Lúc nàng tới được vùng ngoại ô của Eau Claire, Grace biết rằng nàng phải tìm gì đó để ăn. Nàng không đói, không hề đói, nhưng nàng có thể cảm nhận được mình đang ngày càng yếu.
Cái lạnh chẳng giúp được gì cả. Mùa xuân đã vén tà váy để lộ chiếc váy trong đầy hoa và lá của nàng, lùa mọi người vào một tâm trạng hi vọng háo hức rằng họ đã thấy điểm kết thúc của mùa đông, nhưng như mọi khi nàng ta chỉ đùa bỡn thôi, đồ quỷ cái. Grace không thể nhìn vào thói đỏng đảnh của thời tiết với cảm giác tự thoả mãn thông thường. Nàng liên tục rùng mình, mặc dù bây giờ các cơn rùng mình của nàng đang yếu dần, một minh chứng khác cho thấy cơ thể nàng cần thêm năng lượng. Ít nhất trời cũng không có tuyết. Nàng đã phải chống lại sự giảm thân nhiệt như cách tất cả những người lang thang trên đường phố thường làm, với giấy báo và túi ni lông, bất kì cái gì giữ cho nàng bớt toả nhiệt từ cơ thể. Rõ ràng phương thức thảm hại ấy không đến nỗi thảm hại lắm, bởi vì nó đã có hiệu quả; nàng vẫn còn sống.
Còn sống, nhưng ngày càng yếu đi. Nàng không thể tiếp tục như thế này. Việc thiếu cơ hội làm việc gặm nhấm nàng còn hơn cả cuộc sống bấp bênh hiện tại. Nếu nàng không thể làm việc, nàng không thể biết Parrish sẵn sàng giết chóc tất cả họ vì cái gì. Nàng đã luôn tin vào câu châm ngôn xưa rằng tri thức mang tới sức mạnh, và trong trường hợp này tri thức cũng là con đường trả thù tốt nhất của nàng. Nàng cần một căn cứ ổn định, những giờ làm việc dài không bị dán đoạn, điện. Pin máy tính của nàng chỉ chạy được cùng lắm là bốn giờ, và nàng đã dùng hết hai giờ trong đó rồi. Nàng thèm làm việc, thèm một phần của cuộc sống cũ mà nàng đã mang theo với nàng. Để làm được việc đó, nàng phải tái gia nhập xã hội văn minh, hay ít nhất là vào rìa của nó. Đã đến lúc nàng thực hiện những chiến lược của mình.
Nàng cần phải rửa ráy lần nữa trước khi đi vào bất kì cửa hàng nào. Nàng chọn ra một trạm dịch vụ khác, nhưng nàng đã học cách lọt qua tất thảy những người phục vụ. Thay vào đó nàng rời con đường và tiếp cận từ phía sau; nếu cửa phòng vệ sinh khoá, nàng sẽ đi tiếp tới khi tìm được một trạm không khoá nhà vệ sinh. Ít nhất một nửa trong số chúng sẽ không bị khoá, có lẽ là vì những người phục vụ không muốn bị làm phiền mãi vì họ giữ những chiếc chìa khoá. Tất nhiên, phần lớn những phòng vệ sinh để mở vô cùng bẩn thỉu, nhưng việc đó chẳng còn làm nàng thấy phiền nữa. Tất cả những gì nàng cần là một cái bồn cầu giật được nước và một bồn rửa mặt có nước.
Tìm ra một trạm dịch vụ như thế không mất thời gian lắm. Nàng bước vào trong căn phòng tối tăm hôi hám chật hẹp và bật đèn lên, một bóng đèn công suất thấp trần trụi thả xuống từ trên trần nhà, cách khỏi tầm với của bất kì ai muốn ăn trộm bóng đèn trừ khi họ mang một cái thang theo vào trong phòng vệ sinh. Hình ảnh của nàng bồng bềnh trong chiếc gương vằn vện, lấm tấm bẩn, và nàng nhìn đăm đăm vô cảm vào người phụ nữ rối bù, đôi mắt trũng sâu có quá ít điểm tương đồng với con người thật của nàng. Sau khi thực hiện nhu cầu cá nhân, nàng cởi quần áo và rửa ráy. Phòng vệ sinh chẳng có giấy cũng chẳng có xà phòng, nhưng sau khi phải đối mặt với sự thiếu hụt ấy lần đầu tiên nàng đã giải quyết vấn đề bằng cách thu nhặt cuộn giấy từ trạm kế tiếp, và nhặt một cục xà phòng dùng được một nửa từ một trạm khác. Hầu hết các nơi đều dùng nước rửa tay từ một cái vòi gắn vào tường, rõ ràng là để tránh những tên ăn trộm xà phòng nhan nhản ra đó, vì thế nàng cảm thấy may mắn khi tìm được một cục xà phòng như thế.
Nàng chải gọn tóc, tháo bím và hùng hổ gỡ rối mái tóc dài, gần như rên rẩm vì vui sướng khi những răng lược cào vào mái tóc dày. Tóc nàng bẩn đến nỗi nàng ghét phải chạm vào nó, nhưng việc gội đầu phải chờ thêm một ngày nữa. Nàng tết lại tóc với tốc độ của nhiều năm thực hành, thắt chặt phần đuôi tóc bằng một chiếc kẹp và tung bím tóc qua vai để nó đập vào lưng nàng.
Nàng chẳng làm được gì nhiều với quần áo của mình. Nàng thấm ướt một miếng giấy và chùi những chỗ bẩn thỉu nhất, nhưng kết quả được rất ít. Với một cái nhún vai âm thầm mà nàng không thể làm ba ngày trước, nàng ném miếng giấy vệ sinh vào trong thùng rác đầy chặt. Nàng đã làm những gì có thể. Trong cuộc sống có những thứ tồi tệ hơn quần áo bẩn, như là bị đầm mình dưới bùn, hay bị một gã đàn ông cáu tiết cố đá vào mạng sườn, hay bị những con chó trong khu vực xung quanh đuổi riết – hay là nhìn chồng và anh trai bị bắn chết.
