đại. Điều không bình thường ở đây là có quá nhiều những con người như thế gia nhập vào Tổ chức, vì bản thân cá tính của từng người sẽ tự cho mình thông minh hơn hay vĩ đại hơn tất cả những người khác. Nhưng từng người lại bị lôi kéo vào, và bằng cách của mình phục vụ Tổ chức trong khi ông ta nghĩ là đang phục vụ chính mình.
Tổ chức của Quỷ. Hitler và Stalin là những con quỷ công khai, bản chất méo mó, vô lương tâm của chúng đã phơi bày cho cả thế giới cùng biết. Phần lớn những người còn lại trong danh sách đều có vẻ, hay đã có vẻ, bình thường, nhưng từ ví dụ của Parrish nàng biết vẻ bề ngoài có thể khiến người ta lầm lẫn đến dường nào. Tất cả những con người này đều theo đuổi quyền năng và tham vọng vô tận, hành động của họ được Tổ chức hướng dẫn. Họ đã lợi dụng Tổ chức, hay Tổ chức đã lợi dụng họ?
Bản chất của ma quỷ là gì? Nó đã mang bộ mặt nào? Phải chăng hạt giống của quỷ dữ ở trong mỗi con người, và giống như bất kì một hạt giống nào nó nảy nở ở chỗ này nhưng lại không nảy nở ở chỗ khác? Hay sự thúc đẩy của ma quỷ tới từ bên ngoài? Bản thân ma quỷ là một thực thể tách biệt, hay chẳng có gì hơn một kết quả?
Liệu Tổ chức là ma quỷ vì những con người độc ác phục vụ nó, hay nó là ma quỷ từ trong chính nó? Phải chăng Tổ chức đã tồn tại, trong một dạng nào khác, còn lâu hơn hai thế kỉ?
Người bảo vệ được tạo ra từ khi nào? Các Hiệp sĩ Thánh chiến đã tạo ra vị trí ấy, hay là đã phục vụ nó? Có phải Hội đã bị huỷ diệt bởi những kẻ phục vụ Tổ chức? Chắc chắn mục đích của Philip IV và Clement V là sự nghi kị, lòng tham và sự đố kị và cơn khát quyền lực.
Ma quỷ. Trong sự tĩnh lặng trước buổi bình minh, kiệt sức tới không thể ngủ nổi, Grace đi đi lại lại và suy ngẫm, tự hỏi việc thiếu ngủ đã làm nàng phát điên hay là nàng đang thực sự phải chiến đấu với chính Quỷ Sa tăng chứ không ai khác.
Ngay khi nàng quyết định chắc chắn mình bị điên, nàng nhớ ra tài liệu tiếng Xen-tơ: “Ma quỷ sẽ được gọi là Parrish.” Và “Trong năm Thiên Chúa 1945, Người bảo vệ đã tiêu diệt con quỷ người Đức.” Những câu chữ đó đã được viết từ hơn sáu trăm năm trước khi sự kiện thực sự xảy ra, và được đính kèm với một công thức du hành vượt thời gian. Những tài liệu đó hoặc là một lời tiên tri, hoặc các Hiệp sĩ Thánh chiến đã biết điều bí mật về du hành vượt thời gian.
Có lẽ đó là Quyền năng mà Tổ chức tìm kiếm. Du hành thời gian! Những khả năng là vô tận. Một người có thể thoát ra khỏi lịch sử và kiến tạo những lợi ích khổng lồ bằng việc sử dụng các kiến thức biết trước của mình. Lỡ như ai đó đặt một ván cược lớn vào khả năng vô cùng nhỏ là tầu Titanic sẽ chìm, hay đầu tư nặng tay vào nhà máy sản xuất vũ khí đạn dược trước Đại Chiến II? Tại sao ư, chỉ cần biết ai sẽ thắng các giải vô địch thế giới cũng đủ làm một người giàu không thể tưởng nổi. Các khả năng là vô tận: đóng tiền bảo hiểm sinh mạng cho ai đó sắp chết, chơi sổ xố, chơi đưa ngựa, bầu cử chính trị. Mặt khác, có vẻ như Người bảo vệ đã dùng việc du hành thời gian để bảo vệ Quyền năng, vì thế nàng vẫn chẳng hiểu gì cả.