Grace đã học cách đóng sập những kí ức cuối cùng đó lại bất kể khi nào chúng lẻn vào và đe doạ huỷ hoại nàng, và giờ nàng đang làm vậy, chuyển những suy nghĩ của nàng tới các vấn đề thực tế. Chỗ nào là nơi tốt nhất để mua sắm quần áo? Có lẽ là Kmart hay Wal-mart; chúng sẽ vẫn còn mở cửa, và không ai chú ý nàng mua cái gì.
Vấn đề là, nàng chẳng biết gì về Eau Claire, và thậm chí nếu nàng xác định được một cửa hàng nàng cũng không biết làm sao để tới đó.
Nàng bỏ qua việc bắt taxi vì như thế quá đắt. Cách khác duy nhất là hỏi đường. Ý tưởng đó khiến dạ dày nàng quặn lại vì sợ. Nàng đã không có bất kì liên hệ nào với con người kể từ khi chạm trán với gã phục vụ ở trạm dịch vụ. Ở một mình, tập trung vào việc sống sót, nàng đã không nói lời nào trong suốt hai ngày. Chẳng có ai để mà nói chuyện cùng, và nàng chưa bao giờ là loại tự nói chuyện với mình.
Mặc dù vậy đã đến lúc phá vỡ sự im lặng. Nàng tìm đường đến trạm, theo dõi phục vụ viên một lúc, và quyết định anh ta không phải loại người để nàng phá vỡ sự im lặng của mình. Nàng không thích vẻ ngoài của anh ta. Mặc dù anh ta mập lùn trong khi gã kia thì gày gò, nhưng có cái gì đó ở anh ta nhắc nhở nàng về cái nhìn trong mắt người đàn ông nọ khi gã cố đá nàng. Có lẽ là cùng hội cùng thuyền cả. Nàng sẽ không mạo hiểm chuyện đó.
Thay vì vậy nàng đi ngang qua cánh đồng về hướng con đường bên kia, cẩn thận đi trong bóng tối. Nàng vấp phải một hàng rào mắt cáo, nhưng may thay: nó không có gai cũng không có điện. Nó trùng xuống, và rung rinh không chắc chắn dưới sức nặng của nàng khi nàng trèo qua. Tình trạng của hàng rào cho thấy không có con vật nào trên cánh đồng, mặc dù nàng thực sự không trông chờ có gia súc gần thị trấn như vậy. Tuy nhiên, nàng sẽ vẫn an tâm phần nào nếu biết mình không phải đột nhiên đối mặt với một con bò đực bực bội.
Khi nàng trèo qua hàng rào để xuống phía bên kia cánh đồng, một con chó sủa bên phải nàng. Ngay khi chân nàng chạm đất lập tức nàng quẹo trái, bởi vì đôi khi bọn chó im ngay và mất hứng thú nếu nàng ra khỏi lãnh địa của nó. Cách đó không hiệu quả lần này. Con chó sủa còn dữ dội hơn, và âm thanh tới gần hơn. Nàng cúi xuống và quét tay qua nền đất tới khi chạm được vài cục đá. Con chó vô tội, chỉ đang làm nhiệm vụ thiên bẩm của nó là sủa vào kẻ đột nhập; nàng không định làm đau con chó, nhưng nàng cũng không muốn bị cắn. Một hòn đá nẩy bật gần nó cũng thường đủ khiến con vật lùi lại. Nàng ném một hòn đá về phía tiếng sủa và nói “Git[21]!” bằng giọng trầm và gay gắt hết sức có thể, dậm chân xuống để tăng thêm phần nhấn mạnh.
Nàng gần như không nhìn rõ cử động trong bóng tối khi con vật lùi lại, tránh xa khỏi động thái quyết liệt của nàng. Nàng bước tới một bước và nói “Git!” lần nữa, và con chó rõ ràng đã quyết định rút lui là hành động tốt nhất. Nó bỏ đi một hướng, và Grace bỏ đi theo hướng kia.
Chà, ít nhất nàng cũng đã phá vỡ sự im lặng của mình, thậm chí cả khi đó là nói với một con chó.
*
“Tôi nghĩ tôi đã thấy cô ta,” Paglione báo cáo trong điện thoại di động. “Tôi khá chắc chắn đó là cô ta. Tôi chỉ thoáng nhìn thấy một ai đó lẻn vòng ra sau trạm dịch vụ, anh biết đấy?”
“Có nhìn thấy cô ta đi đâu không?” Conrad khởi động xe. Hắn đã chọn đường cao tốc số 12 và 40 là những con đường chắc chắn nhất để cô ta vào Eau Claire; hắn chọn theo dõi đường 12 bởi vì nó đông đúc hơn, để cho Paglione canh đường 40. Hai con đường giao nhau chỉ cách chỗ hắn đang đứng vài dặm.
“Tôi mất dấu cô ta. Tôi nghĩ cô ta đi tắt qua một cánh đồng. Tôi không nhìn thấy cô ta lại nữa.”
“Cô ta hướng về Eau Claire. Cứ đi theo hướng ấy. Cô ta phải băng qua xa lộ hay con phố một lần nữa ở đâu đó.”
Conrad gập chiếc điện thoại và đặt nó nằm bên cạnh hắn ta trên ghế hành khách. Niềm vui thích âm ỉ chảy qua người hắn. Hắn đang ở gần cô ta, hắn biết thế. Hắn có thể cảm nhận được cô ta, một con mồi thú vị bởi sự lẩn tránh của cô ta quá là khó lường. Nhưng hắn sẽ có cô ta nhanh thôi, và hắn sẽ hoàn thành việc của mình. Hắn sẽ thành công một lần nữa. Hắn để bản thân cảm nhận niềm vui sướng ngọt ngào một lát, rồi kiên quyết gạt bỏ cảm xúc đó sang bên. Hắn không để bất kì điều gì xen vào công việc.
Một chiếc biển Kmart chọc lên trời đêm, kéo Grace về phía nó. Nàng đã băng qua nhiều cánh đồng và những bãi đất trống, vượt qua nhiều khoảng sân, và đối mặt với vài con chó nữa. Những con vật đó đều là vật nuôi chứ không phải chó canh gác, nhưng nàng vẫn phải vất vả tìm đường qua những mê cung nhà cửa dày đặc bất tận mà không lôi kéo bất kì sự chú ý không cần thiết nào tới nàng.
Ở đằng sau bãi đỗ xe Kmart lù lù một thùng đựng đồ của Đội quân Cứu tế, xếp quanh là những đồ đạc bị bỏ đi và những thứ lặt vặt bị hỏng. Nàng đi vòng qua thùng đồ vì đã học được rằng có vô số người thường lượm lặt trong đám đồ ủng hộ và lấy đi những thứ tốt nhất, chỉ để lại đống rác rưởi. Nàng cần một chỗ an toàn để cất túi của nàng, nhưng không hề định giấu nó trong đống đồ quyên tặng.
Nàng bước vòng ra phía sau toà nhà, cẩn thận ở trong bóng tối. Cạnh khu vực tiếp nhận là một chồng hộp các tông rỗng, nhưng khu vực đó được những chiếc đèn khí chiếu sáng. Đó sẽ là một nơi giấu đồ lý tưởng, nếu không có đèn. Nàng tiếp tục đi vòng quanh toà nhà tới khu vực vườn và hàng rào cỏ, với những chậu hoa và túi đựng hạt giống cây được chất cao dựa vào hàng rào mắt cáo. Buổi tối cửa ra đã đóng, nhưng có vài người vẫn gồng mình trước cái lạnh để chọn ra những chậu nhựa giả chậu gốm mới nhất.
Cúi người đằng sau một chồng túi hạt giống, Grace cẩn thận đặt chiếc túi ni lông dựa vào hàng rào. Vỉa hè màu đen, và bóng tối dày đặc đủ để làm cho chiếc túi gần như là vô hình trừ khi có ai vấp phải nó. Sự sợ hãi vặn hết ruột gan nàng trước ý nghĩ để cho chiếc máy tính rời khỏi tầm tay nàng, và nàng lom khom ở đó, nhìn quanh một lần nữa thật lâu để đảm bảo không có ai đang theo dõi nàng. Có một hàng cây nhỏ ở đằng sau nàng, và những con dế đã bắt đầu bản hoà âm thường lệ của chúng, nói cho nàng biết không có ai di chuyển trong đám cây cả.
Eau Claire không phải là Minneapolis, nàng tự nói với mình. Nó chỉ bằng một phần sáu diện tích của Minneapolis-St.Paul. Thành phố cũng có bọn lang thang, nghiện hút, và những kẻ vô gia cư, nhưng nàng chắc sẽ ít bị chú ý hơn nhiều ở đây. Bãi xe Kmart không thực sự là môi trường thuận lợi của những việc phi pháp, đặc biệt là khi đã gần tới giờ đóng cửa thế này.
Nàng không thể chờ đợi thêm nữa. Nàng đứng dậy và bước một cách có mục đích quanh khu vực hàng rào, không nhìn lại, bước những bước dài như thể nàng có mọi quyền lợi trên đời này để có mặt ở đây, mà thực là vậy. Nàng sẽ không ăn trộm thứ gì hết, nàng sẽ trả bằng tiền mặt trong túi nàng.
Một nhân viên đứng ở cửa theo dõi các khách hàng đi vào. Anh ta bắn cho Grace một cái nhìn cứng rắn và quay sang bàn dịch vụ, và nàng nghi là anh ta sẽ cho một nhân viên khác theo dõi nàng để chắc chắn nàng không ăn cắp cái gì.
Nàng kéo một chiếc xe đẩy ra khỏi hàng. Cứ để ai đó đi theo nàng đi; nàng chẳng quan tâm.
“Xin chú ý, thưa quý khách.” Tiếng thông báo vang lên trong loa. “Cửa hàng sẽ đóng cửa trong vòng mười lăm phút nữa.
Đi nhanh hết sức có thể, nàng đẩy chiếc xe về phía quầy bán quần áo nữ. Nàng tóm một chiếc quần jean bằng cỡ của nàng, một chiếc áo len, một chiếc áo khoác vải din, rồi ào vào khu vực đồ lót. Một lố quần lót thảy vào trong xe đẩy, tiếp theo là một lố tất. Nhìn vào biển hiệu treo trên đầu trong cửa hàng, nàng xác định quầy bán giầy, và đi lại phía sau cửa hàng; trên đường đi nàng bước qua khu vực quần áo đàn ông, và nàng tóm lấy một chiếc mũ bóng chày khi nàng đi qua. Lúc tới được quầy bán giầy, nàng nhanh chóng chọn một đôi giày thể thao màu trắng. Chúng sẽ dễ đi bộ hơn đôi giày lười khó lòng dùng cho đi bộ của nàng.
Okay, giờ tới túi xách. Túi được bán ở đằng trước cửa hàng, kẹp giữa quầy đồ thể thao và quầy bán thuốc. Grace quan sát quầy hàng thật nhanh và chọn một chiếc túi đeo chéo cỡ vừa rẻ tiền nhất. Trên đường ra quầy thanh toán, nàng cũng tóm lấy bàn chảy đánh răng, kem đánh răng, và một lọ dầu gội đầu.