Cuối cùng bình minh cũng làm bầu trời sáng lên, và nàng nhìn qua cửa sổ nhỏ của mình. Một người tỉnh táo sẽ báo ốm và cố ngủ đi một chút, nhưng thay vào đó nàng tắm và uống một bình cà phê. Nàng cảm thấy nhấp nhổm kì lạ, và đó không phải là sự khó chịu từ cà phê. Thay vào đó là cảm giác cấp bách ngày càng tăng lên, như thể nàng đáng lẽ phải làm gì đó nhưng nàng không biết là cái gì.
Có lẽ đã đến lúc thu dọn và rời đi, tìm một công việc khác, một căn phòng khác. Nàng đã là Paulette Bottoms được mấy tháng, đủ lâu như bất kì một danh tính nào của nàng. Bản năng đã giúp nàng sống tới chừng này, vì thế nàng không thấy lý do nào giờ lại lờ nó đi.
Nàng không mắc phải sai lầm giữ nhiều đồ đạc. Ít quần áo, chiếc xe tải, khẩu súng.
Chiếc máy pha cà phê là món hàng thùng hai đô la. Nàng mất đúng mười phút để thu dọn mọi thứ của nàng và đặt vào trong xe tải. Căn phòng được trả tiền cho đến thứ Bảy, vì thế nàng để chìa khoá vào trong hòm thư và bước đi.
Hôm nay là thứ Sáu. Nàng sẽ làm việc, lấy tiền công vào buổi chiều, và bỏ việc; đó sẽ là kết thúc của Paulette Bottoms. Nàng sẽ chọn một cái tên khác, tìm một căn phòng khác, một công việc khác. Có lẽ nàng còn rời khỏi Minneapolis. Nàng đã trở về vì có vẻ như đó là chỗ trốn tốt nhất, dưới mũi Parrish, và vì nhu cầu mãnh liệt cần trả thù. Nàng chưa bao giờ hoàn thành được một kế hoạch chỉnh chu nào, nhưng nàng cũng không hoàn toàn chú tâm vào nó; thay vào đó nàng tập trung tất cả sức lực vào việc dịch tập tài liệu. Nhiệm vụ đó đã hoàn thành. Với sự giúp đỡ của Kris, giờ nàng đã biết nhiều hơn nàng từng tưởng tượng về Tổ chức. Nàng vẫn chưa biết nàng có thể làm gì với thông tin ấy, nhưng nàng cảm thấy nàng nên đi và nàng gần như không kiềm chế được cơn bốc đồng nhảy vào trong xe và lái đi tới khi nào không tỉnh táo được nữa.
Rời bỏ Minneapolis. Nhận thức ấy thấm vào nàng, mang theo một cảm giác nhẹ nhõm. Phải, đó là việc nàng nên làm. Tránh xa khỏi Parrish, khỏi những kí ức luôn treo lơ lửng ở trên đầu sự kiểm soát của nàng, đe doạ nghiền nát nàng nếu nàng thả lỏng. Nàng chưa biết nàng có thể làm gì với thông tin đã có, nhưng nàng muốn tránh xa tuyết và cái lạnh, tránh xa những ngày mùa đông ngắn ngủi. Nàng sẽ lái xe về hướng nam, và không dừng lại cho đến khi thấy ấm áp và thấy ánh nắng mặt trời.
Tất cả những gì nàng phải làm chỉ là một ngày làm việc. Dọn vài ngôi nhà, lấy tiền lương, và rồi nàng sẽ lên đường 1-35 và hướng về phương nam.
*
Paglione húp ngụm cà phê cuối cùng trong chiếc cốc giữ nhiệt của hắn. Theo dõi vào mùa đông là tệ nhất. Bạn phải uống cà phê để giữ ấm, và rồi lúc nào bạn cũng phải đi tiểu. Phải có hai người làm một công việc đơn giản, bởi vì một người luôn phải chạy đi đâu đó để xả.
Ít nhất theo dõi một cửa hàng McDonald cũng không tệ lắm. Lúc nào hắn cũng có cái gì để ăn, có thêm cà phê để uống, và luôn có sẵn một cái toa lét. Mặc dù vậy hắn đã ở đây ba ngày và hắn ngán Big Mac[42] đến tận cổ rồi. Có khi lần tới hắn sẽ thử mấy thứ với gà.
Một chiếc xe tấp vào bên cạnh hắn, làm hắn dừng lại và liếc sang bên. Hình dáng cái đầu của Conrad được nhận ra ngay lập tức. Bất chấp nhiều năm làm việc hoà thuận với người đàn ông này, Paglione luôn cảm thấy hơi khó ở mỗi lần hắn mới nhìn thấy Conrad, như thể bằng cách nào đó hắn đã quên đích xác gã kia lạnh lùng và tàn bạo đến mức nào. Paglione đã gặp những tên giết người máu lạnh trước đó; bản thân hắn đã giết vài người. Nhưng Conrad rất khác. Paglione không bao giờ có thể đoán được cái gì đang diễn ra đằng sau đôi mắt vô cảm kia. Conrad không hoảng loạn, và hắn không từ bỏ. Hắn giống như một cỗ máy, không bao giờ mệt, được kết nối để nhặt nhạnh mọi chi tiết mà những người khác bỏ qua. Trong tất cả những người Paglione biết, bao gồm cả ngài Sawyer, Conread là người hắn ta thực sự sợ hãi.
Với một làn gió lạnh buốt Conrad trượt vào trong ghế hành khách. Hắn đang mặc một chiếc áo bành tô đắt tiền nhưng không thể tạo được một tí phong thái nào cho thân hình đá tảng của hắn.
“Mừng là anh ở đây,” Paglione nói. “Tôi đã uống cà phê suốt cả ngày và tôi phải đi tiểu. Muốn tôi lấy cho anh cái gì trong khi tôi ở đó không?”
“Không. Đã ai dùng cột điện thoại chưa?”
“Vài người. Tôi đã viết lại mô tả nhân dạng của họ.” Paglione lấy một cuốn sổ nhỏ ra khỏi bảng điều khiển và đặt nó bên cạnh Conrad, rồi hé mở cánh cửa và nhanh chóng đi xuyên qua bãi đậu xe vào nhà hàng.
Các cánh cửa xe bắt đầu mờ đi. Không rời mắt khỏi cột điện thoại, Conrad cúi xuống và xoay chìa khoá trong ổ để khởi động xe. Hắn nhặt cuốn sổ lên nhưng không bắt đầu đọc ngay. Cái đó có thể chờ tới khi Paglione quay lại. Đọc làm người ta phân tâm; trước khi bạn biết thì cả một phút dài đã trôi qua, và có rất nhiều chuyện có thể xảy ra trong phút ấy.
Hắn vẫn còn bực bội với bản thân. Grace có thể vẫn còn ở trong phòng máy tính khi hắn đi qua; hắn đã liếc vào trong và chẳng thấy gì khác thường. Nhưng khi hắn và Parrish trở lại, Conrad đã ngay lập tức chú ý tới một chồng sách hướng dẫn bị dịch chuyển.
Quá gần. Hắn đã có thể tóm cô ta lúc đó, và tất cả chuyện này sẽ kết thúc.
Cô ta đã thay đổi. Hắn bỏ qua cái rõ ràng là một bộ tóc giả. Hắn không còn tìm bất kể màu tóc hay chiều dài nào của tóc nữa, bởi vì cái đó quá dễ thay đổi. Cô ta đã sút rất nhiều cân; khi họ xem lại cuộn băng, cố tìm vài manh mối để nhận dạng người đi cùng cô ta, Parrish đã nhận xét một cách thất vọng rằng giờ cô ta gầy đến thế nào.
Nhưng thay đổi lớn nhất không phải là việc sụt cân; đó là về cách cô ta bước đi. Hắn đã xem rất nhiều đoạn băng về cô ta trong những tháng qua, và hắn biết rõ bước đi của cô ta như của chính mình vậy. Cô ta đi từ tốn chứ không bước nhanh, và có nét gì đó hoàn toàn nữ tính trong cái cách hông cô ta chuyển động. Thậm chí hắn còn có thể nhìn thấy nét gợi cảm mà Parrish quá đắm đuối nơi cô ta. Nhưng cô ta đã bước đi như một người ngây thơ, không hề có sự cảnh giác thạo đời, sự thăng bằng của cô ta là của một người hoàn toàn thoải mái và lơ đễnh.
Sự ngây thơ đó đã mất. Giờ cô ta bước đi có mục đích, cơ thể nhẹ nhàng của cô ta dàn đều trọng lượng trên hai chân để cô ta có thể ngay lập tức di chuyển về bất kì hướng nào. Đầu cô ta ngẩng cao, thái độ cảnh giác. Vai thẳng, cơ bắp chuẩn bị để xoay. Vào lúc nào đó trong tám tháng trốn chạy vừa qua, Grace St. John đã học được sự thạo đời và học cách chiến đấu.