Năm phút sau khi đi vào trong cửa hàng, nàng lái chiếc xe đẩy tới quầy thanh toán. Nàng không nhìn quanh để xem có ai đang nhìn không. Quầy thanh toán chất đầy hộp kẹo và kẹo cao su. Dạ dày nàng cuộn lên, và nàng nhìn chằm chằm vào đống kẹo. Nàng phải ăn gì đó, và nàng thích sô cô la, nhưng vì lý do gì đó ý nghĩ về kẹo làm nàng phát bệnh. Cơn buồn nôn quặn lên trong bụng nàng, khiến nàng phải nuốt xuống cơn lũ nước bọt có nguy cơ trào lên.
Đậu phộng thì không ngọt. Đậu phộng ngon và mặn. Người khách hàng phía trước nàng vừa trả tiền xong, và Grace đẩy chiếc xe tới trước. Nàng nhặt một túi đậu phộng và vứt nó lên trên quầy, rồi bắt đầu lấy những đồ của mình ra.
Người thu ngân tẻ nhạt, trông buồn ngủ nhập số hàng, nhét chúng vào một chiếc túi ni lông nhăn nhúm… “Một trăm ba mươi hai đô mười bảy xen,” cô ta lẩm bẩm.
Grace nút khan. Một trăm ba mươi hai đô la! Nàng nhìn vào hai túi nhựa và chiếc túi vải. Nếu nàng cần lẩn trốn và đi lại hiệu quả hơn, nàng cần từng thứ ở trong đó. Nàng kiên quyết thọc tay vào túi và lôi ra một tệp tiền, đếm bảy tờ hai mươi. Khi nàng nhận tiền thừa, nàng cầm túi vải một tay và hai túi ni lông ở tay kia, và dùng cơ thể mình để đẩy chiếc xe về hàng xe đẩy đang chờ sẵn những người đi mua sắm của ngày mai.
Có một chiếc máy bán hàng tự động ở đằng trước cửa hàng. Grace mua một chai nước ngọt và thả nó vào trong một chiếc túi.
Tim nàng đập thình thịch khi nàng đi vòng qua hàng rào và vào khu vực vườn. Giờ nó trống trải, trừ một nhân viên cửa hàng đang che đám cây. Khi anh ta quay lưng lại nàng nhanh chóng cúi xuống sau chồng bao hạt giống. Thả chiếc túi vải ra, nàng quét bàn tay rảnh trên vỉa hè tối đen, lạnh lẽo, tìm kiếm chiếc túi ni lông của nàng. Những ngón tay nàng chỉ chạm được sỏi và đất bùn. Nỗi kinh hoàng làm nàng bất động. Vậy là đã có ai đó theo dõi nàng, và ăn cắp chiếc túi ngay khi nàng biến vào trong cửa hàng sao? Nàng ngồi xổm trong bóng tối, mắt căng ra, hơi thở mạnh và gấp gáp khi nàng cố suy nghĩ. Nếu ai đó đã theo dõi nàng, hắn ta hẳn là trốn trong đám cây.
Hắn có trở lại đó chưa? Nàng có thể tìm được hắn không? Nàng sẽ làm gì, tấn công bất kì người nào nàng thấy mang một cái túi à? Câu trả lời là đúng, nếu phải làm thế. Giờ nàng không thể nào từ bỏ được.
Nhưng nàng đã đi đủ xa xuống hàng rào chưa? Nàng có ở đúng vị trí chưa? Những ngọn đèn sáng của cửa hàng đã làm hỏng tầm nhìn ban đêm của nàng, và có lẽ nàng đã đánh giá sai khoảng cách từ cái góc nàng để lại chiếc túi. Cẩn thận đặt cái túi Kmart rột roạt chứa quần áo mới của nàng sang bên, nàng bò dọc hàng rào, không thực sự dám hi vọng nàng chỉ đơn giản đã tính lầm khoảng cách nhưng dù thế nào cũng vẫn thử.
Bàn tay vươn ra của nàng chạm vào túi ni lông. Sự nhẹ nhõm trào qua nàng, khiến nàng yếu đi. Nàng cúi thấp hơn dưới vỉa hè, kéo cái sức nặng làm vững dạ vào trong tay nàng. Mọi thứ vẫn ở đó, máy tính, đĩa mềm, tài liệu. Rút cuộc nàng đã không để mất chúng.
Nàng gạt bỏ sự yếu đuối của mình đi. Nàng nhanh nhẹn thu nhặt cái túi vải và kéo khoá, nhét cả quần áo mới lẫn máy tính của nàng vào trong đó. Rồi nàng lẩn vào trong hàng cây, ẩn mình trong bóng đêm trước khi nàng dám dừng lại để ăn gói đậu phộng và uống chai nước ngọt.
Sau khi đã ăn uống và nghỉ ngơi, nàng nhìn chằm chằm qua hàng cây vào cái biển sáng trưng đang mời gọi nàng. Kmart đã đóng cửa, nhưng dưới phố vẫn còn cửa hàng thức ăn nhanh và cửa hàng thực phẩm sáng đèn. Ý nghĩ về một chiếc hăm-bơ-gơ khiến nàng buồn nôn, nhưng quầy thực phẩm…nàng có thể mua một ổ bánh mỳ và một thanh bơ lạc, những nguyên liệu để làm được rất nhiều bữa ăn, bản thân việc mua chúng cũng rất đỗi bình thường không ai sẽ nhớ nàng hay nhớ nàng đã mua cái gì.
Hãy làm luôn trong đêm nay đi, nàng nghĩ. Nàng đã làm quá nhiều: nói chuyện, dù chỉ với một con chó, đi vào giữa đám con người lần nữa, mua quần áo. Những khách hàng thường mua thực phẩm vào ban đêm là những người lạ khác với đám đông ban ngày; nàng thường nghe những người thu ngân nói chuyện về những thứ quái gở xảy ra vào ban đêm. Nàng sẽ chỉ là một trong những quái nhân ấy, và sẽ không ai chú ý tới nàng. Grace quả quyết nhấc chiếc túi xách lên và bắt đầu đi bộ xuống phố tới cửa hàng thực phẩm.