Hắn nuối tiếc sự thơ ngây đã mất của cô ta. Cô ta không ngọt ngào một cách tẻ ngắt; cô ta quá khôn ngoan, quá sắc sảo. Nhưng cô ta đã rạng ngời; đó chính là phẩm chất xuyên suốt trong những cuốn băng hắn đã xem. Cả chồng và anh trai đều ngưỡng mộ cô ta, và cô ta nồng nhiệt yêu đáp trả họ. Parrish thường xem đi xem lại một cuốn băng quay vào Giáng Sinh, khi chồng cô ta kéo cô ta vào lòng và hôn cô ta đắm đuối, và cũng được đắm đuối hôn lại. Có rất nhiều tiếng cười đùa trong những cuộn băng ấy. Gia đình nhỏ đã rất hạnh phúc.
Rất nhiều chuyện có thể xảy ra trong tám tháng chạy trốn. Cô ta có thể đã bị đánh, bị cướp, bị hiếp. Hắn không thích cái ý tưởng cô ta bị đối xử hung bạo, nhưng hắn là người thực tế. Parrish muốn sử dụng cô ta trước khi giết, kéo linh hồn cô ta vào bùn lầy, sỉ nhục cô ta, và Conrad cực kì không bằng lòng. Cô ta xứng đáng nhiều hơn thế.
Paglione lê bước trở lại chiếc xe, mang theo một túi giấy. Hắn trượt vào sau tay lái với mùi khoai tây chiên và gà rán béo ngậy lấp đầy chiếc xe. Hắn mở nắp nhựa trên cốc cà phê và đặt nó trên bảng điều khiển, rồi lôi chỗ khoai tây và cái hộp giấy nhỏ đựng khẩu phần thịt gà của hắn ra.
Giờ khi Paglione đã trở lại, Conrad mở cuốn sổ. Sáu người đã dùng điện thoại. Một người phụ nữ da đen lúc 7g16. Một cậu thiếu niên, khoảng mười bốn, đã dùng lúc 9g24, trong khi đáng lẽ cậu ta phải ở trường. Một ông già đã tiến tới, lúng túng với đống tiền lẻ, rồi bỏ đi mà không thực hiện cuộc gọi. Một người đàn ông gốc Á lái chiếc xe tải chở đồ nghề điện đã gọi lúc 10g47. Hai chàng trai trẻ đến lúc 12g02 và chiếm giữ chiếc điện thoại trong gần một giờ. Chết tiệt! Lúc trước Grace gọi cũng là trong giờ ăn trưa, vì thế nếu cô ta cần gọi một cuộc khác thì hai tên ngốc ấy sẽ buộc cô ta phải đi chỗ khác.
“Melker đang theo dõi đường lái xe,” Paglione nói.
“Bayne ở bên trong. Melker đang nhặng lên vì anh ta không biết phải nhìn vào loại xe nào.” “Chỉ cần nhìn những bộ tóc vàng xoăn, tôi bảo anh ta rồi.” Conrad khẽ thở dài. Nếu hắn nhanh hơn một bước thôi, hắn đã có thể thấy nhiều hơn chỉ một thoáng đèn hậu loé sáng, gần như là dư ảnh chứ không phải ánh đèn thật sự. Việc đó không đồng nghĩa với việc cô ta ở trên cùng một chiếc xe; nó có thể thuộc về người đi cùng cô ta. Điều quan trọng là cô ta không còn phụ thuộc vào hệ thống chuyên chở công cộng nữa, càng khó khăn hơn trong việc theo dấu cô ta. Nhưng hắn rất nhẫn nại. Cô ta đã ở đây trước đó. Cô ta sẽ lại ở đây lần nữa.
*
Grace kết thúc ngôi nhà cuối cùng của nàng sớm, mới hơn hai giờ. Nàng ghé qua văn phòng nhỏ lộn xộn của công ty dịch vụ lau dọn và lấy tiền lương, và bảo với người chủ là nàng sẽ không trở lại. Nhân sự thay đổi quá thường xuyên đến nỗi việc nàng bỏ đi chẳng dấy lên nổi một tiếng hừ.
Nàng cần phải gọi Kris; cậu ta sẽ phát điên vì lo lắng nếu nàng biến mất không nói lời nào. Nàng hối hận phải bỏ lại cậu ta một lần nữa. Sự đồng hành của cậu ta, tình bạn của cậu ta đã giống như một cái kén ấm áp; giờ đây những cuộc trò chuyện thực sự trong đời nàng rất hiếm hoi nhưng trong một thoáng ngắn ngủi được nói chuyện với Kris nàng đã không còn cảm thấy quá cô độc nữa.