Tuy vậy rõ ràng nàng không thể đi vào một cửa hàng mà lại mang theo túi. Nàng đứng ở bên kia con phố và nghiên cứu tình hình. Con phố ở đằng sau cửa hàng là khu dân cư, đầy nhà cửa và xe ô tô. Một hàng rào mắt cáo cao mười feet (3m) chạy vòng quanh ba mặt của cửa hàng. Ở bên trái cửa hàng là khu vực tiếp nhận và một chồng hộp các tông khổng lồ, xếp lỏng chỏng, những ngôi nhà dành sẵn cho một kẻ nghiện rượu, hay một người phụ nữ đang trốn chạy. Thậm chí cả một chỗ trú chân bằng thùng các tông vẫn tốt chán trong những đêm lạnh giá.
Nàng nghĩ về cái áo khoác vải din trong túi xách, và khẽ cười không chút hài hước với bản thân. Nàng bị lạnh; tại sao nàng còn chưa chịu mặc áo khoác vào? Một lý do ngớ ngẩn hiện ra. Nàng bẩn thỉu, và chiếc áo khoác còn mới. Nàng không muốn mặc nó vào cho đến khi nàng được tắm và thay bằng bộ quần áo mới, sạch sẽ của nàng. Những điều được dạy dỗ cả đời vẫn còn dai dẳng bám lấy nàng kể cả khi nàng đã phải chịu lạnh suốt ba ngày rồi.
Ngày mai, nàng tự nói với mình. Bằng cách nào đó nàng sẽ tắm được, một lần tắm thực sự, và gội đầu. Ngày mai nàng sẽ mặc quần áo mới vào.
Đêm nay, nàng chỉ phải mua đồ làm bánh sandwich, và lên đường.
Một sự cảnh giác kì cục nào đó ngăn nàng khỏi qua đường ngay lúc ấy; thay vào đó nàng vòng tới một ngã rẽ, vòng qua đèn, rồi đi ngược trở lại. Nàng cứ đi ở phía đằng sau bãi đỗ xe, lẩn lút qua những thùng rác bốc mùi, trượt vào trong bóng cây mỗi khi có thể. Cuối cùng nàng đã ở đằng sau cửa hàng thực phẩm, nhưng có cái gì đó khiến nàng khó chịu. Có lẽ là tại hàng rào, hạn chế lựa chọn hướng thoát thân của nàng, nếu việc thoát thân trở nên cần thiết. Nàng đã định để lại túi ở đó nhưng rồi đổi ý, thay vào đó mang nó ra phía trước. Không có nhiều xe ô tô đỗ ở đằng sau, có nghĩa là tất cả nhân viên cửa hàng đều đỗ xe ở đằng trước, có lẽ dọc theo một phía trong bãi đỗ để dành những vị trí trung tâm đáng ao ước nhất cho khách hàng.
Grace núp ở một bên toà nhà, chờ tới khi bãi đỗ xe tạm thời không có khách hàng cả đi lẫn đến, trước khi cúi xuống tới khi đầu nàng chỉ vừa bên dưới cốp xe và phóng về bên có xe đỗ. Ngồi xổm ở đằng trước chiếc xe đầu tiên, nàng đặt bàn tay lên cốp xe và thấy nó lạnh băng; chiếc xe này đã ở đây hàng giờ rồi, vậy là nàng đã đoán đúng về chuyện các nhân viên đỗ xe ở đâu. Nàng trượt cái túi xuống dưới chiếc xe, giữa hai bánh trước. Cửa hàng đã không đóng cửa lúc chín giờ, nên chắc nó sẽ mở cửa tới mười giờ là ít nhất, nếu không phải là suốt đêm, và các nhân viên sẽ còn ở lại muộn hơn thế. Nàng sẽ trở lại trước người chủ chiếc xe này rất lâu.
Như một sự phòng bị nữa, nàng không ngay lập tức đứng thẳng dậy và đi về phía cửa hàng. Thay vào đó nàng bò ngang theo hàng xe tới chỗ hai chiếc cuối hàng. Rồi nàng di chuyển giữa chúng, rồi đứng dậy, hít một hơi dài, và đương đầu với việc lộ diện công khai trong cửa hàng thực phẩm.
*
“Thấy rồi,” Paglione báo cáo. “Tôi nghĩ đã thấy cô ta đi bộ xuống phố, nhưng rồi tôi mất dấu và đột nhiên cô ta lại hiện ra ở bãi đỗ xe của cửa hàng thực phẩm. Giờ cô ta đang ở trong đó.”
“Cho tôi địa chỉ,” Conrad bình tĩnh nói. Tới lúc này, hắn và Paglione đã biết Eau Claire khá rõ, sau khi đã trải qua hơn một ngày chỉ lái xe khắp các phố, quan sát bản đồ, ghi nhớ quy hoạch của thành phố.
Khi hắn nghe giọng Paglione trong tai, hắn nhận ra hắn chỉ cách cửa hàng thực phẩm đó chưa tới một phút.
Hắn mỉm cười.
*
Grace nhanh chóng di chuyển qua những lối đi sáng trưng, chỉ tập trung vào hai thứ và hai thứ mà thôi: bánh mỳ và bơ lạc. Nàng chẳng hề thèm ăn nữa, và không một món hàng được sắp đặt cẩn thận nào khiến nàng chú ý được. Nàng sẽ mua thức ăn bởi vì nàng cần phải ăn, nhưng đó là lý do duy nhất.