Nàng tấp vào bãi đỗ xe quán McDonald để dùng cột điện thoại trả tiền, nhưng ai đó đang dùng nó rồi. Nàng không dừng lại, rẽ bánh lái để đi vòng ra sau hàng xe xếp hàng chỗ cửa sổ lái xe qua. Một trong những chiếc xe trong hàng đột ngột lái ra phía trước nàng và nàng phải đạp vào thắng để khỏi húc vào sau nó. Chiếc cặp máy tính để trên ghế bên cạnh nàng, và cú dừng đột ngột khiến nó lộn khỏi ghế. Ngăn có khoá đang mở và một vài trang ghi chú của nàng rơi ra khắp trên sàn.
“Chết tiệt,” nàng lẩm bẩm, tấp vào lề. Máy tính không mỏng manh lắm, nhưng chúng cũng không được làm ra để quăng quật. Chiếc cặp có lót, nhưng nàng vẫn phải cúi xuống và nhặt nó lên, nhưng một vài tờ giấy vương vãi chui xuống dưới ghế và với đồ đạc của nàng ngáng đường, nàng không thể với xa đến thế. Chửi thề lần nữa, nàng để chiếc xe nổ máy và ra ngoài, bước vòng qua ghế hành khách.
Nàng mở cửa và bắt đầu thu nhặt giấy tờ. Nàng chỉ vừa mới chạm vào một tờ thấy rõ chữ “Creag Dhu” trên đó thì một luồng gió cuộn vào trong xe tải và làm tờ giấy bay lên đầu nàng. Nàng xoay người để tóm nó, và nhìn thấy một người đàn ông gần như đã xổ vào nàng.
Nàng không dừng lại để nghĩ. Ngay lập tức nàng thụp xuống đất, thò một bàn chân đi ủng ra và tông thẳng vào xương đầu gối hắn. Chân hắn bật ra như thể hắn bị bắn, và hắn ngã dập mặt.
Grace lộn ra xa, đứng dậy và lao mình vào buồng lái xe tải. Một gã khác đột nhiên ở đó, một người đàn ông với cái đầu giống khỉ và đôi mắt lạnh lẽo, vô cảm. Nàng cố gắng đóng sầm cửa và hắn giật nó ra, cơ thể nặng trịch của hắn chèn vào cánh cửa. Grace giật lùi lại nhưng một bàn tay nần nẫn nắm quanh cổ chân nàng, hết sức kéo nàng về phía trước. Nàng đá vào mặt hắn. Hắn giật đầu ra sau, và tóm nốt cổ chân kia của nàng.
Con dao kêu vút khi nàng rút nó ra khỏi bao, lưỡi dao sáng lấp lánh khi nàng lao xuống trong vị trí ngồi và chém vào tay hắn. Nàng cầm con dao đúng như Mateo đã chỉ cho nàng, lòng bàn tay hướng xuống, lưỡi dao giơ ra ngoài để cho hướng tấn công tới từ phần giữa người nàng và khó cản hơn nhiều một đường quét rộng. Con dao trượt ngang qua một bên mu bàn tay và hắn giật người ra sau, thả một cổ chân.
Gã đầu tiên từ từ bò dậy, rên rỉ và đỡ đầu gối, nhưng trong vòng vài giây hắn sẽ tới giúp. Nàng có thể nghe thấy ai đó đang chạy, một tên tấn công thứ ba đang nhanh chóng tới chỗ xe tải. Nàng sẽ không thể đấu một chống ba, hay thậm chí là một chống hai.
Ôi, Chúa ơi, gã đang nắm cổ chân nàng khoẻ như bò mộng. Hắn kéo nàng về phía trước, lờ đi cơn đau nơi bàn tay bị cắt, ngăn chặn những nỗ lực đấm đá của nàng. Khẩu súng bị nhét dưới đống quần áo của nàng, nàng dễ dàng với được nếu nàng ngồi trên ghế lái xe, nhưng giờ nàng đang nằm trên nó.