Như mọi khi, bơ lạc ở cùng dãy với sốt cà chua và mù tạt. Nàng chộp lấy thanh bơ to nhất, rồi tiến tới khu vực bán bánh mỳ, nhưng bất ngờ bị một nhận thức làm chệch hướng, đó là nàng cần một con dao để trét bơ lạc. (đúng là bọn Tây cách suy nghĩ cũng cứng ngắc quá đi mất, lấy ngón tay mà trét có sao đâu :D) Một hộp dụng cụ bằng nhựa nháng qua tâm trí nàng; đó là thứ mà trước đây nàng sẽ mua, nhưng một món đồ bằng nhựa mong manh, được thiết kế để dùng một lần, sẽ nhanh chóng bị gãy và nàng sẽ phải mua một cái khác. Sẽ rẻ hơn nhiều nếu nàng chỉ việc mua một con dao thực sự. Nàng lùi lại dãy hàng trước, nơi nàng tìm được đồ dùng nhà bếp. Có một hàng các loại dao có vỏ nhựa treo trên giá. Nàng lấy con đầu tiên nàng thấy không có răng cưa, bởi vì rửa bơ lạc khỏi những cái răng cưa nhỏ tí rất là nhọc công. Lựa chọn của nàng là một con dao gọt hoa quả với lưỡi dao dài bốn inch (12cm), và hàng chữ in ở miếng giấy đằng sau đảm bảo nó rất sắc.
Dao và bơ lạc trong tay, nàng nhanh chóng tới quầy bánh mỳ và tóm lấy ổ bánh cỡ bự.
Nhìn vào đồng hồ, nàng thấy rằng nàng đã ở trong quầy hàng một phút hai mươi giây, một kỉ lục đối với nàng, nhưng như thế có nghĩa là máy tính của nàng đã bị bỏ lại không người bảo vệ trong tám mươi giây.
Có hai bàn thanh toán đang mở. Ở một bàn, một chàng trai đang bỏ lên một ít món ăn dùng cho lò viba, một lố bia lon, và một cái túi khoai tây chiên cỡ vừa, những thứ khá bình thường với một chàng độc thân. Ở bàn kia, một người lớn tuổi lịch lãm đang cẩn thận đếm tiền cho một lọ aspirin. Grace chọn bàn thứ hai, đặt đồ của nàng lên băng chuyền ngay khi thu ngân đưa hoá đơn cho ông già, người đang cười rất ngọt ngào.
“Vợ tôi bị đau đầu,” ông giải thích, sản phẩm của thời xưa khi sự thân thiện với người lạ là thứ được trông đợi, chứ không phải sợ hãi. “Chẳng có lấy một viên aspirin trong nhà. Không thể hiểu được. Bà ấy thường cất cả đống cái này cái kia, cho đủ loại bệnh mà cơ thể phát sinh ra, nhưng đêm nay lại chẳng có đến một viên aspirin.” Ông quay đầu và nháy mắt với Grace, đôi mắt ánh lên vui vẻ. Ông không phiền khi làm những việc vặt này, thấy hữu ích.
Nhân viên thu ngân nhanh nhẹn nhập tiền ba món hàng trong khi người đàn ông lớn tuổi nhét ví vào trong túi của ông. “Mười hai đô ba mươi bảy xen. Giết một cái cây hay làm nghẹn cổ một con chim?”
Grace nháy mắt. “Tôi – cái gì cơ?” Nàng đưa ra mười ba đô la.
“Túi giấy hay túi ni lông?” người thu ngân phiên dịch, mỉm cười một chút, và người đàn ông cười khúc khích khi ông ta bước đi.
“Túi ni lông,” Grace nói. Ca ban đêm chắc chắn là thoải mái hơn một chút. Nàng cảm thấy một chút xíu hài hước, một dấu hiệu cuộc sống trong trái tim và trí não u sầu của nàng giống như một nhịp tim nhỏ bé, mong manh chỉ ra nàng vẫn còn đang sống, một cách tương đối. Môi nàng cong lên không chủ đích, nụ cười miễn cưỡng mờ đi ngay khi nó hình thành, nhưng trong một giây cuộc sống đã ở đó. Nàng quay đầu nhìn về phía người đàn ông lớn tuổi khi ông tới cánh cửa tự động, và qua hai cửa kính lớn nàng nhìn thấy hai người đàn ông ra khỏi chiếc xe Dodge màu be đậu ở trung tâm bãi đỗ xe.
Người đàn ông gần cửa hàng nhất dừng lại và chờ người kia bước vòng qua xe ô tô, rồi họ cùng nhau bước về phía cửa hàng. Một người đàn ông trông u ám, cơ thể mạnh mẽ, cái đầu trông gần giống như khỉ đột; người kia có kích cỡ trung bình, mái tóc nâu bình thường, rất… bình thường. Quần vải và áo khoác, không bảnh bao cũng không sờn rách. Cả hai người đều không nổi trội trong đám đông, thậm chí cả gã người khỉ. Anh ta chỉ là một gã khác nữa đầu tóc hơi bờm xờm, hơi kềnh càng, không có gì bất thường.
Nhưng họ đang cùng nhau bước đi theo kiểu duyệt binh, như thể họ có một mục đích chắc chắn, một nhiệm vụ.
“Tiền thừa của cô là sáu mươi ba xen.” Grace lơ đãng đỡ lấy tiền thừa và trượt nó vào trong túi. Những nhà khảo cổ học nghiên cứu rất nhiều về nhân chủng học, bởi vì hai thứ ấy cùng song hành trong việc tìm hiểu con người ta đã sống như thế nào, và Grace đã sống cùng với hai nhà khảo cổ học, anh trai và chồng nàng, đã lắng nghe rất nhiều cuộc trò chuyện của họ trong suốt những năm qua.
Hai người đàn ông, bước đi cùng nhau trong một kiểu có chủ ý. Đàn ông không làm như thế trừ khi họ đang làm việc cùng nhau như một đội, hướng tới một đích đến cụ thể nào đó. Việc này khác với kiểu thông thường, kiểu bước-đi-cùng-nhau-nhưng-không-đi-với-nhau của đàn ông, những người không muốn gửi một tín hiệu sai lệch tới bất kì người phụ nữ nào đang nhìn họ.