Nàng phi dao. Hắn nhìn thấy lưỡi dao lao vào mặt mình và không một sự huấn luyện nào trên đời này đủ mạnh để áp đảo bản năng thụp đầu xuống. Hắn né mình sang bên cạnh, nhưng thậm chí cả lúc ấy vẫn giữ vững cổ chân nàng, kéo nàng ra khỏi xe một phần. Tuyệt vọng, nàng mò mẫm bên dưới đống quần áo, bàn tay nàng sờ phải khẩu súng và gạt nó ra. Nàng nắm lại lần nữa, lần này tìm thấy nó.
Nàng vùng dậy, cả hai bàn tay nắm quanh báng súng, bắn ngay khi chân nàng thoát khỏi đích ngắm của nòng súng. Nàng nghe thấy những tiếng súng nhưng chúng có vẻ như từ rất xa vọng lại, bị nghẹt. Trong một chuyển động quay chậm nàng nhìn thấy gã khỉ đột nhăn mặt, rồi ngập ngừng. Nàng nghe thấy tiếng lạ lùng của viên đạn găm vào da thịt con người. Nàng nhìn thấy đôi mắt hắn nhá lên vừa ngạc nhiên vừa bực bội, như thể hắn đáng lẽ không được để mình đánh giá thấp nàng.
Nhưng hắn không thả cổ chân nàng ra. Hắn nghiến răng và kéo.
“Tao sẽ giết mày,” nàng nói, giọng nàng gần như không thành tiếng. Nàng chĩa nòng súng vào giữa hai mắt hắn. Hai tay nàng vững vàng. Nàng bắt đầu kéo đoạn trùng của cò súng, và cái cò lùi sau, chuẩn bị khai hoả.
Mắt họ gặp nhau, và hắn nhìn thấy cái chết của mình trong mắt nàng. Nàng nhìn thấy trí tuệ lạnh lùng, đen tối trong mắt hắn, một sự nhận thức vượt xa cả giây phút ấy, như thể hắn biết nàng tới tận đáy linh hồn. Có một nháng hiểu biết, rồi bàn tay hắn lỏng ra và hắn sụp xuống đất.
Gã đàn ông bị nàng đá vào gối bắt đầu lùi lại, hai bàn tay hắn giơ lên để chỉ là hắn không có súng. Nàng không tin vào điều đó lấy một phút.
Nàng giật đầu ra sau để xác định gã thứ ba, và nghe thấy tiếng cửa xe mở đằng sau nàng. Nàng ngửa người ra sau, giơ khẩu súng trên đầu và bắn qua cửa. Ngồi trở lại, nàng bắn vào gã đầu tiên khi hắn lôi súng ra từ trong áo. Nàng bắn trượt, nhưng hắn phải thụp xuống núp.
Nàng còn hai phát đạn nữa; nàng không thể cứ bắn qua bắn lại, nàng phải bắn cho chuẩn. Nàng trèo qua đống đồ đạc lộn xộn của nàng và ngồi đằng sau tay lái, và giật cần vào số khi nàng đạp mạnh vào chân ga. Chiếc xe tải cũ rùng mình khi nó lao về phía trước, bánh xe trượt trên khoảng đất đóng băng của bãi đậu xe. Khuôn mặt gã thứ ba xuất hiện trong cửa xe cạnh nàng khi hắn tóm tay nắm cửa. Nàng dí khẩu súng vào cửa xe và hắn thụp xuống, thả tay. Chiếc xe tải rung lên khi gã đầu tiên nhảy lên cái hãm xung ở đằng sau xe, cố trèo vào thùng xe.
Grace giật bánh lái sang phải, rồi sang trái. Giống như chơi trò rung cây doạ khỉ[43], trừ việc mức độ nguy hiểm cao hơn nhiều. Chân hắn trượt khỏi cái hãm nhưng hắn vẫn cố bám. Nhìn qua gương chiếu hậu, nàng lùi xe ra khỏi lối vào bãi đỗ qua cửa vào trước một chiếc xe đang chạy tới. Một hồi còi ré lên, nàng giật tay lái trở lại, và gã kia tuột tay ra khỏi cửa sau xe. Hắn lăn tròn trên bãi đậu xe, và đập mạnh vào bánh sau của một chiếc xe đang đỗ.
Cánh cửa hành khách vẫn còn mở, nhưng nàng không thể tốn thời gian dừng lại và đóng nó. Đạp trên chân ga, nàng rẽ ngoặt sang trái ở chỗ rẽ đầu tiên, rồi ngoặt sang phải ở chỗ rẽ tiếp theo. Cánh cửa đã tự đóng lại.
Nàng cố nghĩ xem nên làm gì. Chúng đã có mô tả về chiếc xe, và có thể cả biển số xe nữa. Chiếc xe được đăng kí dưới tên Louisa Croley, cùng một tên trên hộ chiếu và bằng lái xe của nàng. Nàng nên vứt bỏ chiếc xe, ăn trộm một chiếc khác ở đâu đó, và đi càng xa khỏi Minneapolis càng tốt. Cảnh sát sẽ tìm kiếm nàng trong vài phút nữa; một cuộc xả súng bên ngoài cửa hàng McDonald chắc chắn sẽ gây chú ý.
Nhưng nàng không vứt chiếc xe. Nàng không dám tốn thời gian lái tới một trung tâm mua sắm và lấy cắp chiếc xe nào còn để chìa khoá bên trong, mặc dù Harmony đã đảm bảo với nàng lúc nào cũng có ít nhất là hai người ngốc nghếch đi mua sắm ở bất kì một trung tâm thương mại nào. Thay vào đó nàng rẽ vào đường 36 và lái về hướng tây cho tới khi nàng vào được đường 1-35. Rồi nàng lên một chiếc máy bay về phương nam và hướng tới Iowa.
*
“Một vụ đọ súng kì lạ trước cửa hàng McDonald ở Roseville đã làm cảnh sát bối rối,” phát thanh viên thành thực tuyên bố. “Các nhân chứng nói rằng đã nghe vài phát súng, và ít nhất có sáu người liên quan, với hai người bị thương nặng. Nhưng vào lúc cảnh sát tới nơi, tất cả những bên liên quan đã biến mất, bao gồm cả người bị thương. Các nhân chứng nói một người, có lẽ là phụ nữ, đã lái chiếc xe bán tải màu nâu. Theo luật, tất cả các bác sĩ và bệnh viện đều phải báo cáo các vết thương do đạn bắn với cảnh sát, nhưng cho đến nay không ai đến yêu cầu chữa trị như thế cả.”
Parrish đi đi lại lại, tức tối. Conrad ngồi lặng lẽ trên ghế sô pha, vai quấn băng và cánh tay được một miếng vải trợ lực. Một bác sĩ làm việc cho Tổ chức đã gắp viên đạn ra, nó may mắn găm vào xương đòn của hắn thay vì xuyên qua lớp sụn và dây chằng phức tạp ở vai. Xương đòn của hắn đã bị vỡ, và cơn đau không ngừng dường như đang dần khắp người hắn, nhưng hắn từ chối dùng thuốc giảm đau. Vết cắt trên tay hắn không đang kể, dù cũng cần tới tám mũi khâu.
“Bốn thằng đàn ông mà không thể bắt được một con đàn bà,” Parrish nói, sôi sùng sục. “Bayne thậm chí còn không biết có chuyện gì xảy ra cho tới tận khi đã quá muộn để nhảy vào giúp. Tôi cực kì thất vọng với trình độ người của anh, Conrad, và với anh. Cô ta đã tóm được lúc anh bất lực, và giờ cô ta sẽ lại đi trốn. Với tất cả những người chúng ta có trong cái thành phố này, không một ai nhìn thấy cô ta. Cô ta chỉ là một người đàn bà non cơ; làm thế quái nào mà cô ta cứ trốn tránh được tôi suốt thế hả?” Hắn rống lên những câu cuối cùng, khuôn mặt đỏ bầm, cổ bạnh ra vì tức giận.
Conrad ngồi lặng lẽ. Hắn không biện hộ, nhưng ngay khi có thể, hắn sẽ tự mình chăm sóc Melker. Ngay khi phát hiện ra cô ta, thằng ngu đó đã chạy sầm sập tới chỗ chiếc xe tải mà không chờ những người khác vào chỗ. Nếu tất cả bọn họ đều tới chỗ cô ta một lúc, làm cô ta bất ngờ, thì cô ta đã không thoát được. Thay vào đó Melker đã cố tự bắt cô ta, và cô ta đã đá văng hắn ra.
Conrad cũng cực kì bực bội với bản thân; đáng lẽ hắn phải lường trước đến giờ này cô ta sẽ tự vũ trang cho bản thân rồi, nhưng thay vào đó hắn để cho mình bị bất ngờ, đầu tiên là vì con dao, sau là vì khẩu súng không hề rung rinh của cô ta. Cô ta không do dự, không hoảng hốt. Cô ta đã nói, “tao sẽ giết mày,” và lời cảnh báo là sự thật. Cô ta sẽ làm. Trong giây phút đó, nhìn sâu vào đôi mắt xanh thuần khiết của cô ta, hắn nhìn thấy sức mạnh mà không ai trong số họ lường trước được.