Nàng chộp chiếc túi khỏi tay người thu ngân thảng thốt và nhào trở lại trong cửa hàng. Người thu ngân nói “Này!” nhưng Grace không do dự, chỉ liếc thật nhanh về phía hai người đàn ông chứ không phải người thu ngân, lúc này bọn họ chắc phải nhìn nàng bởi vì họ đã bắt đầu chạy.
Nàng thụp xuống sàn và bò qua một lối đi, biết rằng hai người không thể nhìn thẳng vào chỗ đó từ hướng vào của họ. Tim nàng tăng nhịp đập, nhưng kì lạ là nàng không hề cảm thấy sợ, chỉ cảm thấy sự bức bách tăng lên. Nàng bị tóm trong một khu vực kín bưng, bị hai người đàn ông theo đuôi, những kẻ có thể bắt được nàng trong thế gọng kìm trừ khi nàng di chuyển thật nhanh. Cơ hội vượt thoát họ của nàng rất nhỏ, bởi vì chắc họ là người của Parrish, và Parrish sẽ không ngần ngại ra lệnh bắn nàng từ phía sau.
Một người phụ nữ đẩy chiếc xe hàng vào lối đi ở tít đầu bên kia, hoàn toàn tập trung vào những dãy nước ngọt. Túi xách của cô ta đặt hờ hững trên ghế cho trẻ em, một chiếc áo len đỏ vắt qua đó.
Grace đi xuống, không chạy nhưng đi thật nhanh. Người phụ nữ không chú ý chút nào; cô ta quay người để lấy một hộp nước ngọt, và khi Grace đi ngang qua nàng nhấc chiếc áo ra khỏi chỗ để của nó.
Nàng nhanh chóng rẽ vào hàng tiếp theo và mặc áo len vào, để tóc ở trong áo. Bím tóc dài của nàng quá nổi bật, nhưng chiếc áo len lại có tác dụng ngược, bởi vì lúc nãy nàng đã không mặc áo len và nàng hi vọng rằng ánh mắt của hai gã đàn ông sẽ trượt qua bất kể cái gì quá bắt mắt như thế.
Nàng treo cái túi ni lông vào cánh tay như một chiếc ví và bình tĩnh đi ra phía trước cửa hàng. Nàng điều chỉnh nét mặt để khơi gợi tính thụ động của người trông cửa hàng, tỏ vẻ săm soi những giá hàng khi nàng đi qua chúng.
Ngay phía trước, nàng nghe bảo vệ đang nói chuyện với ai đó, có thể là một người quản lý ban đêm, rằng một phụ nữ đã trở vào trong cửa hàng thay vì đi ra như người bán hàng đã trông đợi.
Một người đàn ông, bề ngoài bình thường, gã tóc nâu, đi ngang qua phía trước lối đi. Ánh mắt gã gần như không chạm vào Grace, bỏ qua ngay từ chỗ chiếc áo len đỏ. Tim nàng nhảy lên cổ họng, nhưng nàng giữ nhịp độ bình thản, không vội vã. Da nàng sít lại, mỏng manh, không chút bảo vệ trước một viên đạn. Gã đàn ông đã ra khỏi tầm nhìn nhưng có lẽ hắn nhạy bén, có lẽ hắn nhìn thấu qua lớp nguỵ trang nghèo nàn của nàng và đơn giản là đang chờ nàng ở đằng trước dãy, ở ngay ngoài tầm nhìn của nàng. Có lẽ nàng đang bước thẳng vào cái bẫy chết người.
Chân nàng yếu ớt; hai đầu gối run rẩy. Ba bước nữa đem nàng ra khỏi dãy hàng, tới trước khu vực thanh toán. Nàng không quay đầu, nhưng tầm nhìn ngoại vi của nàng bắt được cử động của gã đàn ông, bước xa khỏi nàng khi hắn nhìn xuống từng lối đi. Chạy đi! Bản nàng của nàng là tăng tốc, nhưng đôi chân nàng quá run. Trí óc nàng kéo nàng lại, thì thầm bảo nàng từ tốn, rằng mỗi giây không bị chú ý là mỗi giây nàng có thêm để lẩn trốn. Những chiếc xe đẩy đã được đẩy ra để chắn những bàn thanh toán đã đóng, nàng đẩy một chiếc sang bên, trượt vào khoảng cách hẹp tạo cho các khách hàng lối ra. Nàng rẽ sang trái, tới hai cánh cửa gần hàng xe ô tô nhất nơi nàng đã bỏ lại chiếc máy tính. Cánh cửa tự động mở ra với một tiếng xì hơi và nàng bước ra cái giá lạnh bên ngoài, tim đập thình thịch, không tài nào tin được nàng đã thành công. Nhưng cùng lắm nàng cũng chỉ kiếm được khoảng một phút mà thôi.
Nàng chạy tới hàng xe của nhân viên, lao đầu vào chỗ trú ẩn. Nằm xuống vỉa hè, nàng bò xuống dưới gầm xe, ém mình cùng với chiếc máy tính ở giữa hai bánh trước.
Những viên sỏi sắc lẻm đâm vào người nàng, thậm chí qua lớp quần áo. Mùi xăng dầu, mùi máy móc, dường như phủ lên mũi nàng một lớp dầu mỡ. Nàng nằm im, lắng nghe tiếng hai cặp chân.
Chúng đến trong vòng mười giây, di chuyển hơi nhanh, nhưng những gã này rất chuyên nghiệp. Chúng sẽ không làm gì thu hút sự chú ý không cần thiết. Chúng không la hết, rõ ràng còn chưa kéo vũ khí ra, chúng chỉ đơn giản là tìm kiếm. Grace lắng nghe tiếng bước chân lại gần rồi đi xa, và nàng rúc vào bánh xe gần hơn, co rúm lại thành một quả bóng nhỏ hết sức có thể. Chúng đang đi lên đi xuống bãi đỗ xe, cố xác định nàng trong những chiếc xe nằm rải rác.
“Tôi không thể tin là cô ta lướt qua chúng ta,” một giọng nói, âm điệu hơn buồn bực.
“Cô ta đã chứng tỏ sự khéo léo không ngờ,” giọng thứ hai, trầm hơn trả lời. Có chút chuẩn mực trong cách nói của hắn, một sự cố ý như thể người nói nghĩ về mọi lời hắn ta thốt ra.
Chúng còn nói cái gì đó nữa nhưng lời lẽ không phân biệt được, như thể người nói đang bước xa khỏi chỗ nàng. Một lát sau giọng nói rõ ràng hơn.
“Cô ta lừa được ta rồi. Trời, tôi không thể tin được. Cô ta chỉ liếc mắt một cái và chuồn luôn. Chắc hẳn cô ta đã chuồn ra khu vực nhận hàng, bất kể thằng nhóc ở đó đã nói sao về chuyện chẳng có ai đi ra.”
“Có thể, có thể không.” Giọng thứ hai vẫn nhẹ nhàng, gần như dửng dưng. “Anh nói cô ta mang theo một chiếc cặp khi anh nhìn thấy cô ta trên phố.”
“Phải.”
“Lúc nãy cô ta không mang.”
“Chắc hẳn cô ta đã giấu nó vào đâu đó. Anh cho là cô ta sẽ trở lại lấy nó?”
“Không nghi ngờ gì nữa. Cô ta sẽ phải giấu nó ở chỗ khá gần, nhưng vị trí phải đủ an toàn để cô ta cảm thấy có thể bỏ mặc nó ở đó trong lúc đi vào cửa hàng.”
“Giờ chúng ta làm gì đây?”
“Trở lại vị trí quan sát, và ngừng việc bàn thảo kế hoạch ở chỗ công cộng.”
“Ừ, phải.” Một chiếc ô tô trờ tới, có lẽ là chiếc Dodge màu be, nhưng Grace không di chuyển. Việc chúng rút lui có thể là một mẹo; chúng có thể đỗ xe ở đâu đó gần đây và đi bộ trở lại, chờ nàng tự hiện thân. Nàng nằm trên vỉa hè lạnh buốt, lắng nghe tiếng vài khách hàng đến và đi. Lượng a-đrê-na-lin trong người nàng bắt đầu tụt xuống, khiến nàng lịm đi. Chiếc áo len khá dày; giờ nàng cảm thấy ấm áp hơn cả ba ngày trước, và đi cùng với sự ấm áp là cảm giác buồn ngủ. Hai mí mắt nàng nặng trịch, nàng cố chiến đấu với nó. Nàng có thể nghỉ ngơi, nhưng không thể lơ là.
Cơ thể nàng lại có chính sách riêng của nó. Ba ngày ba đêm vật lộn, gần như không nghỉ ngơi, không ăn uống, và những giây phút kinh hoàng bao trùm lên nỗi tuyệt vọng sâu sắc, đang lần lượt tác động lên nàng. Nàng kiệt sức và yếu ớt, đã bị kéo căng đến giới hạn. Một giây trước nàng còn thức, chống lại cơn buồn ngủ, giây sau nàng đã thua.
Cửa hàng thực phẩm đóng cửa lúc nửa đêm, và ánh đèn đột ngột tắt ngóm của bãi đỗ xe đánh thức nàng. Nàng nằm thật im, đã tỉnh ngủ nhưng còn chưa biết mình đang ở đâu. Khung cảnh xung quanh nàng rất lạ lùng, nàng bị lèn trong cái gì đó to lớn và tối đen và có mùi kinh khủng, như là mùi dầu máy… nàng đang ở dưới gầm xe ô tô. Nhận thức ập vào nàng và trong cơn hoảng loạn nàng nhìn ra xung quanh, nhưng không có ai rời khỏi cửa hàng cả. Các nhân viên cửa hàng chắc hẳn đang đóng cửa, có lẽ lau dọn gì đó, trước khi họ rời khỏi.
Mặc dù một cái liếc thoáng qua đồng hồ cho nàng biết giờ, nàng chẳng biết mình đã ngủ bao lâu, bởi vì nàng không biết nàng đã nằm ở đây bao lâu trước khi ngủ gật. Sự bất cẩn làm nàng sợ. Lỡ như người chủ của chiếc xe rời chỗ làm sớm thì sao?
Đừng mua lấy rắc rối. Nàng tự bảo mình khi nàng thu dọn đống đồ và trượt ra từ dưới gầm xe. Không phải lo lắng về một việc đã không xảy ra thì nàng cũng có đủ vấn đề rồi.
Nàng hi vọng trong lúc nàng ngủ đã đủ thời gian trôi qua để khiến hai kẻ truy đuổi nàng từ bỏ hi vọng tìm được nàng trong khu vực này. Nàng không dám ở lại lâu hơn nữa; nàng phải mạo hiểm để bị nhìn thấy. Nhưng giờ đêm càng tối hơn và càng có ít xe ô tô trên đường phố hơn, những ngôi nhà đã tối om, các cửa hàng đã đóng cả.
Nàng cứng người vì cái lạnh và tư thế bị chèn ép ở dưới gầm xe. Nàng di chuyển chậm rãi, vẫn cúi lom khom thoát khỏi tầm nhìn từ phía sau những chiếc xe. Nhưng cuối cùng cũng không còn chiếc xe nào nữa, chỉ còn một bãi đỗ trống hoác. Lúc đó nàng mới đi thật nhanh, gần như chạy khi nàng hấp tấp đi dọc theo vỉa hè, chiếc túi xách đập vào hông bên trái của nàng và nguồn cung cấp thực phẩm thì đập vào bên phải. Ngay khi nàng ra khỏi hàng rào nàng liền lẩn vào trong bóng tối dày đặc, và bị nuốt chửng bởi đêm đen.