Hắn có thể níu giữ. Cô ta sẽ giết hắn, nhưng sự trì hoãn, và sự cản trở của cơ thể hắn sẽ trì néo cô ta, có thể dẫn tới kết quả cô ta bị bắt. Hắn đã chọn việc buông tay và giả vờ bất tỉnh. Hắn không muốn chết, hắn còn quá nhiều việc chưa làm. Hắn không muốn bất kì ai ngoài chính mình bắt Grace St. John, và hắn muốn ở một mình khi làm thế. Parrish sẽ không bao giờ biết chuyện gì xảy ra với cô ta. Để làm điều đó, mặc dù hắn đã đọc được biển số xe của cô ta, Conrad giữ nó cho riêng mình.
Thay vì dính dáng vào một cuộc điều tra rầy rà của cảnh sát, tất cả bọn họ đều lên xe và bỏ đi. Bất chấp cơn đau và việc mất máu, Conrad đã lái được xe tới nơi an toàn và sắp xếp việc chăm sóc y tế. Parrish đang giận dữ, vẫn còn chưa chú ý tới mảnh giấy Paglione đã nhặt trong bãi đỗ xe, mảnh giấy đã bay ra khỏi xe tải của Grace.
Mảnh giấy đang nằm trên bàn. Conrad vẫn chưa nhìn vào nó, nhưng ánh mắt hắn liên tục liếc về phía nó. Sau từng ấy tháng tìm kiếm cả Grace và tập tài liệu, một mảnh giấy đã rơi vào trong tay họ theo đúng nghĩa đen. Một mảnh giấy thì có thể quan trọng đến thế nào trong cả một tập tài liệu? Nhưng nó lôi kéo hắn, và hắn không thể ngừng liếc về phía nó vừa lo sợ lại vừa dự đoán.
Cuối cùng Parrish cũng chú ý rằng cơn thịnh nộ của hắn đã gần như bị lờ đi. Hắn nhìn theo ánh mắt Conrad và bước tới chộp lấy tờ giấy. “Cái gì đây?”
“Paglione đã nhặt được nó,” Conrad nói. “Nó bay từ trong xe tải của cô ta ra.”
“Nó là một vài ghi chú của cô ta,” Parrish nói, giọng điệu trở nên đăm chiêu. Hắn bước tới chỗ chiếc bàn và ngồi xuống, bật đèn lên. “Tôi không biết ngôn ngữ này. ‘C-u-n-b-h-a-I-a-c-h’ nghĩa là “sự ổn định,” ‘c-u-n-b-h-a-I-a-c-h-d’ nghĩa là “phán xử.” Tôi thật mừng được biết thế. Cái này chỉ là mấy thứ tạp nhạp. Chắc hẳn nó là một mật mã trong tập tài liệu. “Creag Dhu” cái này không có bất kì câu dịch nào bên cạnh. Rồi đến “sợ hãi,” và bên cạnh nó là “gleidhidh.” Cái này trông như là tiếng xứ Wales mà không có y và w.”
Conrad không bình luận, nhưng cảm giác lo sợ lại càng tăng lên. Hắn nhìn chằm chằm vào tờ giấy, nghe tiếng nhịp tim mình đập trong tai, thoi thóp trong vai. Có lẽ hắn đã mất nhiều máu hơn hắn tưởng, và sắp sửa ngất thực sự.
Parrish chìm vào im lặng, đầu hắn cúi trên mảnh giấy. Hắn là một người đàn ông có ăn học, thành thạo, đi đây đi đó nhiều. Hắn đã từng nhìn thấy ngôn ngữ này.
“Đây là tiếng Xen-tơ,” một lúc sau hắn nói, giọng hắn nhỏ lại. “Nó không phải là một mật mã. Dhu có nghĩa là “đen,” và tôi nghĩ creag có nghĩa là “đá” hay “cứng như đá.” “Đá Đen.” Hắn đột ngột đứng dậy, đôi mắt hắn nheo lại và căng thẳng. “Nghỉ ngơi đi, Conrad. Tôi sẽ cho dịch cái này. Cú trượt chân nhỏ của Grace có thể chính là thứ chúng ta đang cần.”